Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Đề án tốt nghiệp ccllct chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.09 KB, 31 trang )

1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do lựa chọn đề án
Với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và
miền núi của Đảng và Nhà nước, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc
gia về giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân vùng đồng bào dân tộc và
miền núi, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu
đãi hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và thu hút các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng
nơng nghiệp, nơng thơn, trong đó có vùng dân tộc và miền núi. Các chính
sách ưu đãi đặc thù khuyến khích, thu hút doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có dự
án đầu tư vào địa bàn khó khăn, vùng dân tộc và miền núi đã đạt được kết quả
nhất định, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thay đổi cơ cấu kinh tế, tạo
nhiều việc làm và tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo v.v. Tuy nhiên, các
chính sách hiện hành đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế, chưa tạo môi trường
pháp lý thuận lợi để thu hút được nhiều dự án đầu tư vào vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn và những lĩnh vực không được Nhà nước đầu tư.
Trong thực tiễn, đầu tư của doanh nghiệp mới chỉ tập trung chủ yếu ở các địa
bàn, các lĩnh vực thuận lợi, cũng là những nơi đã có sự phát triển kinh tế - xã
hội khá hơn. Các doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực có nguồn
đầu tư của Nhà nước như xây dựng hạ tầng giao thông, hạ tầng đơ thị, khu
cơng nghiệp; rất ít doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào phát triển sản xuất như
trồng rừng, xây dựng và vận hành cơ sở chế biến để tạo việc làm và tăng thu
nhập bền vững cho người dân do vậy người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số
chưa được hưởng lợi tương xứng từ các dự án đầu tư về tạo việc làm, nâng
cao thu nhập...
Do xuất phát điểm thấp, điều kiện sản xuất khó khăn, nên sản phẩm làm ra
manh mún, tính đặc sản thì có, nhưng chất lượng không cao và không đồng
đều, điều kiện tiêu thụ trong nước khó khăn, xuất khẩu càng khó hơn. Bà con
chủ yếu đi chợ bán từng “món” hàng, nên chất lượng không ổn định, giá cả
không làm chủ được. Rủi ro thị trường lớn do chất lượng thấp, không kiểm sốt


được quy trình, khơng đảm bảo được u cầu giao dịch của thị trường hiện đại.


2
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhất là kinh tế thị trường tồn cầu
hóa, muốn làm chủ được giá cả thì phải sản xuất với số lượng lớn, chất lượng
phải đồng đều.
Để thay đổi năng lực của người dân miền núi theo năng lực chung của
nền kinh tế địi hỏi phải có thời gian, khơng thể làm nhanh trong một vài năm.
Thay đổi điều kiện sản xuất, cải thiện các điều kiện hỗ trợ thị trường, tăng
cường tác động của công nghệ, giáo dục… đều chậm. Đây là đặc điểm có tính
tổng qt.
Thêm vào đó, trong chiến lược hội nhập, cách tiếp cận của chúng ta để
nhập cuộc vào thị trường thế giới theo hướng hình thành một nguồn cung
lớn, thị trường lớn, về mặt chiến lược quốc gia là chưa rõ ràng, chiến lược
sản phẩm cũng không rõ. Điều đó làm cho q trình tiếp cận thị trường thế
giới của các sản phẩm của nông dân theo đúng nghĩa hiện đại là rất chậm. Ví
dụ, ta chưa có giải pháp bảo đảm quy hoạch vùng sản phẩm và cũng chưa có
hỗ trợ hữu hiệu về mặt chính sách, nên bà con với tính tự phát thường trực,
họ cứ thấy lợi trước mắt là chạy theo, nên dễ phá vỡ quy hoạch. Để khắc
phục tình trạng đó, muốn giữ được quy hoạch thì phải có những ràng buộc
cam kết chặt chẽ và hỗ trợ tích cực cho nơng dân. Nếu đặt vấn đề đấy là
vùng sản phẩm phục vụ giao dịch quốc tế thì phải có chính sách đảm bảo ổn
định về sản phẩm – cả chủng loại, khối lượng và chất lượng, để nông dân
biết phương hướng mà tiếp cận cơng nghệ (giống, kỹ thuật chăm sóc, kỹ
thuật chế biến, bảo quản sau thu hoạch), để biết “tổ chức” thị trường - cả thị
trường đầu ra lẫn thị trường đầu vào - ổn định và chắc chắn hơn. Hiện, nhà
nước chưa có giải pháp hỗ trợ nơng dân và doanh nghiệp giải quyết vấn đề
này một cách hiệu quả.
Ngồi ra, nhà nước hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo. Công việc này đã được nhà

nước thực hiện từ lâu, thường xuyên, liên tục và hiện vẫn đang được tiếp tục,
nhưng cần triển khai hỗ trợ thêm về vốn tín dụng cung cấp cho bà con. Nếu
khơng, càng manh mún, càng nhỏ lẻ, lạc hậu thì càng khó tổ chức được sản xuất
và thị trường một cách chắc chắn, để đảm bảo giảm chi phí và thu Từ tất cả
những đặc điểm đó, sinh ra một vấn đề: Trong tất cả các khâu sản xuất – kinh
doanh nông nghiệp hiện nay, có một khâu rất then chốt, quyết định để giúp nông


