Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

De an tốt nghiệp ccllct nâng cao chất lượng giảng tại khoa kinh tế, học viện chính trị khu vực i, học viện chính trị quốc gia hồ chí minh giai đoạn 2017 – 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.72 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU ...........................................................................................1
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ ÁN..............................................................................1
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN..........................................................................2
1.2.1. Mục tiêu chung........................................................................................
1.2.2. Mục tiêu cụ thể........................................................................................
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN.........................................................................3
1.4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN...........................................................................3
Phần 2. NỘI DUNG.........................................................................................4
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN.................................................................4
2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận.........................................................................
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý.......................................................................
2.1.3. Căn cứ thực tiễn.....................................................................................
2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN........................................................15
2.2.1. Khái quát về Học viện Chính trị khu vực I và Khoa Kinh tế................
2.2.2.Thực trạng chất lượng giảng dạy của Khoa Kinh tế...............................
2.2.3. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện.....................................................21
2.2.4. Các giải pháp, biện pháp để giải quyết vấn đề......................................
2.3. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN............................................................24
2.3.1. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề án.................................
2.3.2. Các nguồn lực để thực hiện đề án..........................................................
2.3.3. Kế hoạch, tiến độ thực hiện đề án.........................................................
2.3.4. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án.................................................
2.4. DỰ KIẾN HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN.......................................................30
2.4.1. Sản phẩm của đề án...............................................................................
2.4.2. Tác động và ý nghĩa của đề án..............................................................
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................32
3.1. KẾT LUẬN..............................................................................................32
3.2. KIẾN NGHỊ.............................................................................................33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................34



1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ ÁN

Thấm nhần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục con người,
trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm đến công cuộc
chấn hưng giáo dục, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Những phương
châm, biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục lý luận, được nêu ra trong
Nghị quyết số 37 của Bộ chính trị; kết luận của Ban Bí thư (Kết luận số 94)
và Hướng dẫn số 127 của Ban Tuyên giáo Trung ương về mục đích, yêu cầu,
nhiệm vụ đổi mới giảng dạy, học tập các mơn lý luận chính trị là những định
hướng có tính chiến lược đối với các cơ sở đào tạo và đội ngũ giảng viên lý
luận chính trị, nhằm thực hiện thành cơng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 khóa
XI của Đảng “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u
cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Đảng ta đã chỉ
rõ “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý
luận gắn với thực tiễn…tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng,
hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân”[8, tr. 114-115]. Có thể
nói, những nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong thời gian qua
đã đánh dấu một mốc son mới trong công cuộc chấn hưng giáo dục nước
nhà, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, góp phần giữ vững mục tiêu
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, Khoa Kinh tế, Học viện Chính trị khu vực I đã
thường xuyên chăm lo tới việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên
nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới; chủ động rà soát, tích cực nghiên cứu,

bổ sung, chỉnh sửa nội dung, chương trình giảng dạy; thường xuyên cập nhật


2
thơng tin mới trong q trình nghiên cứu, giảng dạy; tích cực đổi mới phương
pháp giảng dạy kết hợp với sử dụng những phương tiện phù hợp nhằm đảm
bảo đúng mục đích của chương trình môn học đề ra, đáp ứng nhu cầu của học
viên học tập tại Học viện.
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực đó vẫn tồn tại không ít
những khó khăn, hạn chế cần khắc phục như: Đội ngũ giảng viên giảng dạy
có trình độ chuyên môn sâu, có kinh nghiệm còn mỏng so với yêu cầu; chất
lượng đội ngũ giảng viên không đồng đều; việc áp dụng phương pháp,
phương tiện giảng dạy tích cực vào quá trình giảng dạy của một số giảng viên
còn hạn chế…
Trong thời kỳ hội nhập sâu, rộng như hiện nay, những yêu cầu bức thiết
từ cuộc sống và đặc biệt cũng là thiên chức cao cả của đội ngũ giảng viên lý
luận chính trị, những người đang đứng ở tuyến đầu của cuộc đấu tranh tư
tưởng hôm nay đòi hỏi chúng ta phải tiến hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện
và đồng bộ trong cả hệ thống nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả
của nền giáo dục Việt Nam nói chung và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Nâng cao chất
lượng giảng tại Khoa Kinh tế, Học viện Chính trị khu vực I, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh giai đoạn 2017 – 2020” làm Đề án tốt nghiệp hệ Cao
cấp lý luận chính trị của mình.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN

1.2.1. Mục tiêu chung
Đề án được triển khai sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của
Khoa Kinh tế nói riêng và Học viện Chính trị khu vực I nói chung trong công

tác đào tạo, bồi dưỡng giai đoạn 2017 - 2020 phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
công tác nghiên cứu, giảng dạy tại đơn vị.


3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- 100% đội ngũ giảng viên trẻ của Khoa có năng lực nghiên cứu khoa
học và có khả năng giảng dạy ít nhất 02 chuyên đề trong chương trình học
phần Quản lý kinh tế, cũng như học phần Kinh tế phát triển thuộc Đường lối
Đảng cộng sản Việt Nam.
- 100% đội ngũ giảng viên vận dụng tốt các phương pháp giảng dạy
tích cực kết hợp với việc sử dụng thành thạo các phương tiện hỗ trợ trong quá
trình giảng dạy, nâng cao chất lượng bài giảng.
- 100% đội ngũ cán bộ, giảng viên tham gia đầy đủ các chương trình
tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn kết hợp với nghiên cứu thực tế
hàng năm tại các địa phương trong cả nước.
- Phấn đấu đến năm 2020, Khoa Kinh té xây dựng được đội ngũ giảng
viên có chuyên môn sâu, giàu kinh nghiệm trong nghiên cứu và giảng dạy trong
lĩnh vực Kinh tế là những chuyên gia, giảng viên cao cấp, giảng viên chính.
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN

