Tơ Hồi đã từng khẳng định Nguyễn Minh Châu là một tài năng xuất sắc “Đọc
Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường
đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên giấy của tài năng”. Thật vậy, điều
đó được thể hiện rõ ràng qua mỗi tác phẩm của ông. Một trong số đó phải kể đến
“Chiếc thuyền ngồi xa”
Hình tượng NĐBHC trong truyện ngắn CTNX là một nhân vật tiêu biểu chứng tỏ độ
“chín” về tài năng và bản lĩnh sáng tác của NMC. NMC là nhà văn có vị trí đặc biệt
trong đời sống văn học nước ta, nhất là trong thời kì mà văn học VN đang có sự
chuyển động sâu sắc và phức tạp, một thời kì trở dạ của đất nước: thời kì đổi mới.
Trên hành trình ấy, NMC đã trở thành một trong những cây bút tiên phong của
văn học VN thời kì đổi mới, thuộc trong số những người mở đường tài năng và
tinh anh nhất trong thời đại chúng ta”. (Nguyên Ngọc)
Hành trình sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn rõ rệt : trước và sau 1975.
Trước năm 1975, NMC từng là cây bút xuất sắc của văn học sử thi thời đánh Mĩ.
Song, sau năm 75, các tác phẩm của ông chuyển mình theo hướng đời tư thế sự.
Nhà văn thường thể hiện cái tơi của mình trong tác phẩm với những triết lí, chiêm
nghiệm, suy ngẫm hay cịn gọi làmối trăn trở quan hoài thường trực về cuộc sống
con người.Trong hành trình đổi mới, về quan niệm mối quan hệ giữa VHNT và
cuộc sống con người, ông coi VHNT và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà
tâm điểm là con người. Ngoài ra, qđ nt về con người của NMC là đánh giá con
người ở nhiều chiều, luôn luôn đi tìm những hạt ngọc ẩn chứa trong bề sâu tâm
hồn con người
Sự nghiệp sáng tác của NMC gắn với nhiều tác phẩm ấn tượng. Tuy nhiên giai
đoạn sau 1975, người đọc hay đề cập đến “Chiếc thuyền ngoài xa”. Đây là truyện
ngắn xuất sắc được sáng tác vào sau năm 75 của NMC khi nhà văn hướng sự quan
tâm của mình tới những vấn đề đời tư thế sự.Đặc biệt CTNX được nhà văn sáng
tác vào 1983. Năm 1983 là thời điểm oi nồng ngột ngạt trước cơn giông bão lịch
sử của công cuộc đổi mới đất nước 1986, cái thời mà mỗi khi nhớ lại NMC không
khỏi cảm thấy “gai người”. Theo nhà văn Nguyên Ngọc, NMC”là người cảm nhận
ra sớm nhất, sâu xa nhất, tận máu thịt tâm tưởng mình cái u cầu bức bách sống
cịn của cuộc “trở dạ” nọ, mà ngày nay chúng ta gọi là công cuộc đổi mới. Truyện
ban đầu được in trong tập “bến quê” và sau đó được tập hợp, in lại trong tập
“CTNX” năm 1987.
Về truyện “CTNX” truyện kể về gia đình NĐBHC.Vì cuộc sống mưu sinh vất vả khó
khăn, cho nên Cứ sau mỗi chuyến đi biển, người chồng lại dẫn người vợ lên bờ để
trút mọi nỗi chán chường, bực bội, bế tắc vào những trận đòn man rợ, cứ ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.Những ngày sau đó cảnh tượng như vậy
vẫn tiếp diễn. Và rồi theo lời mời, nđbhc đã đến toà án huyện. Tại đây bà đã kể
câu chuyện cuộc đời mình với Đ và P
Người đàn bà hiện lên là” một người trạc ngoài bốn mươi, thân hình cao lớn với
những đường nét thơ kệch. Mụ rỗ mặt” Đây là hình ảnh người lao động vất vả
lam lũ nhọc nhằn . Dường như cuộc sống mưu sinh đã lấy đi tất cả sự sống, sức
lực và niềm vui của chị. Thế nhưng đằng sau vẻ ngoại hình đấy nđbhc lại có vẻ đẹp
tâm hồn ẩn chứ bên trong bề sâu.