3
nghiệp nông thôn, giúp bà con đi lên thị trường vững vàng, chính là khâu doanh
nghiệp. Từ trước tới nay, nơng dân có nỗ lực rất lớn trong sản xuất, nhưng dù nỗ
lực thế nào, họ cũng không thể tự mình đi lên sản xuất lớn được. Ngay cả nhà
nước giúp, như kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nếu chỉ có nhà nước mà thiếu
khâu rất quan trọng là doanh nghiệp, thì nơng nghiệp khơng thể lên sản xuất lớn,
hiện đại được. Phải có doanh nghiệp, doanh nghiệp phải vào cuộc thì nơng
nghiệp nơng thơn mới chuyển sang phương thức sản xuất mới được.
Những hạn chế trong khuyến khích, thu hút doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan, đó là bất
cập về thể chế, chính sách và một số vấn đề trong tổ chức thực hiện chính
sách, cụ thể là:
Thứ nhất, khó khăn về điều kiện tự nhiên, hạ tầng kinh tế xã hội yếu kém.
Thứ hai, về thể chế cịn có những bất cập, chưa có chính sách ưu đãi đặc
thù thu hút doanh nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi.
Thứ ba, chính sách ưu đãi hiện hành quy định mức hỗ trợ còn thấp, chưa
đủ để tạo ra động lực khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào vùng
dân tộc, miền núi.
Thứ tư, cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương có vùng dân tộc, miền núi
gặp khó khăn về nguồn lực khó có thể huy động để hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư.
Thứ năm, doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư ở vùng

dân tộc, miền núi.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài “Chính sách ưu đãi nhằm
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào vùng Dân tộc và Miền núi” để làm đề
án tốt nghiệp chương trình đào tạo Cao cấp lý luận chính trị tại Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
1.2. Mục tiêu của đề án
1.2.1. Mục tiêu chung
Tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc nhất về đời sống,
sản xuất; từng bước cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho hộ dân tộc thiểu
số nghèo, hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn; góp phần giảm nghèo bền


4
vững, giảm dần chênh lệch trong phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và
miền núi với các vùng khác trong cả nước.
- Ưu đãi, hỗ trợ đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi với mức cao hơn
các vùng khác để tạo cơ chế thu hút doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đầu tư vào
địa bàn này khai thác lợi thế tiềm năng của từng vùng, nhằm góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi với tốc độ nhanh hơn;
- Hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế sử dụng
nhiều lao động, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, từng bước thay đổi cơ cấu
lao động từ nơng nghiệp sang phi nơng nghiệp, góp phần tạo việc làm cho
người lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở vùng dân tộc và miền
núi. Tạo điều kiện phát triển và gia tăng giá trị cho hoạt động sản xuất tại địa
phương, góp phần làm tăng thu nhập của người dân.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đến năm 2018: Có trên 50.000 doanh nghiệp và 100.000 cơ sở sản
xuất, kinh doanh trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi.
- Đến năm 2021: Có trên 100.000 doanh nghiệp và 200.000 cơ sở sản
xuất, kinh doanh trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi.

1.3. Nhiệm vụ của đề án
Để góp phần thực hiện cơng cuộc xố đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế
- xã hội, tạo được nhiều việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho đồng
bào dân tộc thiểu số, rút ngắn khoảng cách giữa vùng đồng bào dân tộc và
miền núi với các vùng khác, bảo đảm công bằng xã hội và khắc phục những
khó khăn, tồn tại trong việc triển khai thực hiện chính sách ưu đãi của Nhà
nước đối với đồng bào dân tộc trong thời gian qua cần tạo ra một môi trường
pháp lý thuận lợi đủ sức thu hút được nhiều dự án đầu tư của doanh nghiệp
vào vùng dân tộc và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Do vậy, việc xây dựng
Đề án về chính sách ưu đãi đặc thù khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu
tư vào vùng dân tộc và miền núi là hết sức cần thiết.
1.4. Giới hạn của đề án
1.4.1. Đối tượng
Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc hợp tác xã (theo quy định của Luật
Đầu tư) có các Dự án ưu đãi đầu tư trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi.


5
1.4.2. Địa bàn
Các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008
của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với
62 huyện nghèo;
1.4.3. Thời gian. Từ năm 2018-2021.


6
Phần 2. NỘI DUNG
2.1. Căn cứ xây dựng đề án
2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng nhiệm vụ xây dựng kinh

tế là nhiệm vụ của doanh nghiệp, doanh nhân. Xác định việc nước việc nhà
phải đi đơi với nhau, đó là lời dạy rất quan trọng của Người đối với doanh
nhân trong sự nghiệp làm giàu, trong việc phụng sự đất nước, phụng sự nhân
dân, là yêu cầu cơ bản của đạo đức, văn hóa kinh doanh và trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp. Đây là sự khẳng định về mối quan hệ mật thiết giữa
công việc của giới doanh nhân và sự nghiệp của đất nước. Hoạt động kinh
doanh của các nhà cơng nghiệp, thương nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với
sự trường tồn của dân tộc. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng thì kinh doanh
cơng thương thịnh vượng. Kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương
nghiệp thịnh vượng thì đất nước giàu mạnh. Nhiệm vụ quan trọng nhất của
giới công thương là đem vốn vào làm những việc ích quốc lợi dân. Chính
phủ phải có trách nhiệm với giới công thương. Miền núi nước ta tài nguyên
rất phong phú, có nhiều khả năng để mở mang các ngành nơng nghiệp và
cơng nghiệp. Những điều đó cho thấy rằng miền núi có một vị trí cực kỳ
quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phịng của cả nước. Đảng và Chính
phủ ta đã có chính sách rất đúng đắn đối với miền núi, trong đó có hai điều
quan trọng nhất là: Đoàn kết dân tộc và nâng cao đời sống của đồng bào.
Những lời nói của Bác cách đây hơn 60 năm về bình đẳng dân tộc, về sự
giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc để đồng bào các dân tộc thiểu số có đời
sống vật chất và tinh thần ngày càng cao hơn đang được Đảng và Chính phủ
tiếp tục phát huy. Chúng ta đã có các dự án để phát triển kinh tế của miền
núi, thành lập quỹ “Xố đói, giảm nghèo”, xây dựng các bệnh viện chăm sóc
sức khoẻ cho nhân dân, xây dựng thêm nhiều trường học, trong đó có các
trường dân tộc nội trú, chế độ cử tuyển ưu tiên dành cho học sinh các dân
tộc thiểu số vào các trường đại học, đào tạo những cán bộ tương lai cho các
tỉnh miền núi… là thực hiện mong muốn của Bác Hồ “Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hố, nhằm khơng ngừng nâng cao
đời sống của nhân dân”