- Xác định rõ được mục tiêu, giới hạn của đề án.
- Khái quát cơ sở khoa học, lý luận và những căn cứ thực tiễn của để án.
- Khái quát được thực trạng của chất lượng giảng dạy của Khoa Kinh
tế, chỉ ra những nguyên nhân của những tồn tại hạn chế
- Xây dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
của Khoa Kinh tế trong giai đoạn 2017 – 2020.
1.4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN

- Đối tượng nghiên cứu của đề án là chất lượng giảng dạy của Khoa

Kinh tế, Học viện Chính trị khu vực I.
- Phạm vi triển khai thực hiện đề án được giới hạn tại Học viện Chính
trị khu vực I (nâng cao chất lượng giảng dạy các hệ lớp tập trung và tại chức
ở 28 tỉnh thành phía Bắc).
- Thời gian triển khai đề án từ năm 2017 đến năm 2020.


4
Phần 2. NỘI DUNG
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận
2.1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- “Chất lượng” là một khái niệm phức tạp, đa chiều, mỗi người có thể
đưa ra những quan niệm hay định nghĩa khác nhau. Khái niệm “chất lượng”
có thể hiểu được, nhưng khó giải thích và diễn đạt đầy đủ rõ ràng. Dưới đây
là một số cách hiểu về khái niệm “chất lượng”:
+ Chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật
(sự việc) làm cho sự vật (sự việc này phân biệt với sự vật (sự việc) khác
+ Chất lượng là mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp các đặc
tính vốn có, trong đó, u cầu được hiểu là các nhu cầu hay mong đợi đã được
công bố, ngầm hiểu hay bắt buộc ( Định nghĩa của ISO 9000-2000)
+ Chất lượng là “ tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo
cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nếu ra hoặc
nhu cầu tiềm ẩn” (TCVN-ISO 8402)
Thuật ngữ “chất lượng giảng dạy” cũng được định nghĩa theo nhiều
cách khác nhau.
+ Chất lượng giảng dạy là tập hợp những yếu tố, sự phù hợp với các
tiêu chuẩn, tiêu chí (định lượng) về giảng dạy nhằm đảm bảo sự phù hợp với
mục đích, mục tiêu đã đề ra

+ Chất lượng giảng dạy là mức độ hiệu quả trong giảng dạy của một
giảng viên, hay một của một cơ sở đào tạo.
+ Chất lượng giảng dạy được hiểu là sự đáp ứng của người dạy với nhu
cầu của người học.
Có thể thấy rằng, các định nghĩa chất lượng giảng dạy trên đây đã đề
cập tới các khía cạnh khác nhau của thuật ngữ này. Tuy nhiên, các định nghĩa
này chưa nêu bật được nội hàm của thuật ngữ này.
Trong khi đó, tác giả cho rằng, khái niệm chất lượng theo ISO 90002000 có thể được coi là phù hợp để vận dụng vào lĩnh vực giảng dạy. Theo
đó, chúng ta có thể hiểu chất lượng giảng dạy như sau:


5
” Chất lượng giảng dạy là mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập
hợp các đặc tính vốn có của q trình giảng dạy, trong đó, u cầu được hiểu
là các nhu cầu hay mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu hay bắt buộc”
Chất lượng giảng dạy có thể là của một giáo viên, có thể là của một đội
ngũ giảng viên của một cơ sở đào tạo.
Chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên là mức độ đáp ứng các
yêu cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có của q trình giảng dạy của
đội ngũ giảng viên của một đơn vị đào tạo, trong đó, yêu cầu được hiểu là
các nhu cầu hay mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu hay bắt buộc
Nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên được hiểu là
việc tạo ra sự chuyển biến tích cực trong chất lượng giảng dạy của đội ngũ
giảng viên.
2.1.1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy
Để nâng cao chất lượng giảng dạy, trước tiên cần phải có bộ tiêu chí
đánh giá chất lượng giảng dạy. Sau đây là một số tiêu chí để đánh giá chất
lượng giảng dạy của Khoa Kinh tế.
Thứ nhất, về nội dung giảng dạy
- Nội dung bài giảng chính xác, khoa học, có quan điểm, tư tưởng chính

trị rõ ràng.
- Nội dung bài giảng bảo đảm sát nội dung giáo trình.
- Bài giảng bảo đảm tính hệ thống, đủ nội dung, làm rõ trọng tâm.
- Bài giảng có tính cập nhật và liên hệ gắn với thực tiễn.
- Kiến thức của bài giảng bảo đảm đúng đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
Thứ hai, về phương pháp giảng dạy
- Sử dụng phương pháp phù hợp với đặc trưng bộ môn và kiểu bài lên
lớp (bài giảng, thảo luận, xeminar).
- Kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy và học
- Mức độ kiến thức giảng dạy phù hợp với đối tượng học viên.
Thứ ba, về phương tiện
- Sử dụng và kết hợp tốt các phương tiện, thiết bị dạy học phù hợp với
nội dung của kiểu bài lên lớp.


