Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Luận văn thạc sĩ: Đạo hiếu trong Nho giáo và ý nghĩa của nó đối với giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.61 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------

NGU

N H NG PHONG

ĐẠO HI U TRONG NHO GI O VÀ
C AN

ĐỐI VỚI GI O

NGH A

C ĐẠO Đ C

GIA Đ NH Ở VI T NAM HI N NA

LUẬN VĂN THẠC S

C

T

H Nộ - 2015




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------

NGU

N H NG PHONG

ĐẠO HI U TRONG NHO GI O VÀ
C AN

ĐỐI VỚI GI O

NGH A

C ĐẠO Đ C

GIA Đ NH Ở VI T NAM HI N NA

L ậ vă

N ƣờ

ƣớ

ạ sĩ
M s

T




TS

H Nộ - 2015

ƣơ






LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân, được thực hiện trên nghiên cứu lý thuyết, khảo sát trên tác phẩm cụ
thể, không sao chép của ai. Số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hồng Phong


LỜI CẢM ƠN
Để luận văn được hoàn thành, trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
TS. Dương Văn Duyên - người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn cho tơi trong suốt
q trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn đến những thầy cô giáo khoa Triết học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã dạy bảo tôi trong suốt thời gian
vừa qua.
Trân trọng cảm ơn các thầy cô phản biện và các thầy cô giáo trong ban Hội
đồng đã đọc, nhận xét và góp ý về luận văn.

Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè,… những
người đã tạo điều kiện thuận lợi và cổ vũ, động viên tôi rất nhiều trong quá trình
thực hiện luận văn này!
Dù đã có nhiều cố gắng song luận văn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót
và hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ, những ý kiến đóng góp quý báu của
quý thầy cô và các bạn!


M CL C
MỞ Đ U ....................................................................................................................2
L



................................................................................................2

T

...........................................................3

M
Đ

v
ƣ

v

Cơ sở




ậ v

Đ

v

...................................................................8

v

....................................................................8

ƣơ

.....................................................8

ậ vă ......................................................................................9
ĩ

ậ v

K

ậ vă .......................................................9

ậ vă .........................................................................................9

NỘI UNG ..............................................................................................................10

CHƢƠNG

ĐẠO HI U TRONG NHO GI O VÀ GI O

C .....................10

ĐẠO Đ C GIA Đ NH ............................................................................................10
Đạ

N

..............................................................................10

1.1.1. Nho giáo và vị trí đạo hiếu trong đạo đức Nho giáo .............................10
1.1.3. Đạo hiếu trong Nho giáo Việt Nam .......................................................33
G



...........................................................................42

1.2.1. Khái niệm gia đình, đạo đức gia đình và giáo dục đạo đức gia đình ...42
1.2.2. Vị trí, nội dung giáo dục đạo đức gia đình ............................................45
1.2.3. Chủ thể và phương pháp giáo dục đạo đức gia đình ............................52
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................59
CHƢƠNG

TH C TRẠNG GI O

HI N NA VÀ


C ĐẠO Đ C GIA Đ NH VI T NAM

NGH A ĐẠO HI U VỚI GI O

C ĐẠO Đ C ...............62

GIA Đ NH Ở NƢỚC TA ........................................................................................62
T





V

N

.......................62

2.1.1. Nh ng thành t u đạt đư c .....................................................................62
2.1.2. Nh ng hạn chế .......................................................................................70
ĩ





ở ƣớ


...76

Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................87
K T LUẬN ..............................................................................................................89
TÀI LI U THAM KHẢO ......................................................................................91
1


MỞ Đ U
L



Trước xu thế tồn cầu hố và hội nhập ngày một sâu rộng về mọi mặt, mỗi
dân tộc đều đứng trước địi hỏi tất yếu khách quan, đó là vừa phải hịa mình vào
dịng chảy chung của nhân loại, vừa phải khẳng định các giá trị riêng có của dân tộc
mình. Đóng vai trị làm nền tảng văn hóa của mỗi dân tộc, giá trị văn hóa truyền
thống luôn là hệ chuẩn nhận diện sức sống và tương lai phát triển cho chính dân tộc
ấy. Do đó, việc nghiên cứu lý luận nhằm tiếp tục làm rõ vai trị của các giá trị truyền
thống với tư cách hình thành nên bản sắc văn hóa là điều cần thiết và có ý nghĩa đối
với đất nước ta hiện nay.
Trong các giá trị văn hóa tinh thần ở phương Đơng, Nho giáo đang nhận
được sự quan tâm ngày càng nhiều vì sự đóng góp của nó vào sự hình thành các giá
trị đó trong thời kỳ lịch sử lâu dài. Chính những thành cơng của một số nước trong
khu vực chịu ảnh hưởng của Nho giáo là minh chứng rõ nhất. Trong lịch sử phát
triển của Nho giáo, cho dù quan niệm của các nhà nho mỗi thời kỳ có khác nhau,
song họ đều thống nhất với nhau một điểm là đề cao đạo hiếu của con người, coi đó
là một trong những tư tưởng cốt lõi, là nội dung chủ yếu bao trùm và xuyên suốt
học thuyết Nho giáo. Vấn đề căn bản hiện nay là phải khai thác cái gì trong đạo hiếu
cũng như hệ tư tưởng Nho giáo và vận dụng nó ra sao vào hồn cản thực tiễn nước

ta cho phù hợp với xu thế hội nhập và tồn cầu hóa. Khơng những thế, u cầu này
còn xuất phát từ điều kiện thực tiễn ở Việt Nam vì mục đích xây dựng xã hội mới,
con người mới thời kì hội nhập.
Gia đình Việt Nam hiện nay, vốn là nơi duy trì các giá trị đạo đức truyền
thống, nhưng lại đang đứng trước thách thức, sự tấn công của những quan niệm tư
tưởng mới, lối sống mới. Mặt trái của cơ chế thị trường đang hàng ngày hàng giờ
làm suy thoái đạo đức của một bộ phận trong xã hội. Thực tế cho thấy rằng, trong
đời sống xã hội đã có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị truyền thống, chạy theo
thị hiếu không lành mạnh: Tệ sùng bái văn hóa ngoại lai, coi thường những giá trị
văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ… đang gây