7
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội tồn quốc lần thứ X của Đảng, Chính phủ đã có
Chương trình hành động ban hành kèm theo Nghị quyết số 22/NQ-TƯ ngày
28/5/2009.
Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 04/01/2011 của Chính phủ về công
tác dân tộc và Chỉ thị số 1971/CT-TTg ngày 27/10/2010 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường công tác dân tộc thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã xác định “tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các tổ chức, cá nhân,
doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển ở vùng dân tộc
thiểu số; ưu tiên đặc biệt đối với dân tộc thiểu số rất ít người và vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn”.
Quyết định 2085/QĐ-TTg ngày 31/10/2016 về Phê duyệt chính sách
đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi
giai đoạn 2017-2020.
2.1.3. Căn cứ thực tiễn
Trong phạm vi nghiên cứu của Đề án này, có thể đánh giá về tình hình
các doanh nghiệp tại vùng dân tộc và miền núi trên một số mặt như sau:
2.1.3.1. Số lượng doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn dân tộc, miền núi
có tăng lên nhưng vẫn thấp hơn so với cả nước.
Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2016 là 26.689 doanh
nghiệp, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm 2015. Đây là số doanh nghiệp đã tạm
ngừng kinh doanh trước đây, nay quay trở lại hoạt động. Con số này rất đáng
mừng, cho thấy một số lượng tương đối lớn doanh nghiệp đã tìm thấy cơ hội
kinh doanh và niềm tin vào thị trường. Trong năm 2016, số lượng doanh
nghiệp quay trở lại hoạt động tại bảng 1 phân theo vùng lãnh thổ tăng ở hầu
hết các vùng so với cùng kỳ năm 2015, cụ thể: khu vực Tây Nguyên có 817
doanh nghiệp, tăng 34,4%; tiếp đó là vùng Đơng Nam Bộ có 11.320 doanh

nghiệp, tăng 29,4%; Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có 3.780 doanh
nghiệp, tăng 26,7%; Đồng bằng Sơng Hồng có 7.251 doanh nghiệp, tăng
21,7% và Đồng bằng Sơng Cửu Long có 2.434 doanh nghiệp, tăng 16,7%;


8
duy nhất vùng Trung du và miền núi phía Bắc có 1.087 doanh nghiệp, giảm
3,0%.   Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê thì nếu so với 4 vùng khác
trong nước (Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, Đông Nam bộ, Đồng
bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu long), Tây Nguyên và Trung du
miền núi phía Bắc là hai vùng kinh tế có tỷ lệ phát triển doanh nghiệp thấp
nhất trong 6 vùng kinh tế.
2.1.3.2. Doanh nghiệp ở vùng dân tộc và miền núi tăng trưởng khá
cao về một số mặt, nhưng về quy mơ cịn rất nhỏ bé.
Xét về tốc độ phát triển có một số chỉ tiêu doanh nghiệp ở vùng dân
tộc và miền núi tăng khá so với bình qn chung đó là về tốc độ tăng của
các chỉ tiêu: doanh thu, lợi nhuận trước thuế và nộp ngân sách. Tuy nhiên,
so với vùng đô thị, nơng thơn đồng bằng thì doanh nghiệp ở vùng dân tộc
và miền núi cịn rất nhỏ bé về quy mơ. Tại thời điểm 31/12/2015, so với
cả nước, doanh nghiệp của vùng kinh tế Tây nguyên chỉ chiếm 3,2% số
doanh nghiệp, 2,6% số lao động, 1,6% vốn kinh doanh, 2% doanh thu,
1,1% lợi nhuận và 1,1% nộp ngân sách nhà nước. Các chỉ tiêu của doanh
nghiệp ở vùng kinh tế Trung du miền núi phía Bắc cũng chiếm tỷ lệ rất
thấp trong tổng thể doanh nghiệp cả nước, mặc dù vùng này có đến 14
tỉnh nhưng chỉ cao hơn khơng đáng kể so với vùng Tây nguyên với các
chỉ tiêu tương ứng: 5,6% số doanh nghiệp, 5,7% số lao động, 1,8% vốn
kinh doanh, 2,5% doanh thu, 1,1% lợi nhuận và 1,4% nộp ngân sách nhà
nước so với cả nước.
Từ những chỉ tiêu cơ bản đó, tính được các chỉ tiêu phản ánh quy mô
và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, thu nhập của người lao động

trong doanh nghiệp ở vùng dân tộc và miền núi. So sánh trên những chỉ
tiêu bình quân (theo doanh nghiệp, theo lao động) sẽ thấy doanh nghiệp ở
miền núi và vùng dân tộc ít lao động hơn, nguồn vốn và tài sản cố định,
đầu tư dài hạn bằng 30% – 60% bình quân chung cả nước, doanh thu
thuần phổ biến bằng từ 50% - 80%, thuế và nộp ngân sách bằng 25% –
40%. Thu nhập bình quân của người lao động bằng 50% – 70% bình quân
cả nước.


9
2.1.3.3. Xu hướng phát triển đầu tư của doanh nghiệp ở vùng dân tộc,
miền núi vẫn tiếp tục tăng lên, ở một số tỉnh tăng khá mạnh.
Lai Châu là tỉnh rất khó khăn về mọi mặt, vào thời điểm tách tỉnh chỉ có
72 doanh nghiệp đang hoạt động, tính đến nay, tổng số doanh nghiệp trên địa
bàn toàn tỉnh là 957 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký hơn 9.500 tỷ đồng
và 253 hợp tác xã đang hoạt động. Tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, chính
sách ưu đãi khuyến khích đầu tư và danh mục dự án kêu gọi thu hút đầu tư
như: Quyết định số 02/2004/QĐ-UBND ngày 10/3/2004 về việc Ban hành
Quy chế quản lý và chính sách ưu đãi đối với Khu KTCK Ma Lù Thàng;
QĐ12/2008 của UBND tỉnh ban hành chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư
trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 08/2013/QĐ-UBND ngày 03/6/2013 của
UBND tỉnh về việc Ban hành quy định về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư,
trình tự, thủ tục thực hiện ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh Lai Châu;
Quyết định 1003/QĐ-UBND ngày 03/8/2010 và 315/QĐ-UBND ngày
29/3/2012 về việc phê duyệt danh mục các dự án kêu gọi thu hút đầu tư trên
địa bàn tỉnh Lai Châu; Các chính sách hỗ trợ các đơn vị doanh nghiệp tham
gia trồng rừng; QĐ 23/2008 ban hành quy định tạm thời chính sách hỗ trợ
chuyển đổi đất và hỗ trợ đầu tư phát triển cao su đại điền trên địa bàn tỉnh Lai
Châu; QĐ75/2006 ban hành chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp giai
đoạn 2006 - 2010; QĐ441 của UBND tỉnh về việc ban hành tạm thời chính