6
- Trình bày bảng hợp lý, chữ viết, hình vẽ, lời nói rõ ràng, chuẩn mực,
giáo án hợp lý.
- Thứ tư, về tổ chức giảng dạy
- Thực hiện linh hoạt các khâu lên lớp, phân bố thời gian hợp lý ở các
khâu, các phần
- Tổ chức, điều khiển người học tích cực, chủ động phù hợp với nội dung
của kiểu bài, với các đối tượng. Học viên hứng thú, tích cực tham gia bài học.
Thứ năm, kết quả
- Đa số học viên hiểu bài, nắm vững trọng tâm, có khả năng vận dụng,
liên hệ lý luận vào thực tiễn.
2.1.1.3. Các biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy
Một là, nâng cao trình độ chun mơn của giảng viên
- Giảng dạy kinh tế liên quan đến nhiều kiến thức của các ngành khoa

học khác. Giảng viên phải được trang bị thêm về các “kiến thức liên ngành”.
Đội ngũ giảng viên tự đào tạo, tự trau dồi về trình độ chun mơn của bản
thân. Đồng thời, nâng cao trình độ chun mơn của giảng viên có thể được
thực hiện thơng qua việc cử học viên tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng
kiến thức chun mơn. Họ có thể được đưa đi đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ chuyên
ngành kinh tế. Bên cạnh đó, giảng viên cịn phải được tu dưỡng đạo đức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh đã căn dặn về trọng trách, trách nhiệm và nghĩa vụ của
đội ngũ “trồng người” nhằm nâng cao nhận thức vai trị của mình để phục vụ
cộng đồng, xã hội được tốt hơn, tận tâm hơn.
Việc nâng cao trình độ chun mơn của đội ngũ giảng viên cịn có thể
được thực hiện thơng qua cơng tác nghiên cứu khoa học. Bởi lẽ, chỉ có qua
nghiên cứu khoa học, trình độ chun mơn của giảng viên mới được nâng
cao. Bài giảng của giảng viên sẽ sâu sắc hơn, chất lượng giảng dạy sẽ được
nâng cao. Do đó, việc tạo điều kiện, khuyến khích giảng viên nghiên cứu
khoa học là phương thức tốt để nâng cao trình độ chun mơn của họ và nâng
cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên.
Tổ chức cho giảng viên đi công tác thực tiễn cũng là một biện pháp
nâng cao trình độ của giảng viên và nâng cao chất lượng giảng dạy của họ.
Giàng dạy kinh tế tại Học viện Chính trị là giảng dạy về đường lối chính sách


7
của Đảng và nhà nước. Để có bài giảng chất lượng, giảng viên khơng chỉ phải
có kiến thức lý luận tốt mà cịn phải có kiến thức thực tiễn và vận dụng lý
luận để phân tích thực tiễn. Các chuyến đi thực tế, nằm vùng tại các địa
phương, tạo cơ hội cho giảng viên được thâm nhập vào thực tiến, cập nhật,
nắm bắt những thơng tin cụ thể về tình hình thực tiễn diễn ra tại địa phương,
để có thiể hiểu rõ hơn về thực tiễn. Do vậy, đi công tác thực tế là cách tốt nhất
để có thể nâng cao trình độ của giảng viên và nâng cao chất lượng giảng dạy
của họ.

Hai là, bồi dưỡng phương pháp giảng dạy cho giảng viên
Phương pháp giảng dạy tốt là phương tiện truyền tải kiến thức cho
người học một cách có hiệu quả.
Phương pháp giảng dạy tích cực lấy người học làm trung được coi là
một trong những mục tiêu giáo dục được nhiều nhà giáo dục nghiên cứu, đúc
kết từ thực tiễn và xây dựng thành những lý luận mang tính khoa học và hệ
thống. Phương pháp dạy học tích cực là cách thức dạy học theo lối phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Phương pháp dạy học tích
cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của
người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học. Giảng
viên chỉ là người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự
tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo
nhóm. Họ có vai trị là “trọng tài”, điều khiển tiến trình giờ dạy. Phương pháp
này chú ý đến đối tượng người học, coi trọng việc nâng cao khả năng cho
người học; nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý
kiến đối lập của người học, từ đó hệ thống hóa các vấn đề, tổng kết bài giảng,
khắc sâu những tri thức cần nắm vững.
Để nâng cao năng lực giảng dạy, kỹ năng đứng lớp cho đội ngũ giảng
viên đặc biệt giảng viên trẻ, giảng viên tập sự, có thể tạo cơ hội cho họ tham
gia buổi dự giảng, trợ giảng để họ có thể học hỏi thêm được cách thức lựa
chọn phương pháp giảng dạy cho các đối tượng học viên khác nhau của Học
viện.
Bên cạnh đó, có thể tạo điều kiện cho giảng viên tham gia các lớp tập
huấn về phương pháp giảng dạy. Tổ chức dự giờ, góp ý cho giảng viên về


8
phương pháp giảng dạy cũng là biện pháp bồi dưỡng phương pháp giảng dạy
cho giảng viên..
Ba là, trang bị phương tiện giảng dạy

Trong thế kỷ 21, việc ứng dụng khoa học công nghệ là một trong yếu
tố không thể thiếu trong bất cứ lĩnh vực nào kể cả ngành giáo dục, hiện đại
hóa trang thiết bị giảng dạy là coi là một trong những nhiệm vụ được chú
trọng trong các trường từ phổ thông đến bậc đại học. Nắm bắt được vai trị,
tầm quan trọng của nó, nhà trường cần tiếp tục tìm kiếm nguồn kinh phí để
nhằm đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại giúp cho việc dạy
và học được trở nên nhẹ nhàng hơn, phong phú hơn, đồng thời cần phải cải
tạo, sửa chữa, khắc phục những cơng trình, thiết bị xuống cấp kịp thời.
Bốn là, nâng cao năng lực tổ chức hoạt động dạy và học của giảng viên
Để thực hiện tốt bài giảng, giảng viên cần phải linh hoạt trong các khâu
lên lớp, phân bố thời gian hợp lý ở các khâu, các phần của bài giảng sẽ giúp
cho bài giảng được hấp dẫn hơn, phong phú, đa dạng hơn. Bên cạnh đó, giảng
viên cần phải tổ chức, điều khiển người học tích cực, chủ động phù hợp với
nội dung của kiểu bài, với các đối tượng, không gây căng thẳng, mệt mỏi áp
lực quá lớn đến học viên do lượng kiến thức quá nhiều so với thời lượng buổi
học trên lớp tạo sự hứng thú, tích cực tham gia bài học của học viên.
Giảng viên có thể nâng cao năng lực tổ chức hoạt động dạy và học
thông qua việc tham gia dự giờ của các giảng viên có kinh nghiệm giảng dạy
và cả những giảng viên cịn ít kinh nghiệm. Sau mỗi buổi dự giờ, việc rút kinh
nghiệm của cả nhóm dự giờ sẽ giúp giảng viên có thêm kiến thức, kinh
nghiệm tổ chức hoạt động giảng dạy.
2.1.1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
giảng dạy của Khoa Kinh tế
Thứ nhất, yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo
Hiện nay Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức to lớn, đan xen
nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế với nhiểu nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Những yếu
tố này đã ảnh hưởng đến công tác nghiên cứu, giảng dạy của đội ngũ giảng