Khi bị chồng đánh thì chị khơng van xin, không phản kháng, không hề chống cự.
Và khi ở tòa án huyện dù được khuyên bỏ chồng, chị vẫn dứt khốt khơng chịu.
Đầu tiên, bởi vì chị là người có tấm lịng vị tha, chị khơng sống cho mình mà sống
cho người khác.Trước hết chị sống cho các con, u thương con.Chị gồng mình
gánh chịu địn roi của chồng là bởi vì những đứa con “ Ơng trời sinh ra người đàn
bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”
Tình mẫu tử được chị ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người
phụ nữ, thiên chức làm mẹ. Do đó khi nói câu trên, người đọc có thể cảm nhận
được sự hạnh phúc , tự hào khi chị đẻ ra các con rồi nuôi các con khơn lớn.Nói
như Chu Văn SƠn đây chính là vẻ đẹp mẫu tính. Chị nhận ra được cuộc sống trên
mặt biển đầy sóng gió, những đứa trẻ ln cần sự che trở, bảo vệ của người mẹ.
Đó cũng là nguyên nhân khiến chị cho rằng: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống
cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!” Vì sống trên thuyền,
ln phải lênh đênh trên biển cả rộng lớn nên lúc phong ba bão táp rất cần một
người đan ông chống trọi dù người đàn ơng ấy có thú tính, vũ phu tàn bạo đi
chăng nữa. Chính tình thương u sâu sắc với con cái đã khiến chị phải nhẫn nhục
chịu sự đày ải tàn nhẫn của người chồng để con thuyền có người đàn ơng khỏe
mạnh, biết nghề, và quan trọng hơn, đó là người bố của những đứa con, người
duy nhất trên đời có thể tận tâm, tận lực cùng chị chèo chống khi phong ba, để
cùng làm ăn ni nấng các con.Ngồi ra tình u thương con của chị được thể
hiện qua việc vì lo cho thằng Phác nên đã gửi nó lên rừng ở với ơng ngoại.Thằng
Phác là đứa con mà chị yêu quý nhất trong đàn con của mình. Bởi đây là “cái
thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ơng đã từng
hành hạ chị.Do đó việc chị đưa thằng P lên rừng ở với ông ngoại tức là chị đang
tránh cho P bị ảnh hưởng tiêu cực từ bố.Chính vì vậy sau khi P bênh mẹ mà đánh
bố, nđbhc “miệng mếu máo gọi, ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ơm chầm lấy
nó rồi lại bng ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy.” hành động vái con
của nđbhc nói với chúng ta : tình yêu thương con đã khiến người mẹ đau đớn, xấu
hổ nhục nhã. Đó là nỗi đau khi khơng che chắn nổi cho tuổi thơ của các con được
trong sáng. Chị đau thêm nổi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh bố hành
hạ mẹ dã man. Và chị càng đau hơn khi từng ngày phải chứng kiến một cách bất
lực sự phát triển tính cách của con trong mơi trường tăm tối.