2


hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền mà chà
đạp lên tình nghĩa gia đình, vợ chồng, cha con, anh em... Trong khi đó, tình trạng
giáo dục đạo đức gia đình bị bng lỏng, thậm chí là xem nhẹ; thái độ và hành vi đối xử
của con cái đối với cha mẹ đang diễn ra một cách tuỳ tiện và trái với đạo đức.
Để thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của
gia đình Việt Nam cần nghiên cứu nội dung đạo hiếu trong Nho giáo và ý nghĩa của
nó đối với giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay để phát huy những giá trị
của đạo hiếu trong Nho giáo và ý nghĩa của nó đối với giáo dục đạo đức gia đình ở
Việt Nam hiện nay nhằm xây dựng đạo đức gia đình Việt Nam trong thời đại mới,
xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm no; đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực,
xuống cấp của đạo đức gia đình là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng
trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, học viên chọn đề tài:
“Đạo hiếu trong Nho giáo và

ngh a của nó đ i v i giáo dục đạo đức gia đình ở


Việt Nam hiện na ” cho luận văn thạc sỹ triết học với mong muốn được đóng góp
phần nhỏ bé của mình vào việc làm rõ và sâu sắc hơn nội dung đạo hiếu của Nho
giáo cũng như công tác xây dựng gia đình Việt Nam nói riêng và cuộc xây dựng và
phát triển đất nước nói chung trong điều kiện hiện nay.
T
Nho giáo là học thuyết ra đời từ thời kỳ cổ đại ở Trung Quốc. Sự tồn tại,
hưng vong và những nội dung cơ bản của Nho giáo đã nhận được sự quan tâm rộng
khắp của giới nghiên cứu ở Trung Quốc, Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới.
Các cơng trình nghiên cứu về Nho giáo trong những năm gần đây ngày càng tăng
lên. Nho giáo với tư cách là học học thuyết chính trị, đạo đức, vì vậy bản thân nó
ln mang trong mình tính đa nghĩa ở mỗi một vai trị mà khơng có sự tách biệt
hồn tồn. Nghiên cứu về đạo đức Nho giáo nói chung vì thế cũng khơng tách bạch
một cách siêu hình với việc nghiên cứu các nội dung khác của Nho giáo. Trong tính
thống nhất tương đối đó, vấn đề đạo đức của Nho giáo nói chung và đạo hiếu của
Nho giáo nói riêng đã được khai thác ở những tầng bậc khác nhau.

3


Hiện nay, đề tài giáo dục đạo đức gia đình đang trở thành vấn đề thời sự
nóng bỏng ở Việt Nam, một quốc gia vốn có truyền thống đề cao vai trị gia đình
trong sự hình thành nhân cách con người và phát triển xã hội. Có thể thấy, chưa bao
giờ vấn đề này lại thu hút sự nghiên cứu của giới chuyên môn cũng như các ngành
chức năng như giai đoạn hiện nay. Xu thế tồn cầu hố đang tạo ra nhiều cơ hội
chưa từng thấy cho các gia đình phát triển thì đồng thời cũng đặt ra nhiều thách
thức, các loại hình gia đình đang đứng trước nguy cơ bị đồng hoá, làm suy kiệt
những hệ thống giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống gia đình. Chính vì vậy,
vấn đề củng cố, phát triển gia đình đã và đang trở thành mối quan tâm chung của
toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề này đã được một số nhà nghiên cứu về Nho giáo đề cập

đến qua một số cơng trình nghiên cứu như:
Bàn về đạo đức Nho giáo, tác giả Quang Đạm trong tác phẩm Nho giáo xưa
và nay khẳng định: “Khổng Khâu và các đồ đệ trực tiếp hoặc gián tiếp của “Phu
Tử” dành công phu nhiều nhất vào sự giảng dạy, trau dồi các đức hiếu đễ, đức nhân
và đức lễ. Đi từ đáy tháp lên tới đỉnh tháp, chúng ta sẽ cố gắng một mặt tìm hiểu
chung tất cả các đức trên đây, mặt khác tập trung sự chú ý nhiều hơn vào hiếu đễ,
nhân và lễ…Nếu ta coi đức nhân là đức lớn tập trung tinh túy của tất cả các đức
khác, thì chúng ta có thể kết luận rằng, Khổng giáo coi hiếu đễ là gốc của tất cả mọi
đức nói chung… Hiếu đễ không phải chỉ là đức tốt của người làm con làm em mà
còn luyện cho con người trở thành hữu đạo, hữu đức trong nước trong thiên hạ nữa”
[13, tr.130]. Nhà nghiên cứu Quang Đạm đã từ nhiều luận điểm trong Ngũ Kinh, Tứ
Thư…và nhiều tài liệu diễn giải của những danh Nho về sau để nêu lên mấy nguyên
lý lớn nhất của chữ hiếu: Sự thân và thủ thân gắn liền với nhau; suốt đời thiện kế,
thiện thuật; dương danh hiển thân, cách báo hiếu tốt nhất [13, tr.178].
Đi sâu khai thác đạo hiếu ở cấp độ sâu hơn phải kể đến tác phẩm “Chữ hiếu
trong nền văn hoá Trung Hoa” của tác giả Tiêu Quần Trung. Với bốn chương, tác
giả đã đề cập tới khởi nguồn, diễn biến, ý nghĩa của đạo hiếu và bước đầu nêu lên
những suy nghĩ về lịch sử của hiếu đạo với các giá trị đương đại. Theo ông, từ
Khổng Tử đến Hiếu Kinh là hoàn thành lý luận hiếu đạo của Nho gia. Về sau, nhà