sách hỗ trợ đầu tư và cơ chế quản lý vùng nguyên liệu chè tập trung trên địa
bàn tỉnh. Ngồi các chính sách, chế độ ưu đãi được hưởng theo pháp luật, các
doanh nghiệp, nhà đầu tư khi đầu tư vào Lai châu cịn được hưởng chính sách
ưu đãi về thuế, đất đai, bảo lãnh tín dụng. Sau hơn 10 năm chia tách và thành
lập, Lai Châu đã thu hút được hơn 160 dự án của các nhà đầu tư trong và
ngồi nước với tổng số vốn đăng kí đạt gần 83.000 tỷ đồng. Trong đó có 19
dự án đầu tư vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp, thủy sản với tổng số vốn đăng kí
gần 4.500 tỷ đồng. Về phát triển doanh nghiệp, tính đến nay, tổng số doanh
nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh là 957 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký
hơn 9.500 tỷ đồng và 253 hợp tác xã đang hoạt động (trích theo trang tin điện
tử của Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Lai Châu)


10
2.1.3.4. Việc đầu tư của các doanh nghiệp ở vùng dân tộc và miền núi
cịn gặp nhiều khó khăn
- Đầu tư của doanh nghiệp mới chỉ tập trung chủ yếu ở các địa bàn, lĩnh
vực thuận lợi, cũng là những nơi đã có sự phát triển kinh tế – xã hội khá hơn.
Tại những vùng sâu, nơi kinh tế - xã hội kém phát triển có rất ít doanh nghiệp
vào hoạt động đầu tư. Phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư rộng, bao quát toàn
bộ hoạt động đầu tư, nên một số quy định còn chồng chéo với các luật khác,
như: Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu, Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường..., nhất là các vấn đề liên quan đến quy trình,
thủ tục và thực hiện đầu tư. Ngay trong Luật Đầu tư, từ Điều 27 đến Điều 29
của mục I, chương V, các địa phương hiểu không giống nhau và cũng khơng có
cơ quan nào đứng ra hướng dẫn thi hành, nên có nơi hiểu là: Ngồi các lĩnh vực
cấm đầu tư (Điều 30), thì ở địa bàn đặc biệt khó khăn và khó khăn được
khuyến khích ưu đãi đầu tư cho mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác. Về
danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư, được áp dụng theo Nghị định số 108,
đến khi thực hiện Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Chính phủ lại ban hành

Nghị định số 124/2008/NĐ-CP với quy định riêng về danh mục ưu đãi đầu tư,
dẫn đến sự chồng chéo, khơng thống nhất trong q trình tổ chức thực hiện.
- Đầu tư của doanh nghiệp ở địa bàn vùng dân tộc, miền núi cũng mới
tập trung ở những lĩnh vực có nguồn đầu tư của Nhà nước, như xây dựng hạ
tầng giao thông, hạ tầng đô thị, khu công nghiệp. Trong những lĩnh vực trên,
doanh nghiệp là bên làm thuê. Điều này khác với những dự án đầu tư mà
doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào sản xuất như trồng rừng, xây dựng và vận
hành cơ sở chế biến để hoạt động lâu dài.
Những doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng cơng trình do Nhà nước
đầu tư đã góp phần nhất định vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
nhưng việc đầu tư của họ phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn của Nhà nước do
đó việc góp phần vào khai thác tiềm năng của vùng dân tộc, miền núi ở mức
thấp hơn so với các dự án đầu tư vào sản xuất.
- Các dự án đầu tư ở vùng dân tộc, miền núi chưa mang lại nhiều lợi ích
cho người dân trên địa bàn. Người lao động ở vùng dân tộc tham gia vào hoạt
động của các dự án đầu tư không nhiều, đặc biệt là ở những khâu cơng việc địi


11
hỏi trình độ chun mơn phải qua đào tạo. Tình trạng này khơng chỉ thiệt thịi
cho người lao động tại chỗ mà cịn là khó khăn của doanh nghiệp đầu tư ở địa
bàn này.
- Trong khi nhiều doanh nghiệp có dự án đầu tư thuận lợi thì vẫn cịn khá
nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư, vận hành
dự án đầu tư. Những khó khăn phổ biến mà doanh nghiệp gặp phải là trong
các khâu tìm hiểu thơng tin mơi trường, cơ hội đầu tư; tiếp cận nguồn vốn,
tham gia các chương trình, chính sách hỗ trợ, xử lý các vướng mắc trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh.
Tóm lại, xem xét về quy mơ vùng kinh tế thì doanh nghiệp ở vùng dân
tộc và miền núi tuy có sự tăng nhanh về số lượng nhưng quy mơ cịn rất nhỏ