Tình mẫu tử của chị khơng chỉ được thể hiện qua nước mắt mà còn hiện ra qua
niềm vui, dẫu là hiếm hoi, ít ỏi. Khi nhắc tới những lúc vợ chồng con cái sống hòa
thuận ở trên thuyền, khn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ
cười “- đó là ánh sáng kì diệu tỏa ra từ vẻ đẹp cảm động của tình mẫu tử. “ Vui
nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no” Vì thương các con chị phải
“thức trắng rất nhiều đêm để kéo lưới, khn mặt mệt mỏi,tái ngắt.Cũng vì
thương con nên sau này con cái lớn lên , chị mới xin được với lão đưa chị lên bờ
mà đánh. Qua đó ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp vị tha trong tâm hồn nđbhc
Người đàn bà không chỉ sống cho các con mà chị cịn sống vì chồng. “Trước kia
thời là con gái vì bị bệnh đậu mùa cho nên xấu xí rỗ mặt.”Và khi có người thanh
niên cục tính nhưng hiền lành lấy chị làm vợ. nđôhc đã cho chị ấy một gia đình. Ta
có thể cảm nhận được sâu thẳm trong trái tim NĐBHC là sự hàm ơn. Không những
thế chị còn nhẫn nhục chịu đựng đòn roi của chồng. Vì chị hiểu rằng chồng mình
khơng hề ghét bỏ mình nhưng vì cuộc sống mưu sinh vất vả, nhọc nhằn trên mặt
biển đầy sóng gió, sự nghèo đói khốn quẫn trên một con thuyền chật chội, những
cay đắng, bế tắc, phất uất triền miên đã vượt khỏi giới hạn chịu đựng của con
người, khiến một anh con trai cục tính nhưng hiền lành… không bao giờ đánh đập
vợ đã dần trở thành vũ phu độc ác. Chị cũng hiểu lão đánh vợ khơng phải vì thù
ghét gì người vợ khốn khổ, lão đánh vợ chỉ như người khác uống rượu cho nguôi
quên nỗi khổ sở của mình. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh,
cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu…thì tơi cịn đỡ
khổ”
Khơng chỉ thấu hiểu, xót thương cho nỗi khổ sở của người chồng, cũng không chỉ
chia sẻ nỗi khổ sở ấy bằng sự chịu đựng kì lạ, người đàn bà nhân hậu cịn mang
một mặc cảm có lỗi khi cho rằng: “giá tơi đẻ ít đi, hoặc chúng tơi sắm được một
chiếc thuyền rộng hơn… lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà
thuyền lại chật”. Nếu cả Đẩu và Phùng đã kinh ngạc, bất bình trước sự cam chịu,
nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu nguyên nhân của thái độ
ấy, họ càng kinh ngạc vì sự nhân hậu vị tha trong tấm lịng người đàn bà ấy cũng
lớn lao, kì lạ tới mức khơng thể nào hiểu được.
Ngồi tấm lịng vị tha, đức tính hi sinh, lí do thứ hai chị khơng chịu bỏ chồng là do
sự sâu sắc thấu trải của chị.Khi nói chuyện với P và Đ . người đàn bà hàng chài quê
mùa, thất học nhưng lại có con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình, có sự thâm
trầm trong việc hiểu thấu lẽ đời đã khiến các anh trở thành những người nông
nổi, ngây thơ. Những nhận xét giận dữ, bất bình, những lời khun đầy thiện chí
thấm đẫm lòng nhân hậu, những giải pháp tưởng như duy nhất đúng đắn, tưởng
như là lẽ đương nhiên không cần bàn cãi: Cả nước này khơng có một người chồng
nào như hắn… Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu đấy đâu… đều lần
lượt vấp phải những lí lẽ bình dị nhưng nghiệt ngã và khơng thể thay đổi của hiện
thực cuộc sống qua những thấu trải, chiêm nghiệm sâu xa của người đàn bà.Nđb
đã giúp P và Đ hiểu ra những nghiệt ngã của cuộc đời , chỉ rõ sụ thiếu thực tế của
họ mặc dù họ rất tốt “ Chị cảm ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có
phải người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm
ăn lam lũ, khó nhọc” Việc làm ăn mà chị nói đến là vc kéo chài, kéo lưới. Đây là
cơng việc hồn tồn phụ thuộc vào thời tiết biển cả, là một nghề chất chưởng cầu
may.Chính vì vậy chị hiểu rõ việc rất cần một người đàn ông chèo chống lúc phong
ba dù anh ta có man rợ, hung bạo, nhất là những khi gặp giông bão, biển động. Họ
phải hợp sức lại mà làm lụng quần quật để nuôi một đàn con - mà nhà nào cũng
trên dưới chục đứa. Ngồi ra chị cịn hiểu được “làm nhà trên đất ở một chỗ đâu
có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng cấp
đất cho nhưng chẳng ai ở, vì khơng bỏ nghề được. ‘’
Chị đã giúp Đẩu và Phùng nhận ra tình trạng luẩn quẩn, bế tắc trong cuộc sống
của ngư dân: ở thuyền thì chật chội, bức bối, bấp bênh nhưng lên bờ thì lại phải
bỏ nghề, mà sự tồn tại của ngư dân thì gắn chặt với nghề. Đến đây cả P và Đ đều
hiểu ra một nghịch lý xót xa Trước kết luận chua chát của Đẩu về nghịch lí Bây giờ
tơi đã hiểu … trên thuyền phải có một người đàn ơng.. dù hắn man rợ, tàn bạo,
người đàn bà sông nước đã có một lời đáp thật nhẹ nhàng, thấm thía, sâu sắc,
chân tình mà thắt vào lịng người khi những chiêm nghiệm được rút ra từ cuộc
đời gian truân, vất vả: Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú!