4


Hán dùng hiếu để trị thiên hạ, cịn văn hóa hiếu đạo thời Ngụy, Tấn, Tùy, Đường là
loại suy tôn và biến dị. Tác giả cũng đưa ra nhận định về đỉnh cao ngu hiếu thời
Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Trên cơ sở đó, Tiêu Quần Trung đã nghiên cứu mối
quan hệ giữa hiếu đạo và việc báo hiếu, ông không chỉ nêu ra tác dụng lịch sử của
hiếu đạo mà còn khẳng định giá trị hiếu đạo trong quan hệ gia đình, xã hội, quốc gia
và dân tộc. Ơng khẳng định: “Hiếu đạo trong xã hội cổ đại Trung Quốc đã phát huy
tác dụng lịch sử của nó chủ yếu là tác dụng làm ổn định, hịa mục gia đình và duy trì

ổn định xã hội. Hiếu đạo là một cử chỉ thân tình tự nhiên, song cũng lại là công cụ
giáo dục nghĩa vụ con người... Hiếu đạo không trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội, song nó có tác dụng làm cho gia đình và xã hội ổn định, như vậy là đã gián
tiếp làm cho xã hội phát triển” 88, tr.373.
Nhìn chung, những nhìn nhận và đánh giá của tác giả Tiêu Quần Trung là
khá sâu sắc. Tuy nhiên, có thể do nghiên cứu từ góc độ và phương pháp tổng hợp
của văn hóa nên tính chất tổng hợp lý tính trừu tượng mang tính triết học trong tác
phẩm cịn mờ nhạt và chưa có sự phân tích về cơ sở tồn tại xã hội, cái mà trên đó
văn hóa hiếu đạo nảy sinh và phản ánh. Cho nên, tuy diện mạo của đạo hiếu trong
nền văn hóa Trung Hoa thì đã được phác họa song lý do cơ bản để nó nảy sinh, tồn
tại và biến dịch trong quá trình vận động thì chưa được đề cập.
Phan Đại Doãn trong tác phẩm “Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam” đã
phân tích: “Ở Việt Nam, trên nền tảng Đông - Nam Á, gia đình nhỏ lấy vợ chồng
làm mặt ngang bằng, bình đẳng là chính, khi tiếp nhận luân lý Nho giáo đương
nhiên phải chuyển đổi, đó là quan niệm hiếu gắn liền với nghĩa. Hiếu vốn là tinh
thần, là nội dung của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam được hình thành từ
rất xa xưa trong phong tục tín ngưỡng như “thờ cúng tổ tiên”, “trọng lão” nhưng về
sau lại được giáo lý Nho giáo khẳng định thêm sâu sắc, chi tiết và thể chế hóa thành
luân lý xã hội. Các nhà nước dưới thời Lê - Nguyễn đều lấy hiếu để củng cố gia
đình… lấy hiếu làm chuẩn mực cho các giá trị xã hội, làm tiêu chuẩn để rèn luyện
nhân cách, lấy hiếu để ràng buộc con người với con người, bề dưới với bề trên và
đặc biệt được pháp luật hóa, chính sách hóa” [11, tr.144]. Tác giả Phan Đại Doãn đã

5


nhận định về vấn đề nhà nước, pháp luật hoá những quan niệm hiếu nghĩa để rút ra
những nội dung cơ bản của đạo hiếu ở Việt Nam. Đồng thời ông khẳng định: “Hiếu
là nhân cách con người, là gốc của nhân luân, là một giá trị xã hội cao q, là quan
hệ đứng dọc trong gia đình và dịng họ, có ý nghĩa quan trọng nhất trong các