9
viên khoa Kinh tế. Yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo của nước nhà đòi hỏi
phải đổi mới nhiều mặt: đổi mói chường trình, giáo trình, đổi mới chất lượng
đội ngũ giảng viên, đổi mới quản lý quá trình đào tạo,…Điều này sẽ ảnh
hưởng tới chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên.
Thứ hai, về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng.
Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy của
Khoa. Nội dung chương trình phù hợp về khối lượng, dung lượng kiến thức
trong từng bài, từng phần, giảng viên sẽ truyền tải kiến thức thuận lợi hơn,
theo đó, chất lượng bài giảng sẽ tốt hơn. Nếu khối lượng kiến thức quá lớn,
nội dung giáo trình khơng rõ hoặc khơng sâu sắc, giảng viên sẽ phải cố gắng
nhiều hơn để giúp học viên hiểu kiến thức.
Mặt khác, giáo trình kinh tế ở Học viện thường được viết dựa trên các
nghị quyết của Đại hội Đảng. Trong khi đó, tình hình kinh tế, chính trị xã hội
có nhiều biến động nhanh chóng. Điều đó địi hỏi giảng viên phải cập nhật
kiến thức, thơng tin, những thay đổi chính sách của Nhà nước. Theo đó, chất
lượng bài giảng có thể bị ảnh hưởng.
Thứ ba, chất lượng đội ngũ giảng viên
Đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định tới chất lượng giảng dạy của đội
ngũ giảng viên. Giảng viên đóng vai trị là người hướng dẫn, dẫn dắt, định
hướng người học tiếp cận tri thức, hình thành kỹ năng, tác phong theo mục đích
của chương trình học. Vì vậy, đợi ngũ giảng viên phải vừa là nhà khoa học, vừa
là nhà giáo dục, lại vừa là nhà chính trị (tuyên truyền) với kỹ năng, phương pháp
sư phạm chuẩn mực trong quá trình truyền thụ tri thức, nâng cao chất lượng
giảng của đơn vị. Để có thể giảng dạy có chất lượng, trước hết, giảng viên phải
có năng lực, trình độ, chun mơn vững vàng, nắm chắc kiến thức chun mơn.
Cùng với năng lực, trình độ chun mơn, giảng viên phái có kiến thức sư phạm,
có phương pháp giảng dạy tốt. Một điểm quan trọng nữa để có chất lượng giảng
dạy tốt, đó là giảng viên phải là người có nhân cách, có tâm huyết, yêu nghề, có
trách nhiệm cao với cơng việc. Những người như vậy mói có khả năng lan tỏa,



10
truyền cảm hứng cho người học, theo đó, giúp họ hăng hái, tích cực tham gia
q trình dạy và học, giúp họ tiếp thu tốt hơn.
Thứ tư, yếu tố học viên
Dạy học là quá trình tác động biện chứng giữa người dạy và người học,
người học là đối tượng tiếp nhận thông tin mà người dạy hướng đến. Trong
quan niệm mới về giáo dục, người học là trung tâm của q trình giảng dạy,
người học tiếp nhận kiến thức khơng phải một cách thụ động mà là chủ thể của
quá trình nhận thức, chủ động trong việc tiếp nhận thơng tin. Khi trình độ, khả
năng tiếp thu của học viên trong lớp học không đồng đều hoặc quá khác biệt,
giảng viên cũng khó khăn hơn trong việc giúp cho người học tiếp cận các kiến
thức của bài giảng. Theo đó, chất lượng giảng dạy có thể bị ảnh hưởng.
Thứ năm, cơ sở vật chất, phương tiện dạy – học và chế độ, chính sách đối
với giảng viên.
Đây là những yếu tố có tác động trực tiếp đến chất lượng giảng dạy của
giảng viên. Cơ sở vật chất tốt tạo môi trường thuận lợi, thoải mái cho cả người
dạy và người học. Phương tiện giảng dạy có thể hỗ trợ tích cực cho q trình
giảng dạy và góp phần nâng cao được chất lượng bài giảng của giảng viên.
Người giảng viên là những trí thức. Những người giảng viên có phẩm
chất đạo đức tốt, họ thường tự trọng cao. Họ muốn được đánh giá khách quan.
Khi có chế độ chinh sách tốt đối với giảng viên, điều đó có nghĩa là họ được
đánh giá đùng (năng lực, trình độ, sự cống hiến). Điều đó sẽ tạo động lực cho họ
làm việc, cống hiến, chất lượng giảng dạy của họ sẽ tốt hơn.
Thứ sáu, yếu tố tổ chức quản lý đào tạo của Khoa, của Học viện
Việc sắp xếp kế hoạch giảng dạy phù hợp sẽ giúp cho quá trình dạy và
học tốt hơn. Chẳng hạn, nếu kế hoạch giảng dạy được xây dựng và công bố sớm
trước từ 6 tháng đến 12 tháng, giảng viên sẽ có đủ thời gian, chủ động trong việc
chuẩn bị giáo án, chuẩn bị cho bài giảng tốt hơn, chất lượng bài giảng sẽ cao hơn

so với việc kế hoạch thường xuyên bị thay đổi hoặc kế hoạch đưa ra đột xuất.
Mặt khác, việc bố trí cho người học và người dạy phải lên lớp cả ngày, chắc
chắn khó có thể có chất lượng giảng dạy tốt….