Từ đây nhà văn muốn nói với chúng ta lịng tốt và thiện chí con người đơi khi cũng
phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế và qua chuyện của nđbhc. Những hiểu biết
cảu P và Đ đối sánh với ng đàn bà từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu tất cả
những sự việc có thể và khơng thể của cuộc sống đời thường càng khẳng định sự
sâu sắc của NĐBHC. Điều này khiến người đọc vừa cảm phục nhưng cũng xót
thương cho số kiếp của con người khi sự sâu sắc được đánh đổi bằng mồ
hôi,nước mắt, cay đắng, nhọc nhằn.
Có người đã nói: "Những nhân vật và những tính cách sinh động chính là tấm
huân chương cao quí của nhà văn". Thực vậy, nhân vật giữ một vai trò hết sức
quan trọng trong thành công của một tác phẩm, một tác giả văn học. Một tác
phẩm hay phải là tác phẩm có những nhân vật ấn tượng, cá tính, ám ảnh và thể
hiện được sự sáng tạo của người nhào nặn ra chúng. Trong đoạn trích trên nghệ
thuật xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài đã được làm nổi bật rõ nét.
Đầu tiên, NMC đã đặt nhân vật nđbhc vào tình huống truyện độc đáo: quá trình
nhận thức của P để từ đó qua câu chuyện của tòa án huyện từ những giây phút
nghẽn lại trong quá trình nhận thức sau tất cả anh đã vỡ ra rất nhiều điều về
người đàn bà. Người đàn bà với vẻ bề ngoài lam lũ, nhếch nhác, quê mùa, rỗ mặt,
cao lớn thân hình thơ kệch nhưng sâu trong tâm hồn chị là vẻ đẹp của người phụ
nữ VN : vị tha, giàu đức hy sinh, sâu sắc thấu trải lẽ đời. Đây cũng chính là vẻ đẹp
khuất lấp. Điều này cũng thể hiện được quan điểm nghệ thuật về con người của
NMC “tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”
Tiếp theo , Vì NMC thiên về khuynh hướng đời tư, thế sự. Chính vì vậy, Ngơn
ngữ,hành động, cử chỉ của nđb hiện lên chân thực, đời thường, linh hoạt Ở tòa án
huyện, lúc đầu thị chị xuất hiện bằng những hình ảnh rụt rè dù đây khơng phải lần
đầu chị đên một nơi công sở. ‘’ Người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng, tìm đến
một góc tường để ngồi’’ Ngay cả cách xưng hơ ‘con-q tịa’’ cũng thể hiện được
sự sợ sệt, rón rén của người đàn bà. Tuy nhiên sau khi lấy được sự thăng bằng,
người đàn bà vừa mới sợ sệt van xin bỗng chốc đột ngột chuyển đổi cách xưng hô
‘’chị-các chú’’, nđbhc hiện ra là một người từng trải, hiểu biết cuộc đời và chính
chị là người thức tỉnh cho P và Đ về cách nhìn nhận cs, cng
Như vậy, Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, những nhân vật trong đó
thường là người lính, người anh hùng của thời đại đã nhường chỗ cho những
nhân vật đích thực của dịng đời lam lũ, thăng trầm. Cùng với sự vận động đổi
mới của văn học, với tâm huyết của một nhà văn yêu nghề, với thái độ nghiêm
túc, Nguyễn Minh Châu đã có những thành cơng trong việc đổi mới nghệ thuật
xây dựng nhân vật của mình
Từ hình ảnh người đàn bà hàng chài, nhà văn NMC đã thể hiện quan điểm về cách
nhìn nhận cuộc sống và con người trong tác phẩm CTNX
Về cách nhìn nhận cuộc sống. Cuộc sống vốn chưa bao giờ đơn giản, càng không
xuôi chiều, cuộc sống ln phải có những mặt đối lập, nghịch lí kể cả trong thời
bình và con người đơi khi phải chấp nhận mâu thuẫn nghịch lý này. Nếu lúc đầu cả
P và Đ đều có nút thắt “khơng thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được” khi
người đàn bà nhất quyết không chịu bỏ người chồng vũ phu dù ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng. cả nước khơng có một người chồng nào như hắn.