nguyên tắc ứng xử gia đình. Đạo hiếu thể hiện trước hết ở việc con cháu phải nuôi
dưỡng ông bà cha mẹ. Đây là yêu cầu tối thiểu đối với mỗi thành viên trong gia
đình.” [11, tr.156]. Khơng những thế, theo Phan Đại Dỗn: “Hiếu khơng dừng ở đạo
đức, mà xa hơn cịn là phạm trù tín ngưỡng, một tín ngưỡng thế tục, hiếu còn là điều
luật xã hội mọi người phải tuân thủ.” [11, tr.175].
Quan điểm của Phan Đại Doãn thể hiện trong tác phẩm khá sâu sắc và mang
tính gợi mở cao. Vấn đề các triều đại đều có ý thức sử dụng pháp luật để pháp lý
hóa tư tưởng hiếu hay tơng pháp hóa gia đình và dịng họ là một thực tế lịch sử.
Nhưng sự tơng pháp hóa đó ảnh hưởng đến tư duy, hành động và việc hình thành
nhân cách con người Việt Nam như thế nào cần có sự luận giải rõ hơn nữa.
Trần Nguyên Việt với bài viết “Đạo hiếu Việt Nam qua cái nhìn lịch đại” đã
luận giải khái niệm hiếu, quan điểm hiếu đạo theo tiến trình phát triển lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Trần Nguyên Việt cho rằng: “Tinh thần trung hiếu thời Trần đã để
lại cho các triều đại phong kiến Việt Nam về sau một bài học sâu sắc mà triều đại
nào khơng biết phát huy nó đều gặp phải khó khăn trong việc điều hành đất nước và
đặc biệt, không thể thắng được kẻ thù xâm lược” 94, tr.36 và chủ trương “lấy hiếu
trị thiên hạ” (Minh Mệnh chính yếu) đã làm cho đạo hiếu trở thành cái chủ đạo
trong lối sống của nhiều gia đình cũng như chuẩn mực đạo đức trong văn hóa ứng
xử xã hội mang tính ln lý người Việt” 94, tr.41…Trên cơ sở đó, Trần Nguyên
Việt rút ra một số đặc điểm trong đạo hiếu Việt Nam: Đạo hiếu thiên về hoạt động
thực tiễn hơn là lập thuyết; đạo hiếu Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều học thuyết
triết học, chính trị - đạo đức, tôn giáo và các yếu tố bản địa; thừa nhận đạo hiếu như
một lẽ tự nhiên, người Việt Nam chấp nhận và tuân thủ việc luật pháp hóa các hành
vi đạo đức, coi những quy phạm đạo hiếu đã được luật pháp hóa ấy như những
chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh, định hướng hành vi đạo đức của mình.

6


Tuy Trần Nguyên Việt đã rút ra những đặc điểm của đạo hiếu Việt Nam

nhưng trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu hẹp, ơng chưa có điều kiện để đề cập
và khai thác sâu các khía cạnh như: Bổn phận, trách nhiệm của người làm con...
Cho nên, nếu dùng hệ chuẩn của kinh điển Nho giáo để soi dẫn tiến trình biến đổi
của đạo hiếu theo lịch đại có thể đem lại cách đánh giá vừa toàn diện vừa mang tính
lịch sử cụ thể.
Ngồi ra cịn một số bài viết và luận văn, luận án nghiên cứu khá công phu,
chẳng hạn: “Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ” của Nguyễn Tài Thư; “Ảnh
hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống” của Trần
Thị Hồng Thúy; “Từ đạo hiếu truyền thống, nghĩ về đạo hiếu ngày nay” của
Nguyễn Thị Thọ, Tạp chí Triết học số 6 năm 2007; “Một số suy nghĩ về đặc điểm
của Nho giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 5 năm
1998; “Tìm hiểu tư tưởng đức trị trong Nho giáo” của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, số 10 năm 1999... Các cơng trình nghiên cứu về đạo đức Nho
giáo nói chung và đạo hiếu của Nho giáo nói riêng đã khai thác vấn đề ở nhiều
chiều cạnh khác nhau và đã đạt được những kết quả nhất định. Trong khi cơ sở xã
hội để tồn tại của Nho giáo đã lùi vào quá khứ nhưng sức sống và sự ảnh hưởng của
đạo đức Nho giáo là điều đã được lịch sử xác nhận. Thay vì việc phê phán Nho giáo
theo trào lưu trước đây gắn với toàn bộ tội trạng của xã hội phong kiến thì các nhà
nghiên cứu chú trọng vào khuynh hướng khai thác những giá trị của đạo đức Nho
giáo, những giá trị có thể tích hợp được với hệ giá trị hiện đại trên quan điểm khách
quan, tồn diện và thực tiễn. Chính khuynh hướng này khẳng định việc cần thiết
phải kế thừa và phát huy các giá trị của Nho giáo nói chung, đạo hiếu của Nho giáo
nói riêng. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu, góc tiếp cận và nhiều yếu tố khác nên
những phân tích, luận giải trên bình diện triết học về vấn đề này cịn ít và đơi khi bị
che lấp nhiều bởi bình diện lịch sử, văn học. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu đạo hiếu
trong Nho giáo và ý nghĩa của nó đối với giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam
hiện nay thì chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống.

7



Tóm lại, trong các cơng trình có liên quan trực tiếp và gián tiếp, đạo hiếu của
Nho giáo đã được nghiên cứu ở các tầng bậc khác nhau. Mối liên hệ giữa đạo hiếu
của Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức con người cũng đã được đề cập song
chỉ dừng lại ở những gợi mở khoa học, những tiếp cận ban đầu hoặc tư tưởng phái
sinh trong tổng thể một vấn đề lớn. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc thành tựu nghiên
cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, luận văn tập trung khai thác trên bình diện
triết học một cách hệ thống, chi tiết vấn đề “Đạo hiếu trong Nho giáo và ý nghĩa của
nó đối với giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay”.
M

v

v

M
Nghiên cứu nội dung đạo hiếu trong Nho giáo và đánh giá ý nghĩa của nó đối
với giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay để xây dựng gia đình Việt Nam
ngày càng tiến bộ, hạnh phúc.
N

v

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết hai nhiệm vụ sau:
Làm sáng tỏ nội dung đạo hiếu trong Nho giáo, giáo dục đạo đức gia đình, vị
trí đạo hiếu trong đạo đức Nho giáo.
Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay và ý nghĩa
của đạo hiếu trong Nho giáo đến giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay.
4 Đ
Đ