11
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý
2.1.2.1. Quan điểm của Đảng về cơng tác giáo dục
lý luận chính trị và đổi mới công tác giáo dục lý luận
Nhận thức rõ vị trí, vai trị và tầm quan trọng của cơng tác giáo dục lý
luận chính trị trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm
chỉ đạo, lãnh đạo; trong q trình thực hiện đã tìm tịi, cải tiến, đổi mới nội
dung và phương thức tiến hành nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của
công tác giáo dục lý luận chính trị. Vì vậy, Đảng đã khơi dậy và phát huy sức
mạnh của toàn đảng, toàn dân tham gia thực hiện nhiệm vụ cách mạng do
Đảng lãnh đạo. Có thể khái quát những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà
nước về công tác giáo dục lý luận chính và đổi mới công tác giáo dục lý luận
ở nước ta như sau:
Một là, Ban chấp hành Trung ương đã chỉ đạo biên soạn xây dựng và
triển khai thực hiện hệ thống chương trình học tập đa dạng, phong phú cho
nhiều đối tượng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các chương trình vừa thể
hiện được tính lý luận, tính thực tiễn, tính nghiệp vụ đồng thời cũng định
hướng, nêu ra những vấn đề về trách nhiệm cần thực hiện phù hợp với từng
đối tượng người học… Việc nghiên cứu, học tập Nghị quyết của Đảng ở cơ
sở đã thành nền nếp, khi tổ chức nghiên cứu, học tập, các tổ chức đã xây dựng
được chương trình hành động thực hiện nghị quyết cụ thể, hiệu quả, ngày
càng thiết thực hơn.
Hai là, công tác giáo dục lý luận chính trị đã góp phần thực hiện nhiệm
vụ chính trị cơ bản của địa phương, cơ sở. Những nội dung có tính định
hướng chính trị trong các loại chương trình đã góp phần củng cố niềm tin, uốn

nắn những lệch lạc, chống các luận điệu sai trái, thù địch, tạo cơ sở cho sự
thống nhất về tư tưởng chính trị trong tồn Đảng, giúp cho cán bộ, đảng viên
có tầm nhìn bao qt, có năng lực tự đánh giá, tự lý giải các vấn đề phức tạp
đang đặt ra trong cuộc sống, góp phần quan trọng cho việc giữ vững ổn định
chính trị ở cơ sở.
Ba là, cơng tác giáo dục lý luận chính trị đã cung cấp những kiến thức
về lý luận và thực tiễn có hệ thống, giúp cho người học xây dựng tư duy mới,
giúp họ thay đổi phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả


12
công tác. Đồng thời, giúp cán bộ, đảng viên nắm vững quan điểm, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước để họ đổi mới suy nghĩ và hành động trong
cơ chế mới, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Bốn là, công tác giáo dục lý luận chính trị đã có những đổi mới về
phương thức công tác, phương pháp giảng dạy và truyền đạt nên chất lượng
và hiệu quả hoạt động được nâng lên một bước, góp phần tích cực vào kết
quả cuộc vận động xây dựng đổi mới, chỉnh đốn đảng, kiện toàn xây dựng
tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên; nâng cao trình độ và phương
thức lãnh đạo của cấp ủy, chấn chỉnh và cải tiến sinh hoạt đảng; góp phần
nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên.
Năm là, đã có bước chuyển biến trong tổ chức và chỉ đạo của các cấp
ủy và chính quyền trong nhận thức về vai trị của cơng tác giáo dục lý luận
chính trị nên đã xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể thực hiện nhiệm vụ
bồi dưỡng cán bộ của địa phương, cơ sở. Mặc dù cịn nhiều khó khăn nhưng
các địa phương đã đầu tư kinh phí cho cơng tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn,
bồi dưỡng đào tạo cán bộ, xây dựng đội ngũ giảng viên và quan tâm đến cả
người dạy và người học.

Như vậy, với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, các cấp bộ ngành cho thấy
rõ nhận thức và quyết tâm cần phải “nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác
tun truyền, giáo dục lý luận chính trị, tạo sự thống nhất cao hơn nữa trong
Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân… cần đổi mới mạnh mẽ chương trình,
nội dung, phương pháp dạy và học lý luận, coi trọng tính chất lượng và hiệu
quả.” [6, tr. 135-136]. Và từ đó cũng đặt ra yêu cầu cụ thể việc giáo dục lý
luận chính trị đó là cần “tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hơn
nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của cơng tác tư tưởng, tuyên
truyền học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường
lối về kinh tế- chính trị- xã hội của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước…
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục cơng
dân trong hệ thống các trường chính trị, các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân” [7, tr. 256-257].