Nhưng sau khi nghe người đàn bà kể về câu chuyện của mình thì cả P và Đ đều
“Phải phải bây h tơi đã hiểu”. Các anh đã vỡ ra rất nhiều điều về cuộc sống. ĐĨ là
lịng tốt của các anh đã khơng phù hợp với hồn cảnh thực tế và lý thuyết đôi khi
không phù hợp với thực tế cuộc sống.
Đồng thời khi nhìn nhận cuộc sống phải có cái nhìn đa chiều, đơi khi mình phải
chấp nhận cái có thể thành cái khơng thể, cái khơng thể thành cái có thể.Ví như
nếu trong cuộc sống sẽ khơng bao giờ xảy ra việc người mẹ vái lạy con vì người
mẹ là bề trên . Tuy nhiên trong tác phẩm CTNX, chuyển tưởng như không thể xảy
ra ấy lại trở thành có thể.
Về cách nhìn nhận con người,trước hết, chúng ta phải đánh giá nhìn nhận con
người qua nhiều chiều nhiều phương diện,khơng chỉ đánh giá bề ngồi mà cịn
đánh giá tính cách. Nói như NMC là ‘’cuộc sống đa diện con người thì đa đoan’’.
Anh P trong tác phẩm đã có một cái nhìn phiến diện khi anh hỏi ng đàn bà “ Lão ta
trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy khơng? Nhưng người đàn bà đã trả lời “ Không
chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính” Như vậy P đã có đánh giá định
kiến, phiến diện một chiều. Khi anh chỉ thấy nđohc đánh vợ nhưng anh đã tự cho
rằng a chồng ác ôn và đi lính ngụy. Hay như câu hỏi khác P hỏi “ Cả đời chị có một
lúc nào thật vui” Khi hỏi câu hỏi này phần nào P cx đã nghĩ rằng người đàn bà
khơng có một lúc nào vui cả. Tuy nhiên trái ngược vs suy nghĩ của P, nđb đã nói
“Có chứ chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no”
Đồng thời, Từ câu chuyện của người đàn bà, P và Đ cũng vỡ ra những suy ngẫm về
con người. Về NĐƠLC nếu như ban đầu họ nhìn nhận anh như một tội nhân thì
sau câu chuyện của nđb họ nhận ra nđơ khơng chỉ là tội nhân mà anh cịn là nạn
nhân của cuộc sống đói nghèo. Ngồi ra nếu lúc đầu họ thấy người đàn bà nhận
nhục chịu đựng những đòn roi của chồng,là một người phụ nữ thất học quê mùa
lạc hâu thì lúc sau họ hiểu ra đằng sau vẻ bề ngoài ấy nđb là ng phụ nữ sắc sảo
thấu trải lẽ đời vị tha giàu đức hi sinh. Thêm vào đó họ cịn tự vỡ ra về chính
mình. Với Đẩu, anh là người tốt giỏi về luật P nhưng lại thiếu kiến thức đời sống.