ƣ

v



v

ƣ

P ạ

Đạo hiếu trong Nho giáo.
v

Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu bằng việc chỉ khảo cứu đạo đức trung,
hiếu của Nho giáo ở Trung Quốc (Nho giáo Nguyên Thủy, Nho giáo thời Hán, Nho
giáo thời Tống) và phân tích nội dung của nó trong Nho giáo Việt Nam qua các đại
biểu nho học chọn lọc. Trên cơ sở đó, đánh giá ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục
đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Cơ sở
Cơ sở

ậ v


ƣơ
:


8


Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử về gia đình; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục đạo đức gia đình Việt Nam.
P ƣơ
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tuân thủ nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nghiên cứu
đánh giá vấn đề một cách khách quan. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương
pháp khác: Phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích và
tổng hợp, đối chiếu, so sánh, phương pháp lơgíc và lịch sử...
Đ

ậ vă

Luận văn trình bày khái quát nội dung cơ bản của đạo hiếu trong Nho giáo.
Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Nêu lên những ý nghĩa của đạo hiếu trong Nho giáo đối với giáo dục đạo đức
gia đình ở Việt Nam hiện nay nhằm xây dựng gia đình Việt Nam ngày càng tiến bộ.
ĩ
ĩ

ậ v


ậ vă
ậ vă

Làm sáng tỏ thêm nội dung đạo hiếu trong Nho giáo.

Đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Nêu lên ý nghĩa của đạo hiếu trong Nho giáo với giáo dục đạo đức gia đình
nhằm xây dựng đạo đức gia đình Việt Nam ngày càng tiến bộ.
ĩ

ậ vă

Cơng trình này có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu và giảng dạy triết học.
Luận văn có thể trở thành tư liệu tham khảo cho các chuyên ngành liên quan.
K

ậ vă

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bố cục của đề tài gồm có hai chương,
chương 1 có 2 tiết, chương 2 có 2 tiết và danh mục tài liệu tham khảo.

9


NỘI UNG
CHƢƠNG

ĐẠO HI U TRONG NHO GIÁO VÀ GI O

C

ĐẠO Đ C GIA Đ NH
1.1. Đạ h


N

1.1.1. Nho giáo và vị trí đạo hiếu trong đạo đức Nho giáo
Nho giáo và quá trình phát triển
Nho giáo được sáng lập bởi Khổng Tử ở Trung Quốc cách đây hơn 2500
năm. Ông sinh năm 551 TCN, ở nước Lỗ, trong một gia đình q tộc sa sút. Khi
cịn nhỏ, tuy gia cảnh nghèo khó nhưng ơng vẫn có điều kiện học sớm và rất ham
học. Chứng kiến chế độ tông pháp nhà Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi,
Khổng Tử muốn đem tài sức mình ra giúp vua, với hy vọng lập lại trật tự lễ, nghĩa
của nhà Chu và cải thiện cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Nhưng không được
vua nước Lỗ trọng dụng, ông chu du đến các nước chư hầu với mong muốn được
mang lý tưởng cải tạo xã hội ra giúp nước, trị dân, cứu đời nhưng khơng thành.
Cuối đời Ơng biên soạn Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân
Thu. Đến năm 479 TCN Khổng Tử qua đời. Trong cuộc đời dạy học của mình,
những lời dạy của ông đã được các học trò ghi lại và tập hợp lại thành bộ “Luận
Ngữ”. Về sau Tăng Sâm đã viết nên cuốn Đại học, học trò của Tăng Sâm là Mạnh
Tử đã viết nên cuốn Trung Dung.
Sang thời Chiến quốc, Mạnh Tử đã ra sức bảo vệ Nho giáo, thường xuyên tỏ
thái độ tôn sùng vương đạo, khinh bỉ bá đạo, tơn sùng nhân, nghĩa, khinh bỉ thói
mưu lợi. Từ những đòi hỏi của thực trạng xã hội lúc bấy giờ, Mạnh Tử đã đề cập
đến nhiều vấn đề cụ thể của đời sống chính trị và kinh tế nhiều hơn thầy Khổng Tử.
Mạnh Tử đã tập hợp và ghi lại những cuộc biện luận của mình thành tập gọi là “bảy
thiên” Mạnh Tử. Mạnh Tử cùng với Luận ngữ, Đại học và Trung dung tập hợp
thành bộ Tứ thư và cùng với Ngũ kinh đã trở thành tài liệu chính thức của Nho giáo.
Thời Đơng Chu kéo dài trong cảnh rối ren, loạn lạc, trước tình hình này đẩy
tồn bộ triều đại nhà Chu và hình thái kinh tế xã hội của nó đến chỗ kết thúc. Thực