bé so với các vùng còn lại trong cả nước. So sánh ở cấp độ doanh nghiệp thì
doanh nghiệp ở vùng dân tộc và miền núi đã có sự phát triển khá, thể hiện qua
số lao động tăng, nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh tăng nhanh, doanh
thu tăng ổn định, thuế và các khoản nộp ngân sách, lợi nhuận của doanh
nghiệp tăng khá cao nhưng doanh nghiệp ở địa bàn này vẫn còn rất ít, thu
nhập của người lao động thấp hơn so với doanh nghiệp ở vùng khác.
2.2.Nội dung cơ bản của đề án
2.2.1. Thực trạng của vấn đề cần giải quyết mà đề án hướng đến
2.2.1.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh vùng dân tộc
và miền núi.
Với đường lối đúng đắn của Đảng, chính sách của Nhà nước, sự chỉ đạo
quyết liệt của Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương, các cấp ở địa phương
cùng với nguồn lực đầu tư và với sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của đồng bào
các dân tộc, kết quả đã làm thay đổi rõ nét bộ mặt nông thôn vùng dân tộc và
miền núi. Sản xuất một số vùng đã có bước phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên từng
bước, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 9,64%, giảm 2,12 % so với năm 2011. 1 Theo
báo cáo các địa phương vùng dân tộc và miền núi chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo
đều đạt và vượt: Các tỉnh vùng Đông bắc giảm 3,62%, Tây Bắc giảm 4,47%,
Tây nguyên giảm 3,04%, đồng bằng sông Cửu Long giảm 2,15%. Kết cấu hạ
1

Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.


12
tầng kinh tế - xã hội thay đổi rõ rệt: 98,6% xã có đường ơ tơ đến trụ sở UBND
xã; có 99,8% số xã và 95,5% số thơn có điện.2
Sản xuất nông lâm nghiệp vùng dân tộc và miền núi đang có chuyển biến
tích cực. Những nơi có điều kiện thuận lợi đang hình thành những vùng

chuyên canh, trang trại sản xuất hàng hóa tập trung. Những nơi khó khăn
đang được quy hoạch sắp xếp lại, hỗ trợ sản xuất và đời sống giúp đồng bào
định canh định cư. Giống mới, dịch vụ bảo vệ thực vật, kỹ thuật bảo quản
nông sản sau thu hoạch đang được người dân ứng dụng ngày một nhiều hơn.
Cuộc sống của người dân khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đang từng
bước gắn với lợi ích từ việc khoanh ni và bảo vệ rừng.
Sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho các dân tộc
thiểu số có tiến bộ: Đã cơ bản xóa mù chữ và phổ cập giáo dục phổ thông bậc
tiểu học và trung học cơ sở; loại hình trường nội trí, bán trú phát triển hầu hết
(khoảng 50) dân tộc thiểu số có người học đến đại học, cao đẳng. Mạng lưới y
tế phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh – huyện và trạm y tế xã đã được quan
tâm đầu tư, 99,39% xã có trạm y tế, 77,8% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế 3.
Mạng lưới thơng tin, văn hố, thể thao nơng thơn đã có sự phát triển nhanh,
góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào.
Tuy nhiên, vùng dân tộc và miền núi vẫn còn đứng trước những khó
khăn, yếu kém như:
- Kinh tế chậm phát triển so với tiềm năng của vùng và chưa vững chắc.
Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Sản phẩm của nông dân
sản xuất ra chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, sức cạnh tranh và hiệu quả
kinh tế thấp.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu và yếu kém, chưa đáp ứng u
cầu phát triển: Hiện cịn 535/1.848 xã chưa có đường nhựa đến trung tâm xã,
chỉ đi được một mùa khô; 14.093 thơn, bản chưa có đường ơ tơ; 204/1.848 xã
chưa có điện lưới quốc gia đến trung tâm xã và trên 8.100 thôn, bản chưa
được sử dụng điện lưới quốc gia... 4 Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
ĐBKK, vùng dân tộc thiểu số là những vùng có địa hình hiểm trở, khơng
2 , 3
3
4


Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 của Tổng cục Thống kê


13
thuận lợi cho giao thương, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, thị
trường chưa phát triển, các chính sách hỗ trợ hiện hành chưa đủ mạnh, trong
khi việc tiếp cận chính sách cịn khó khăn; một số chính sách chưa phù hợp
với đặc thù của những địa bàn này và đặc biệt khó khăn về giao thông đi lại là
những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng tới việc thu hút đầu tư vào địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số.
- Đời sống của đồng bào cịn nhiều khó khăn: Những năm qua, được sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước, nhiều chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc
miền núi đã được ban hành và thu được những thành tựu quan trọng. Trước kia
tỷ lệ hộ nghèo cao hơn nhiều, chiếm 70-80%, thậm chí có vùng dân tộc chiếm
tới 90%. Gần đây, các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã thật sự thay đổi, bộ
mặt nơng thơn có nhiều khởi sắc, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm một cách ấn tượng
trong khi sự hỗ trợ của Nhà nước còn ở mức độ giới hạn. Tuy nhiên, Ủy ban
Dân tộc chưa bằng lòng với kết quả đó, bởi khoảng cách giàu - nghèo giữa các
vùng dân tộc miền núi và tỷ lệ chung của cả nước cịn rất lớn. Trong khi cả
nước chỉ có trên 5% tỷ lệ hộ nghèo, thì vùng đồng bào dân tộc chiếm hơn 40%.
Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo vùng dân tộc và miền núi cao nhất cả
nước. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi Tây Bắc năm 2012 là: 28,55%, miền
núi Đông Bắc 17,39%; Tây Nguyên 15,58%; các tỉnh Bắc Trung bộ 15,01% 5.
Các xã đặc biệt khó khăn có tỷ lệ hộ nghèo là 45%, cá biệt có những xã, thơn,
nhóm dân tộc rất ít người tỷ lệ nghèo lên tới trên 90% 6. Kết quả giảm nghèo
thiếu tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao.
- Chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi
thấp: Còn tới 21% người dân tộc thiểu số (trong độ tuổi đi học trở lên) không
biết đọc, biết viết chữ phổ thông. Số người trong độ tuổi lao động của vùng
chưa qua đào tạo chiếm tới 89,5%; riêng dân tộc thiểu số chưa qua đào tạo

chiếm 94,2% (cao nhất là dân tộc Mông 98,7%, Khmer 97,7%, Thái 94,6%,
Mường 93,3%); chất lượng đào tạo nghề thấp 7.
5

và 6 Văn kiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo các xã, thôn, bản ĐBKK vùng dân tộc
và miền núi năm 2014 – 2015 và giai đoạn 2016 – 2020.
64,5