13
2.1.2.2. Một số văn bản quy định về công tác giáo dục lý luận chính
trị và đởi mới cơng tác giáo dục lý luận chính trị
- Quyết định số 103 của Ban Bí thư (khố VI) về việc sắp xếp lại hệ
thống trường Đảng trực thuộc Trung ương.
- Quy định số 54 - QĐ/TW, ngày 12 tháng 5 năm 1999 của Bộ Chính
trị quy định về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng.
- Kết luận số 69-KL/TW của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Quy định
54-QĐ/TW ngày 12-5-1999 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về chế độ học tập lý
luận chính trị trong Đảng.
- Quyết định số 1677/QĐ-TTg, ngày 10 tháng 09 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt đề án tiếp tục đổi mới nội dung các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ lý luận chính trị,
hành chính ở Học viện Chính trị – Hành chính q́c gia Hồ Chí Minh.
- Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8

khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
- Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 26/5/2014, về tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo quản lý.
- Hướng dẫn số 132-HD/BTGTW về công tác giáo dục lý luận chính
trị năm 2015, ngày 26/9/2014 của Ban Tuyên giáo Trung ương.
- Hướng dẫn số 127 HD/BTGTW ngày 30/6/2014 của Ban Tuyên giáo
Trung ương, thực hiện Kết luận số 94-KL/TW, ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư
“về việc tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc
dân”.
- Quyết định số 1211/QĐ-HVCTQG, ngày 01 tháng 4 năm 2015 của
Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về việc ban hành Quy
chế về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ công tác của giảng viên ở Học viện
Chính trị q́c gia Hồ Chí Minh.


14
- Quyết định số 3842/QĐ-HVCTQG ngày 17 tháng 9 năm 2015 của
Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về ban hành Quy chế
đào tạo Cao cấp lý luận chính trị.
2.1.3. Căn cứ thực tiễn
Trước tình hình trong nước, đó là những điều kiện về kinh tế, chính trị,
văn hóa - xã hội của đất nước thời kỳ đổi mới; chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước về nâng cao chất lượng giáo dục đại học và sau đại học.
Trong đó việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo đặc biệt được quan tâm
bởi đây là nguồn lực trọng yếu trong công tác cải cách giáo dục và thay đổi
phương pháp giảng dạy phù hợp với điều kiện, đáp ứng yêu cầu trong giai
đoạn hiện nay.
Cùng với tiến trình phát triển trong khu vực và quốc tế, những diễn biến
phức tạp của tình hình trong khu vực và quốc tế đã tác động đến quá trình

nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trên hai phương diện: 1- Khối lượng
thông tin được cập nhật liên tục, hàng ngày phong phú đa dạng , công khai dễ
tìm kiếm song chất lượng nguồn thơng tin chưa đảm bảo, giảng viên dễ bị lái
theo dư luận xã hội, công cụ hướng dẫn lựa chọn, phương pháp lọc tin cũng
như đánh giá so sánh nguồn tin còn hạn chế, thậm chí nhiều nơi khơng mở
các lớp hướng dẫn kỹ năng này cho giảng viên. Bên cạnh đó, hệ thống các
phương pháp giảng dạy mới một cách tích cực, nhanh nhạy được thống kê,
hướng dẫn cụ thể được coi là động lực thúc đẩy đội ngũ giảng viên này không
ngừng nâng cao trình độ, nhận thức, nâng cao tính đảng, tính khoa học trong
nghiên cứu lý luận, có điều kiện mở rộng thơng tin, nâng cao trình độ ngoại
ngữ, tin học. 2- Hội nhập kinh tế quốc tế bên cạnh những mặt mạnh nó cũng
có những tác động xấu đến một bộ phận nhỏ giảng viên, đặc biệt đối với đội
ngũ giảng viên giảng dạy các mơn lý luận chính trị, bên cạnh năm chuyên
môn vững cần trang bị cho bản thân những kiến thức hiểu biết về tình hình
thế giới, luôn giữ vững, tăng cường bản lĩnh và tư duy chính trị của mình để
từ đó định hướng tư tưởng tốt cho người học.
Với ý thức ln tự hồn thiện, tự rèn luyện, trau dồi kiến thức, nâng cao
năng lực của đội ngũ giảng viên. Đội ngũ giảng viên phải ln nhận thức sâu
sắc: tầm quan trọng, vai trị của đội ngũ giảng viên nói chung và giảng viên lý


15
luận chính trị nói riêng; đặc thù của các mơn học được đào tạo, nhất là với các
môn lý luận chính trị - đây là các mơn học có tính trừu tượng, khái quát hóa
cao, được biểu hiện dưới nhiều khía canh.
Trước diễn biến tình hình trong nước, trong khu vực và quốc tế, đòi hỏi
việc cải tiến và nâng cao chất lượng giáo dục trở thành vấn đề cấp thiết khơng
chỉ của Khoa giảng dạy nói riêng, của Học viện nói chung mà là vấn đề của
tồn xã hội đặc biệt ở các cơ sở đào tạo hiện nay trên cả nước nhằm đẩy lĩnh
vực giáo dục đi lên tránh tình trạng tụt hậu so với các nước trong khu vực,

quốc tế.
2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN

2.2.1. Khái quát về Học viện Chính trị khu vực I và
Khoa Kinh tế
2.2.1.1. Học viện Chính trị khu vực I
Học viện Chính trị khu vực I thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh được thành lập năm 1953, tiền thân là các trường Đảng khu Tả Ngạn,
khu Ba, khu Bốn, Tây Bắc, Việt Bắc trong những năm 1953-1959. Trong quá
trình xây dựng và phát triển, Học viện đã trải qua nhiều thời kỳ hoạt động với
những tên gọi khác nhau, Học viện Chính trị khu vực I (năm 2014).
Tại Quyết định số 2952/QĐ-HVCTQG, ngày 27 tháng 6 năm 2014 của
Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã quy định cụ thể chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Học viện Chính trị khu vực I, theo đó,
Học viện có chức năng là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản
lý, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính
trị xã hội, các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập ở khu
vực phía Bắc theo sự phân công, phân cấp của Giám đốc Học viện; nghiên
cứu khoa học lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lới về kinh
tế- chính trị- xã hội của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các khoa
học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý, khoa học giáo dục và phương pháp
dạy, học trong trường Đảng. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của Học viện gồm 10
đơn vị chức năng và 16 đơn vị giảng dạy và nghiên cứu khoa học.