10



trạng này đòi hỏi Nho giáo muốn tồn tại và phát triển được thì phải vượt qua khủng
hoảng. Thực tế đạo lý Nho giáo khơng thể chấm dứt được tình trạng loạn lạc. Từ
quyền lợi của giới kinh doanh, Tần Doanh Chính đã thống nhất Trung Hoa và xưng
hồng đế. Nho giáo, đạo lý làm vũ khí tinh thần bảo vệ nề nếp thể chế nhà Chu
cũng phải chịu sự phán quyết của thế lực đang lên. Tần Doanh Chính đã ra chủ
trương đốt sách, chôn nho sĩ “phần thư khanh nho” đã làm cho Nho giáo phải lao
đao khốn đốn. Với những chính sách tàn bạo của nhà Tần đã gặp phải sự lên án và
buộc tội của nhiều người, nhất là những thế lực đại biểu cho xu thế mới của xã hội.
Lưu Bang đã giành thắng lợi, triều đại nhà Hán bắt đầu. Từ đây Nho giáo bắt đầu
dần dần lấy lại ưu thế của mình và trở thành vũ khí tinh thần của nhà Hán.
Triều đại nhà Hán nổi lên một nhân vật quan trọng đó là Đổng Trọng Thư.
Ông đã bổ sung vào học thuyết Khổng - Mạnh phần nói về trời đất, quỷ thần, âm
dương, ngũ hành mà Khổng Tử, Mạnh Tử cố né tránh hoặc nói sơ qua. Đồng thời
hệ thống hóa học thuyết này một cách tương đối hoàn chỉnh, vừa làm cho quân
quyền và thần quyền quyện chặt vào nhau.
Từ thế kỷ XVI, triều đại nhà Minh, triều đại nhà Thanh gắn với sự tiếp xúc
văn hóa phương Tây đã đặt ra những vấn đề không thể giải quyết được dưới ánh
sáng của đạo Nho. Cùng với sự trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa Đơng Tây, các
triết lý của các nhà tư tưởng dân chủ... thực tế cuộc sống đã làm nảy sinh trong đầu
óc nhà Nho những nỗi băn khoăn khó quyết định. Đến cuối triều đại nhà Thanh một
số nhân vật tiêu biểu đã hấp thụ được nhiều tư tưởng mới ở Tây Âu về “tự do”,
“bình đẳng”, “dân chủ”. Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu cũng muốn xây dựng và
phát triển Trung Quốc theo hướng công nghiệp và chú trọng phát triển khoa học kỹ
thuật, nhưng cuối cùng họ đi đến “cải lương” và “duy tâm” dưới ngọn cờ của hoàng
đế triều Thanh. Mãi cho đến 1911 cách mạng Tân Hợi đã giành thắng lợi, Trung
Quốc mới bắt đầu từ vũng bùn phong kiến dần dần bứt lên. Đến đây lịch sử Nho
giáo gắn liền với các triều đại phong kiến Trung Quốc cơ bản đã kết thúc, song
những ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

11



Đạo hiếu trong Nho giáo và vị trí đạo hiếu trong đạo đức Nho giáo
Nho giáo là học thuyết chính trị, đạo đức chủ trương dùng lễ trị và đức trị để
quản lý xã hội. Nho giáo coi gia đình là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều nội
dung thâm thúy, ý nghĩa sâu xa có nhiều ảnh hưởng đến những phạm trù khác về
đạo đức và cuộc sống con người. Trên tinh thần đó, Nho giáo nêu cao nguyên lý
thiên hạ quốc gia và dẫn giải rằng: Gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà,
gốc của nhà là bản thân (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản
tại thân) [6, tr.13]. Chính vì thế, muốn trị nước trước hết phải yên nhà (Dục trị kỳ
quốc giả, tiên tề kỳ gia) [6, tr.21]. Các nho sĩ coi vấn đề “tề gia” là gốc của nước và
thiên hạ, muốn “trị nước” trước hết phải giữ yên được nhà. Chủ trương Nho giáo là
tìm cách xây dựng gia đình, gia tộc thành những bức tường mạnh mẽ. Đạo Khổng
xem gia đình là một trong ba khâu không thể thiếu của hoạt động con người: Tu thân,
tề gia, trị quốc. Bậc quân tử trước hết phải làm cho nhà mình tề chỉnh thì dân chúng
mới làm theo, do đó mà tề chỉnh được mọi nhà dân, trị yên được cả nước.“Một nhà
nhân hậu thì cả nước dấy lên nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước dấy lên lễ
nhượng” (Nhất gia nhân, nhất quốc hưng nhân; nhất gia nhượng, nhất quốc hưng
nhượng) [6, tr.20].
Lễ giáo Nho giáo quy định một cách chặt chẽ các mối quan hệ giữa người
với người, trong đó những quan hệ cơ bản nhất là tam cương (quân - sư - phụ) và
ngũ luân (vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh - em, bạn - bè), trong các mối quan hệ
đó thì đã có ba mối quan hệ trong gia đình. Trên tinh thần đó, Nho giáo xây dựng
nên những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình.“Cha ra cha, con ra con, anh ra anh,
em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là gia đạo chính”. Trong ba mối quan hệ
(cha con, chồng vợ, anh em) làm nên cái gọi là “gia đạo chính” ấy, thì quan hệ cha
con tiêu biểu bằng chữ hiếu, đã được Nho giáo tôn lên rất cao, đặt vào một vị trí đặc
biệt quan trọng, trở thành cốt lõi của các quan hệ trong toàn xã hội.
Tiếp nối tư tưởng đức trị, Nho giáo rất chú trọng yếu tố giáo dục gia đình, coi
giáo dục gia đình là toàn bộ giáo dục xã hội. Khổng Tử quan niệm, đạo đức gắn liền

với chính trị, chính trị chẳng qua là sự mở rộng của đạo đức. Trong học thuyết của