Đề án Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Ủy
ban Dân tộc.
7


14
2.2.1.2. Các chính sách hiện hành về khuyến khích, thu hút doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi.
Trước tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi, hoạt động đầu
tư vào sản xuất, xác định việc kinh doanh của các doanh nghiệp ở vùng dân
tộc và miền núi là rất quan trọng để góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa
bàn. Xác định rõ vai trò của doanh nghiệp, trong nhiều năm qua Chính phủ đã
có nhiều chính sách nhằm khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào địa
bàn vùng dân tộc và miền núi.
Luật Đầu tư Luật Đầu tư 2005 ra đời và các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan đã thống nhất được Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước, bước đầu đã tạo ra khuôn khổ pháp lý thống
nhất về đầu tư; phạm vi của Luật đã điều chỉnh khá toàn diện về hoạt động
đầu tư, trên các lĩnh vực: Hoạt động đầu tư tại Việt Nam; đầu tư từ Việt Nam
ra nước ngoài, với hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp; đầu tư từ nguồn
vốn nhà nước và tư nhân; đầu tư của nhà đầu tư trong nước và của nhà đầu tư
nước ngồi... minh bạch, thơng thống và phù hợp với thông lệ quốc tế, nên

đã huy động được nguồn lực to lớn của các thành phần kinh tế cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói chung và địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nói riêng; sau khi có Nghị định số 108/2006/NĐ-CP,
ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Đầu tư và trên cơ sở các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung
ương, nhiều tỉnh đã ban hành các cơ chế, chính sách riêng để thu hút, kêu gọi
đầu tư trên địa bàn. Các địa phương đã quan tâm chỉ đạo, thực hiện cải cách
thủ tục hành chính, từng bước cơng khai, minh bạch về trình tự, thủ tục, hồ sơ
và các chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư trên địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Nghị định số 108/2006/NĐ-CP đã có các
quy định ưu đãi đầu tư theo địa bàn và lĩnh vực đầu tư. Các dự án đầu tư
thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư và ở địa bàn ưu đãi đầu tư được hưởng các ưu
đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và các quy định pháp
luật khác (về thuế, sử dụng đất, chuyển giao công nghệ, đào tạo, dịch vụ đầu
tư ...) Đại bộ phận địa bàn vùng dân tộc, miền núi là thuộc địa bàn ưu đãi đầu
tư, nên mặc dù chưa có chính sách ưu đãi đầu tư riêng cho vùng dân tộc và


15
miền núi nhưng các doanh nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi đã được
hưởng các ưu đãi (với điều kiện đầu tư vào lĩnh vực được ưu đãi đầu tư).
Sau đây là các chính sách hiện hành ưu đãi đầu tư để khuyến khích, thu
hút doanh nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi:
- Chính sách ưu đãi về đất đai: Chính sách về đất đai đã cho phép các
doanh nghiệp đầu tư ở địa bàn ưu đãi đầu tư kéo dài thời gian sử dụng đất;
miễn, giảm tiền sử dụng đất trong trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng đất;
miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước (đối với đất, mặt nước được Nhà
nước cho thuê).
- Chính sách ưu đãi về thuế: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy định
ưu đãi về thuế suất, về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để thu hút đầu
tư vào những lĩnh vực, những địa bàn cần khuyến khích đầu tư bao gồm các

Dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu
đãi đầu tư và thực hiện tại khu kinh tế hoặc tại khu công nghiệp được thành
lập tại địa bàn thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn; Thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm áp dụng đối với:
Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn;
Hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư thuộc danh
mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư, ưu đãi đầu tư hoặc của dự án đầu tư vào
địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn được miễn thuế nhập khẩu.
- Chính sách ưu đãi về tín dụng: Các dự án đầu tư tại “địa bàn có điều kiện
kinh tế – xã hội khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống
tập trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương trình
120, các xã vùng bãi ngang” thuộc danh mục các dự án được vay vốn tín dụng
đầu tư của Nhà nước. Dự án đầu tư có thể được vay đầu tư, được hỗ trợ sau đầu
tư hoặc được bảo lãnh tín dụng đầu tư; Thương nhân hoạt động thương mại tại
vùng khó khăn thuộc đối tượng được vay vốn tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp.
- Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về đào tạo nhân lực, về sử dụng lao
động là người dân tộc thiểu số: Doanh nghiệp được hưởng các hỗ trợ về đào
tạo, về bảo hiểm xã hội, về định mức lao động đối với lao động là người dân


16
tộc thiểu số; Miễn tiền thuê đất đối với doanh nghiệp có sử dụng lao động là
người dân tộc thiểu số từ 30% số lao động trở lên; Doanh nghiệp ở vùng dân
tộc và miền núi còn được hỗ trợ đào tạo nhân lực theo chính sách hỗ trợ lao
động nơng thơn.
- Ngồi ra, các doanh nghiệp cịn được hỗ trợ theo chính sách doanh
nghiệp nhỏ và vừa, chính sách khuyến khích phát triển cơng nghiệp nơng
thơn, chính sách phát triển ngành nghề nông thôn. Đặc biệt, Nghị định số
201/2013/NĐ-CP, ngày 19/12/2013 của Chính phủ quy định về chính sách

khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nơng nghiệp, nơng thơn. Nghị định
này quy định một số ưu đãi và hỗ trợ đầu tư bổ sung của Nhà nước dành cho
các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn như:
+ Ưu đãi về đất đai: miễn, giảm tiền sử dụng đất; miễn giảm tiền thuê
đất, thuê mặt nước của Nhà nước; hỗ trợ thuê đất, thuê mặt nước của hộ gia
đình, cá nhân; miễn giảm tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất.
+ Hỗ trợ đầu tư về: đào tạo nguồn nhân lực; phát triển thị trường; dịch vụ
tư vấn; áp dụng khoa học công nghệ và hỗ trợ cước phí vận tải.
Ngồi ra, Nghị định này có điểm nổi bật là có một số quy định về hỗ
trợ cụ thể cho các cơ sở sản xuất, chăn ni, chế biến, bảo quản nơng, lâm
thủy sản,..
2.2.1.3. Chính sách ưu đãi hiện hành chưa tạo ra sự khuyến khích,
thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc, miền núi.
Mặc dù đã có khá nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ, các chính sách này
bao quát hầu hết các mặt cần quan tâm ưu đãi của hoạt động đầu tư, nhưng
còn một số điểm chưa phù hợp hoặc mức độ ưu đãi chưa đủ mạnh để tạo ra
sức thu hút doanh nghiệp đầu tư.
- Ưu đãi về đất đai: Các quy định về thu tiền tiền sử dụng đất, tiền thuê
đất, thuê mặt nước (thuê của Nhà nước) cịn khá cao đối với nơng nghiệp,
nơng thơn và chưa có chính sách cụ thể ưu đãi cho từng vùng đặc biệt là vùng
dân tộc và miền núi.
- Ưu đãi về thuế: Điểm chưa phù hợp là việc áp dụng thuế suất ưu đãi lại
tính ngay từ khi doanh nghiệp có doanh thu mà khơng cần biết doanh nghiệp
có lãi hay không. Thông thường các doanh nghiệp mới thành lập đi vào hoạt


17
động thì trong vài ba năm đầu thường bị lỗ hoặc chưa có lãi. Đối với doanh
nghiệp hoạt động ở vùng dân tộc và miền núi tình trạng này lại càng phổ biến
hơn. Trong thời gian đầu hoạt động doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn. Do

đó, quy định ưu đãi về thuế suất bị giảm tác dụng rất nhiều đối với doanh
nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi, vì cho dù có được hưởng thuế
suất ưu đãi mà doanh nghiệp chưa có thu nhập để nộp thuế thì ưu đãi cũng
như khơng.
- Hỗ trợ về nguồn vốn: Chính sách hỗ trợ về tín dụng hiện hành đã được
quy định trong 2 văn bản về tín dụng đầu tư và cho vay đối với thương nhân ở
vùng khó khăn. Tuy nhiên, doanh nghiệp ở vùng dân tộc và miền núi rất khó
khăn để có thể tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi này. Định mức cho vay tối đa 500
triệu đồng trong thời hạn không quá 5 năm (Quyết định 92/2009/QĐ-TTg ngày
8/7/2009) cũng được đánh giá là thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh
nghiệp. Nguyên nhân là nguồn lực của các ngân hàng được giao nhiệm vụ cho
vay bị hạn chế, mặt khác còn do các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc
doanh bị phân biệt đối xử trong tiếp cận nguồn vốn (đây cũng là vấn đề chung
của nền kinh tế đã được đề cập nhiều trong thời gian dài vừa qua, mà vùng
dân tộc và miền núi khơng là ngoại lệ).
- Chính sách hỗ trợ sử dụng lao động: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
năm 2008 đã có quy định ưu đãi hỗ trợ cho doanh nghiệp sử dụng lao động là
người dân tộc thiểu số, nhưng trong vấn đề này cũng còn 2 điểm chưa hợp lý,
đó là:
Điểm thứ nhất: Trong thời gian đầu khi đi vào hoạt động, thường cũng là
lúc doanh nghiệp phải đào tạo nghề cho người lao động, các khoản chi phí
như nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cũng phát sinh ngay. Thời gian này
cũng là thời gian doanh nghiệp khó có lãi nên cũng chưa có thu nhập để nộp
thuế. Vì vậy, quy định ưu đãi bằng cách giảm trừ vào thuế thu nhập phải nộp
những chi phí trên cũng khơng có tác dụng.
Điểm thứ hai: Quy định về giảm định mức lao động đối với lao động là
người dân tộc thiểu số hiện chưa đủ để khuyến khích doanh nghiệp tích cực
sử dụng nhiều lao động là người dân tộc. Đồng bào dân tộc ít người do tập
quán sinh hoạt và lao động có nhiều khác biệt, trình độ văn hố và nghề



18
nghiệp cịn thấp cho nên khó thích ứng với mơi trường lao động trong doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch
vụ. Sẽ phải mất một thời gian dài mới có thể đảm bảo cho lao động là người
dân tộc ít người có kỷ luật lao động, năng suất lao động như những lao động
khác. Tất cả những vấn đề đó doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu. Việc quy định
áp dụng định mức bằng 80% định mức chung cho lao động là người dân tộc ít
người cũng chỉ người lao động được hưởng lợi, cịn doanh nghiệp thì phải
chịu chi phí tăng mà khơng được Nhà nước hỗ trợ. Nó sẽ làm ảnh hưởng đến
hiệu quả, khả năng cạnh tranh và nói rộng hơn là khả năng tồn tại của doanh
nghiệp. Vì vậy, nếu chỉ hỗ trợ như chính sách hiện hành thì chỉ có doanh
nghiệp Nhà nước sử dụng lao động là người dân tộc.
+ Các chính sách hỗ trợ khác như (hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,
khuyến công, làng nghề...) là những chính sách được thực hiện thơng qua các
chương trình. Nguồn lực của các chương trình hạn chế nên việc doanh nghiệp
được hưởng hỗ trợ cũng rất thấp và không đồng đều.
2.2.1.4. Chưa có chính sách ưu đãi, thu hút đặc thù riêng cho doanh
nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi.
Chính sách thu hút đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi hiện hành chưa
đáp ứng được những đặc thù của địa bàn này. Vùng dân tộc và miền núi hầu
hết ở xa các trung tâm phát triển, do địa hình và điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt, giao thông đến các thị trường tiêu thụ lớn trong nước, cảng xuất khẩu
cịn nhiều khó khăn, địi hỏi chi phí lớn; nguồn lao động tại chỗ khơng có sẵn
về số lượng và đặc biệt là chất lượng, trình độ tay nghề; các dịch vụ phụ trợ
thiếu thốn; trình độ phát triển kinh tế – xã hội nói chung thấp xa so với các
vùng khác. Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp. Việc ban hành các văn
bản hướng dẫn thực hiện luật, chính sách ưu đãi đầu tư còn chậm, thiếu đồng
bộ, nhiều nội dung thường xuyên thay đổi, bổ sung (đặc biệt là trong lĩnh vực
đất đai) dẫn đến việc khó áp dụng, lúng túng trong thực hiện. Một số nội dung