16
2.2.1.2. Khoa Kinh tế
Khoa Kinh tế được thành lập trên cơ sở sát nhập ba khoa (Kinh tế
Chính trị, Kinh tế Phát triển và Quản lý kinh tế). Tuy nhiên, tháng 9/2014
Khoa Kinh tế chỉ còn lại chuyên ngành Kinh tế Phát triển và chuyên ngành

Quản lý Kinh tế sau khi tách chuyên ngành Kinh tế chính trị (tái lập Khoa
Kinh tế Chính trị). Đến nay, Khoa Kinh tế đã có q trình hình thành và phát
triển gần 3 năm. Khoa có nhiệm vụ nghiên cứu và giảng dạy học phần Quản
lý kinh tế, Kinh tế phát triển thuộc học phần Đường lối Đảng cộng sản Việt
Nam tại Học viện Chính trị khu vực 1. Tham gia vào nhiệm vụ đào tạo
chương trình cử nhân chính trị, thạc sĩ kinh tế, cao cấp lý luận chính trị hành
chính, bồi dưỡng lý luận theo chuyên ngành cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt đương nhiệm và trong diện quy hoạch cấp huyện, quận, thị, các ban
ngành Trung ương, tỉnh, thành phố và các doanh nghiệp nhà nước; cán bộ dân
tộc thiểu số ở 28 tỉnh thành phố phía Bắc, từ Hà Tĩnh trở ra; đào tạo học viên
Lào, mở rộng quan hệ quốc tế với các nước, các Đảng trong lĩnh vực đào tạo,
nghiên cứu khoa học.
Về cơ cấu tổ chức: Đến nay, đội ngũ cán bộ của Khoa gồm 25 người
(19 giảng viên, 2 giảng viên tập sự và 2 thư ký, 2 chuyên viên, 1 nghiên cứu
viên), trong đó có 01 phó giáo sư, tiến sĩ, 09 tiến sĩ, 09 thạc sĩ (có 2 đồng chí
đang học nghiên cứu sinh), 06 cử nhân. Bộ máy lãnh đạo của Khoa gồm: 1
đồng chí Phó trưởng khoa phụ trách, 4 đờng chí Phó trưởng khoa. Hầu hết cán
bộ của Khoa đã qua các khóa đào tạo cao cấp lý luận chính trị, quản lý nhà
nước, phương pháp giảng dạy mới, bồi dưỡng kinh điển Mác -Lênin, tin học,
ngoại ngữ.
2.2.2.Thực trạng chất lượng giảng dạy của Khoa
Kinh tế
2.2.2.1. Kết quả đạt được
Một là, về nội dung giảng dạy
Trong quá trình giảng dạy thời gian qua, sau khi đề án 1677 được triển
khai trên toàn hệ thống Học viên, quán triệt tinh thần mới, hội đồng khoa học
Khoa Kinh tế đã soạn và duyệt lại đề cương bài giảng chi tiết các học phần
Khoa phụ trách được đăng trên website trường. Điều đó, một mặt giúp học



17
viên nắm được dạng kiến thức mới cũng như cách thức tiếp cận, mặt khác
giúp cho đội ngũ giảng viên trong Khoa lấy đó làm căn cứ để soạn bài giảng
cá nhân sao cho đảm bảo đúng nội dung giáo trình, đồng thời đảm bảo theo
đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua các kỳ đại hội.
Để nhằm làm phong phú thêm bài giảng của mình, các giảng viên Khoa
Kinh tế đã luôn cập nhật những thơng tin mới nhất về tình hình kinh tế - chính trị
- xã hội của đất nước, về chính sách của nhà nước. Đồng thời, giảng viên của
Khoa còn đưa các kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của các địa phương, kết
quả nghiên cứu khoa học để giúp học viên có thể dễ dàng tiếp thu và vận dụng
các kiến thức đã học vào giải quyết hoặc lý giải các hiện tượng thực tiễn.
Hai là, về phương pháp giảng dạy:
Theo đề án 1677, trong các buổi học các chuyên đề, học viên được tham
gia các buổi thảo luận lớp. Các buổi thảo luận được thực hiện một cách bắt
buộc, một mặt để giảng viên tự chuẩn bị các nội dung thảo luận lớp cũng như
là triển khai thử nghiệm áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại. Mặt
khác, tạo áp lực cho giảng viên trong việc liên tục tự đào tạo, bồi dưỡng, luôn
luôn cập nhật những thông tin, diễn biến của tình hình kinh tế - chính trị - xã
hội trong và ngoài nước được để tránh việc tụt hậu thông tin và kiến thức so
với tiến trình phát triển của kinh tế - xã hội hiện nay. Nhờ vào đề án 1677 đã
vơ hình chung đặt giảng viên vào môi trường mới, buộc họ phải thay đổi để
phù hợp với trình độ và những yêu cầu, địi hỏi từ phía người học hiện nay.
Với mục tiêu nâng cao hiệu quả giảng dạy trước hết giảng viên của
Khoa đã điều chỉnh nội dung, thời lượng và khối lượng kiến thức phù hợp với
từng đối tượng học viên trong trường. Do có sự khác biệt về trình độ và khả
năng cận kiến thức kinh tế của các đối tượng học viên là khác nhau, giảng
viên đã lựa chọn cách đặt vấn đề, nội dung phương pháp cho phù hợp với đối
tượng. Chẳng hạn, học viên trong cùng một hệ đào tạo cao cấp lý luận, vốn
kiến thức nền về kinh tế cũng như vốn kiến thức thực tiễn về quản lý kinh tế
là rất khác nhau; hệ cao học và tiến sỹ cũng có yêu cầu khác nhau,.. Trong

điều kiện như vậy, các giảng viên đã cố gắng lựa chọn phương pháp cho phù
hợp để có thể đạt hiệu quả cao trong giảng dạy.