12


ông, đạo đức gắn liền với chính trị, quan hệ chặt chẽ với chính trị, bởi vì nó dựa trên
cơ sở huyết thống, lấy huyết thống làm thước đo của nhân ái. Cho nên, quan hệ
huyết thống trong gia đình là cơ sở học thuyết nói về người quân tử chú tâm vào
gốc rễ, gốc rễ có vững thì đạo mới phát sinh được và hiếu đễ chính là gốc rễ của
nhân, là hạt nhân của nội dung giáo dục đạo đức.
Xưa nay, chưa một học thuyết nào, một trường phái nào bàn về chữ hiếu một
cách sâu sắc, cụ thể và đầy đủ như Nho giáo. Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong
việc xây dựng những quan hệ chặt chẽ trong gia đình và phát triển chúng thành
những quan hệ trong toàn xã hội, trong việc xây dựng những tình cảm và đức tính
tốt trong gia đình, từ đó vun đắp chúng trở thành những tình cảm và đức tốt trong
đạo thờ vua, trị nước. Nho giáo vì thế rất coi trọng việc giáo dục đức hiếu cho mỗi
thành viên trong gia đình. Trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình,
chữ hiếu được đề cao và nhấn mạnh. Gia đình trong xã hội phong kiến cũng rất đề
cao mối quan hệ này và coi hiếu khơng chỉ là trách nhiệm mà cịn là phẩm chất lớn
nhất của đạo làm con.
Đạo hiếu trong Nho giáo được xem là một khái niệm đạo đức nền tảng, là cái
gốc của mọi vấn đề về đạo đức, chính trị, là chuẩn mực trong xã hội, tiêu chuẩn rèn
luyện và đánh giá nhân cách con người và lấy hiếu để buộc người với người. Hiếu
vốn là một nội dung quan trọng của đạo đức gia đình phong kiến, đó là: “Nết đầu trong
trăm nết”. Trong hệ tư tưởng Nho giáo, quan niệm hiếu của các Nho sĩ mỗi thời tuy có
khác nhau nhưng chung quy lại đạo hiếu được lý giải theo hai nghĩa cơ bản:
Đạo hiếu theo nghĩa hẹp, là sự hiếu thuận đối với cha mẹ của con cái, là sự
kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ, vâng theo di huấn của tổ tiên, thực hiện đầy đủ
giỗ… Lòng hiếu của những người cùng huyết thống còn được gắn với đễ, hiếu đễ
tức là lịng kính u đối với anh chị.

Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh sự hiếu thuận đối với cha mẹ và xem đó là
một phẩm chất đạo đức cao đẹp của con người. Ơng nói: “Làm cha mẹ, ai cũng lo
cho con, sợ con phóng túng mà hư thân mất nết, sợ con theo bạn xấu mà làm
chuyện phi pháp, mắc vòng tù tội. Cho nên đi chơi nhà ai thì nên cho cha mẹ biết

13


trước, phòng khi giao du với kẻ chẳng xứng đáng thì cha mẹ khuyên can” (phụ
mẫu tại, bất viễn du; du tất hữu phương) [8, tr.58] hay “Làm con nên xem xét chí
hướng của cha. Đến khi cha thác, người con được trọn quyền hành động, cho nên
phải nhớ tới những việc làm của cha. Nhưng khi cha thác trong ba năm, bấy giờ
người con đương để tang, cho nên chẳng có vui sướng gì mà cải tạo, vì vậy nên
được gọi là hiếu” (phụ tại, quan kỳ chí. Phụ một, quan kỳ hạnh. Tam niên vô cải ư
phụ chi đạo, khả vị hiếu kỹ) [8, tr.58].
Bên cạnh lòng hiếu đối với cha mẹ, Khổng Tử còn nhấn mạnh sự kính u
của em đối với anh và gọi đó là đễ. Do đó, Khổng Tử cho rằng “Làm con khi vào
thì thảo với cha mẹ, khi ra thì kính anh chị và người lớn tuổi” (Đệ tử nhập tắc hiếu;
xuất tắc đễ) [8, tr.6]. Đây là chuẩn mực cơ bản nhất của đạo hiếu và là quy phạm sơ
đẳng nhất cho hành vi con người.
Đạo hiếu nghĩa rộng, là trung hiếu, đó là lịng kính u giữa người với người
trong xã hội, bao gồm lòng hiếu của trẻ đối với già, của kẻ dưới với người trên, lịng
trung của tơi thần với quân vương, của dân đối với nước.
Đó là bước sáng tạo lớn nhất của Khổng Tử, đạo hiếu cịn là kính u giữa
những người khơng cùng quan hệ huyết thống, “trung hiếu là đạo hiếu được xã hội
hóa, chính trị hóa, là người nào nói lời chi cũng trung thành, tín thật, làm việc chi
cũng đối hậu, kính cẩn, dẫu cho đến xứ thô - tục của người miền Nam hay miền
Bắc, cũng được thông hành” (Ngôn trung tín, hạnh đốc kính, tuy Man Mạch chi
bang, hành hỹ) [8, tr.240]. Hai chữ trung hiếu đã gây nên những ảnh hưởng sâu sắc
đối với lịch sử Trung Quốc, dù rằng tích cực hay tiêu cực, nó có tác dụng mạnh mẽ

trong việc duy trì sự thống trị của xã hội phong kiến. Nhưng đây cũng là chiếc gông
tinh thần được giai cấp thống trị dùng để kìm kẹp, trói buộc và nơ dịch người dân.
Tóm lại, lịch sử phát triển Nho giáo mỗi giai đoạn lại có những quan điểm
khác nhau về hiếu, người đầu tiên bàn về đạo hiếu là Khổng tử và Mạnh tử, về sau
Đổng Trọng Thư phát triển tư tưởng này. Theo Nho giáo, hiếu có một nghĩa quan
trọng nhằm xây dựng một xã hội trật tự, ổn định, hịa mục. Gia đình là đơn vị kết
cấu cơ bản nhất của xã hội, sự ổn định của gia đình có tác dụng trong việc củng cố

14


xã hội. Hiếu có tác dụng tích cực trong việc củng cố gia đình. Khổng Tử đã dùng
đạo hiếu với mấu chốt là quan hệ huyết thống để gắn kết xã hội tơng pháp dịng tộc.