chưa được hướng dẫn hoặc hướng dẫn cịn chung chung, khơng rõ trách nhiệm,
nhất là quy định về trách nhiệm của nhà đầu tư đối với địa phương trước, trong
quá trình đầu tư, khai thác, sản xuất kinh doanh. Hiện tại, theo quy định của
Luật đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành thì các địa phương khơng


19
được ban hành các ưu đãi, hỗ trợ riêng cao hơn mức quy định của các văn
bản do Trung ương ban hành; các hỗ trợ ngoài hàng rào chỉ áp dụng cho khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Do đặc điểm của
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thường xa các trung tâm
kinh tế lớn, các nguồn lực để phát triển sản xuất kinh doanh còn yếu kém, do
đó nếu khơng có các cơ chế thu hút, ưu đãi, hỗ trợ đặc thù sẽ rất khó thu hút
đầu tư vào địa bàn này.
Trong những điều kiện khó khăn như vậy, lại chưa có chính sách
khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư phù hợp với đặc thù của vùng
nên đã hạn chế hoạt động đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực mà địa bàn
này cần phát triển.
2.2.1.5. Cơ quan quản lý Nhà nước ở vùng dân tộc, miền núi cịn gặp
khó khăn về nguồn lực, khó có thể huy động để hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư.
Ngoài các quy định chính sách của Chính phủ được các tỉnh thực thi
trên địa bàn, cấp tỉnh còn hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư từ nguồn ngân sách
địa phương. Những hỗ trợ này thường được sử dụng cho hỗ trợ giải phóng
mặt bằng, san lấp... đối với doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng trong
khu công nghiệp...
Nguồn thu ngân sách của hầu hết các tỉnh thuộc vùng dân tộc và miền
núi đều hạn chế. Vì vậy, những hỗ trợ tăng thêm của các tỉnh này để thu hút
doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn cũng không nhiều, thêm nữa các cấp địa
phương cũng rất khó khăn trong việc lựa chọn đối tượng để hỗ trợ: nếu hỗ trợ
ở vùng sâu thì kết quả về tài chính rất thấp, do đó việc tập trung đầu tư cho

vùng trung tâm là xu hướng khó cưỡng lại.
Việc tăng cường nguồn lực và mở rộng cơ chế cho phép cơ quan quản lý
Nhà nước ở địa phương hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư sẽ tạo điều kiện để thu hút
doanh nghiệp đầu tư vào ngành nghề cần phát triển ở từng vùng cụ thể. Đồng
thời với việc tăng thêm quyền cho cơ quan quản lý nhà nước cần phải tăng
cường kiểm tra, hướng dẫn của cơ quan Trung ương và giám sát của người
dân, của doanh nghiệp.


20
2.2.1.6. Các dịch vụ hỗ trợ đầu tư, bao gồm cả những dịch vụ công
kém phát triển, chất lượng thấp.
Một tình trạng khá phổ biến là việc tiếp cận các văn bản về đầu tư ở các
tỉnh vùng dân tộc, miền núi khơng phải là dễ dàng, nhanh chóng. Phần lớn
thông tin mà nhà đầu tư cần đều phải qua tiếp xúc trực tiếp với các cơ quan
quản lý, trong khi các nguồn thông tin khác như dịch vụ tư vấn đầu tư, trang
thông tin điện tử ... chưa được tổ chức tốt. Hiện nay tất cả các tỉnh đều có
cổng thơng tin điện tử nhưng chất lượng cịn rất thấp, cấu trúc thông tin mỗi
cổng một khác và thiếu nhiều dữ liệu nên người cần thông tin không dễ tìm
được.
Thời gian để doanh nghiệp có thể hồn thành thủ tục đầu tư, các thủ tục
khác trong hoạt động tuy đã được rút ngắn nhờ cải cách hành chính, song tiến
bộ là chưa nhiều và chưa đồng đều với mọi doanh nghiệp.
Ngồi ra, một số doanh nghiệp cịn gặp nhiều vướng mắc trong đầu tư,
những vướng mắc này được giải quyết rất chậm, nhiều trường hợp bị xử lý
không đúng. Điều này cũng làm nản lòng các nhà đầu tư khi có nguyện vọng
đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi.
2.2.2. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện
Qua nghiên cứu thực trạng doanh nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc và
miền núi và phân tích các chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư hiện hành, Đề

án chính sách ưu đãi khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào vùng dân
tộc và miền núi với những nội dung như sau:
2.2.2.1 Hỗ trợ bồi thường, giải phóng mặt bằng: Doanh nghiệp có dự
án ưu đãi đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi được ngân sách nhà nước hỗ
trợ 100% kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng khi được giao đất hoặc
thuê đất của Nhà nước để thực hiện dự án.
2.2.2.2 Đầu tư kết cấu hạ tầng: Doanh nghiệp có dự án ưu đãi đầu tư
vào vùng dân tộc và miền núi được ngân sách nhà nước đầu tư 100% vốn làm
đường giao thông, điện, nước đến chân hàng rào của dự án.
2.2.2.3. Hỗ trợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp:
Doanh nghiệp có dự án ưu đãi đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi được
ngân sách Nhà nước hỗ trợ nộp thay doanh nghiệp tiền bảo hiểm xã hội, bảo



×