18
Trong q trình lên lớp, ngồi những kiến thức chun ngành, giảng
viên Khoa Kinh tế cũng định hướng học tập, tạo động lực, động cơ học tập
chính đáng cho học viên, giúp họ hiểu được mục đích học tập tại trường phục
vụ cho công việc như thế nào, tại sao cần phải học tập và trau dồi kiến thức
tại đây. Nhờ vậy, đã nâng cao được ý thức học tập và tinh thần cạnh tranh học
tập hướng tới sự tiến bộ chung của học viên sau khi được đào tạo.
2.2.2.2. Những hạn chế
Một là, về nội dung bài giảng
Hiện nay, ngồi đội ngũ giảng viên có thâm niên kinh nghiệm, nắm chắc
về nội dung chuyên môn, sự trau truốt về mặt ngữ nghĩa, cùng với thâm niên
đứng lớp lâu năm đã giúp cho đội ngũ này luôn bảo đảm bài giảng được chặt
chẽ và đảm bảo tính khoa học. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên trẻ, giảng
viên tập sự do thời gian, kinh nghiệm đứng lớp chưa nhiều, là một trong
những nguyên nhân dẫn tới bài giảng chưa sâu về nội dung, thiếu tính logic
chặt chẽ, gây sự khó hiểu, phức tạp hóa vấn đề cho học viên, ảnh hưởng đến
quá trình tiếp thu kiến thức của học viên thời gian qua. Nguyên nhân trên
cũng dẫn tới tình trạng bài giảng của giảng viên trẻ hay gặp tình huống khối
lượng kiến thức trong các bài giảng vượt quá thời gian quy định, tình trạng
“cháy giáo án” thi thoảng vẫn diễn ra tại các lớp học.
Hai là, về phương pháp giảng dạy
Đối với Khoa kinh tế nói riêng, các Khoa tại Học viện nói chung, hầu hết
đội ngũ giảng viên hiện nay vẫn luôn thiên về phương pháp giảng dạy truyền
thống hơn vì giảng viên có thể chủ động kiểm soát được thời lượng và khối
lượng kiến thức cần giảng dạy. Phương pháp truyền thống cúng được coi là
an toàn với giảng viên trẻ hơn do khối lượng kiến thức chuyên ngành và kiến

thức thực tiễn của họ còn hạn chế. Tuy nhiên, với phương pháp này, dừng lại
ở thuyết trình và đọc - chép hay dễ tạo sự nhàm chán trong các bài học cho
học viên, tiết học không diễn biến hai chiều. Học viên học bị động nên khả
năng tiếp thu và ghi nhớ cũng hạn chế. Gần như toàn bộ giảng viên của Khoa
Kinh tế đều được đào tạo và tốt nghiệp tại các trường đại học chuyên ngành
như Đại học Kinh tế quốc dân, đại học Ngoại thương, đại học Thương Mại,
Học viện Tài chính…. Họ không được đào tạo về nghiệp vụ sự phạm. Việc sử


19
dụng các phương pháp chưa được thuần thục, phù hợp với nhiều đối tượng
đào tạo của Học viện.
Đây là mặt hạn chế cơ bản nhất của Khoa trong việc đổi mới phương
pháp giảng dạy cũng như việc áp dụng khéo léo các hình thức giảng dạy hiện
đại và truyền thống một cách nhuần nhuyền tùy thuộc vào từng đối tượng đào
tạo cũng như từng đặc điểm văn hóa,xã hội từng địa phương, vùng miền
Ba là, về sử dụng các phương tiện giảng dạy
Việc sử dụng các phương tiện trong giảng dạy ở Khoa còn hạn chế.
Giảng viên vẫn sử dụng phấn bảng là chủ yếu. Phấn bảng là phương tiện rất
hữu ích trong giảng dạy truyền thống và cho đến nay, nó vẫn là phương tiện
khơng thể loại bỏ trong giảng dạy. Tuy nhiên, việc sử dụng phấn bảng kết hợp
với các phương tiện khác để nâng cao hiệu quả giảng dạy của giảng viên ở
Khoa chưa được chú trọng và chưa được các giảng viên sử dụng phổ biến.
Việc chưa sử dụng đa dạng các phương tiện giảng dạy đã hạn chế việc sử
dụng và phối hợp các phương pháp giảng dạy khác nhau trong hoạt động
giảng dạy của giảng viên.Theo đó, hiệu quả truyền tải kiến thức của giảng
viên bị hạn chế.
Bốn là, về tổ chức hoạt động giảng dạy
Hiện nay, đối với đội ngũ giảng viên có thâm niên kinh nghiệm đang
thực hiện tốt trong việc linh hoạt các khâu lên lớp, phân bố thời gian hợp lý ở

các khâu, các phần trong bài giảng. Tuy nhiên, đối với đội ngũ giảng viên trẻ,
họ vẫn gặp lúng túng trong việc phân bố thời gian, khối lượng kiến thức với
thời lượng của buổi học nên dẫn tới một số trường hợp “cháy giáo án” vẫn
còn tồn tại. Mặt khác, khả năng lôi cuốn học viên tham gia vào bài giảng, gợi
mở, kích thích sự hứng thú của học viên thơng qua tổ chức hoạt động giảng
dạy cịn hạn chế.
2.2.2.5. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế về chất lượng giảng dạy và từ phía đội ngũ giảng viên
của Khoa là do nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là đội ngũ giảng viên của
Khoa Kinh tế thiếu kiến thức nghiệp vụ sư phạm, hoặc không chuyên về sư



×