1.1.2. Nộ

N

Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời trong thời Xuân Thu
chiến quốc, là giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội Trung Hoa cổ đại trong
quá trình chuyển biến sang xã hội phong kiến, kéo dài từ thế kỷ thứ VII trước công
nguyên đến thế kỷ thứ III trước công nguyên. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên miêu tả
thời kỳ này là thời đại “vương đạo suy vi”, “bá đạo cường thịnh”, lấn át “vương
đạo”, chế độ tông pháp của nhà Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi “vua
không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải
đạo con” (quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử) [101, tr.28].
Trước bối cảnh xã hội như vậy, các nhà tư tưởng có tâm huyết đua nhau tìm
kiếm nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm ổn định trật tự xã hội. Đây là thời
kỳ tư tưởng Triết học Trung Quốc phát triển nở rộ, nhiều triết thuyết xuất hiện như:

Nho gia, Pháp gia, Mặc gia, Đạo gia… Người ta gọi đó là thời kỳ “bách hoa đề
phóng, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Trong số bách
gia xuất hiện thời Tiên Tần ở Trung Quốc thì Nho giáo là một trong những học
thuyết có sức sống lâu dài nhất. Hơn 2000 năm của chế độ phong kiến Trung Quốc,
đã trải qua bao triều đại khác nhau, bao biến động, thăng trầm của xã hội nhưng địa
vị thống trị của Nho giáo trong thượng tầng kiến trúc vẫn được giữ vững. Các triều
đại Phong kiến Trung Quốc xem Khổng Tử là người thầy của muôn đời “Vạn thế sư
biểu”. Khổng Tử cho rằng, xã hội loạn lạc là bởi con người “vô đạo”, cần đưa con
người trở về “hữu đạo” bằng con đường giáo hóa. Đạo hiếu là một trong những
phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo để giáo hóa con người góp phần ổn định trật
tự xã hội. Nối tiếp tinh thần trên, các nhà Nho đời sau tiếp tục bổ sung và củng cố
luận điểm đó của Khổng Tử.
Q

v



N

Q

v



N

T


15

Q


Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chế độ tông pháp bị suy yếu, kết cấu gia đình
đơn hệ bắt đầu xác lập. Luân lý đạo hiếu lúc này có sự dịch chuyển phù hợp với
thực tế xã hội nên gắn với ln lý gia đình hơn là ln lý dịng tộc. Khổng Tử coi
trọng hiếu và coi đó là cơ sở để định hình nhân cách trong các mối quan hệ giữa
người với người. Thiên “Học nhi” sách Luận ngữ viết: Hữu Tử nói rằng: “Đã làm
người có nết hiếu, nết đễ, ít ai ham xúc phạm đến người trên. Người không ham xúc
phạm đến người trên mà ham làm việc rối loạn là chưa từng có. Người quân tử
chăm chú vào việc gốc, gốc đã gây dựng được, thì đạo lý từ đó sinh ra. Nết hiếu, nết
đễ là gốc của việc làm đạo nhân đó chăng” [85, tr.17 ].
Trong Nho giáo Nguyên Thủy, đạo hiếu có một vị trí rất quan trọng, thậm
chí có lúc, có nơi cịn được đặt rất cao. Điều này phù hợp với diễn tiến của nguyên
lý tu, tề, trị, bình của Nho giáo. Vì sao phải thực hiện đạo hiếu? Vì lẽ thường gia
đình, cha mẹ là gần gũi nhất với ta. Nếu ở với cha mẹ mà khơng hiếu thảo, khơng
kính thuận các bậc huynh trưởng… thì với người ngồi sao có lịng từ ái, trung thứ
được? Cha mẹ sinh ta, ni ta, giáo dưỡng ta, cho ta mọi điểm khởi đầu, nên nết
hiếu phải là đầu trăm nết. Nếu nhân là cốt lõi của tư tưởng Khổng - Mạnh, thì hiếu
đóng vai trò là nguyên tắc quán triệt nhân vào những hành vi cụ thể, là chuẩn mực
để kiểm nghiệm đức nhân của mỗi con người bắt đầu từ cái nôi gần gũi nhất - gia
đình. Các thánh hiền của Nho giáo quan niệm một người con bất hiếu thì sẽ khó có
thể trung với vua, càng khơng thể kính trời.
Đạo hiếu theo sách Hiếu Kinh, cũng được phân ra làm các bậc khác nhau:
Hiếu của thiên tử là kính yêu cha mẹ, từ đó suy rộng ra đến nhân dân, làm
cho cả thiên hạ đều thực hành đạo hiếu. [7, tr.18]
Hiếu của chư hầu là trên nhưng không kiêu, đầy mà chẳng tràn, cẩn thận tuân
thủ pháp độ, từ đó an hưởng phú quý lâu dài, làm cho nhân dân được an lạc, vui

hoà. [7, tr.20].
Hiếu của khanh đại phu là không phải phép tắc của tiên vương không dám
vâng theo, khơng phải lời của tiên vương khơng dám nói, không phải đức hạnh của
tiên vương không dám làm. Sự mặc, lời nói, việc làm, “Ba điều ấy vẹn trịn không

16



×