Còn với chính P, anh nhận ra chính bản thân anh cũng từng có cái nhìn phiến diện
trước sự vật hiện tượng vì vậy anh đã có cái nhìn đánh giá nhìn nhận thiếu thuyết
phục. Như vậy trong cuộc sống chúng ta phải luôn luôn đánh giá con người ở
nhiều phương diện, không nên đánh giá một chiều phiến diện.
Để làm được điều trên, người nghệ sĩ phải có tố chất nghệ sĩ và ngoài tố chất
cũng chưa đủ, người nghệ sĩ còn cần phải phản ánh đúng hiện thực cuộc sống tức
là phải có phẩm chất, có tâm. Cái tài lẫn cái tâm phải hài hòa trong người nghệ sĩ
để họ phát hiện nhanh cái đẹp, phát hiện trúng bề sâu của cuộc sống.
Có thể thấy trước 75, sở trường của NMC là viết về người lính chiến tranh. Là nhà
văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ý thức sâu sắc về sứ mệnh cao cả, nhiệm vụ
thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh
chống Mỹ cứu nước. Tâm niệm sáng tác duy nhất trong ông lúc này là hướng đến
cuộc “chiến đấu vì sự sống cịn của cả dân tộc, đất nước”, do vậy nhà văn đã dành
gần hai chục năm sung sức của cuộc đời để tìm tòi, khám phá, thành tâm và say
sưa ngợi ca vẻ đẹp lung linh, kỳ ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong
chiến tranh. Đó chính là những tác phẩm được viết bởi cảm hứng sử thi-anh hùng
ca - một cảm hứng chủ đạo của văn học thời kỳ chống Mỹ mà Nguyễn Minh Châu
là một trong những nhà văn thể hiện xuất sắc nhất với Mảnh trăng cuối rừng, Dấu
chân người lính… Có thể nói đây là mảng đề tài làm nên tên tuổi của ông trước
1975.
Thế nhưng Nguyễn Minh Châu lại là người chiến sĩ đi tiên phong trong sự nghiệp
Đổi mới của Văn học Việt Nam nửa cuối TK 20. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn
ấy- thời gian trước cái mốc năm 1986 (Thời kỳ Đổi mới) Nguyễn Minh Châu đã thể
hiện cả bản lĩnh dũng cảm và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và
mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người
phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó.’’Chiếc thuyền ngồi xa’’
như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những
mặt phức tạp cuộc đời của Nguyễn Minh Châu tác phẩm đã đánh dấu sự đổi mới
trong sáng tác của NMC sau 1975. Bởi CTNX được tác giả viết vào năm 1983
trước 3 năm của thời kì đổi mới. Năm 1983, khi Chiếc thuyền ngoài xa ra đời, đất
nước vẫn chưa thoát khỏi dư chấn của chiến tranh, đời sống nhân dân vơ cùng
khó khăn, số phận cá nhân nằm im dưới ‘’lớp băng hà”. Với những dự cảm thời
cuộc sắc bén và tài năng nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã giúp lớp
băng hà kia có những vết nứt cần thiết, vết nứt để nhìn ra vùng tối, và có thể, đón
nhận vùng sáng.
Khép lại đề tài chiến tranh ngồi mặt trận NMC hướng ngịi bút của mình vào vấn
đề đời tư_thế sự. Vậy nên cuộc sống hậu chiến của đất nước với muốn vàn khó
khăn, phức tạp đã hắt bóng một cách chân thực sâu sắc qua những trang viết của
CTNX. ĐỒng thời khép lại khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của một
thời đánh MĨ, CTNX đã mở ra những suy nghĩ trăn trở, những quan hoài thường
trực của NMC về thân phận con người. Ông lo lắng băn khoăn về nhân cách đạo
đức của con người trong cuộc sống thường nhật. Ông sâu sắc trăn trở những vấn
đề của cuộc sống mưu sinh. Và sự đổi mới trong sáng tác của NMC được thể hiện
rõ nhất khi nhà văn viết bài viết “Hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ minh
họa” (1987).