Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với ngành thuỷ lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.09 KB, 58 trang )

Chương 1
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN VÀ CƠ SỞ ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
QUẢN LÝ CHI ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN ĐỐI VỚI NGÀNH THUỶ
LỢI
1.Những vấn đề chung về đầu tư xây dựng cơ bản:
1.1Một số khái niệm cơ bản:
1.1.1Khái niệm đầu tư xây dựng cơ bản:
Đầu tư xây dựng cơ bản là quá trình sử dụng các nguồn lực vào hoạt động
sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định, nhằm từng bước tăng
cường và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế.
1.1.2.Khái niệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước là vốn của ngân sách
nhà nước được cân đối trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm từ các nguồn
thu trong nước, nước ngoài (bao gồm vay nước ngoài của chính phủ và vốn viện trợ
của nước ngoài cho chính phủ, các cấp chính quyền và các cơ quan nhà nước) để
cấp phát và cho vay ưu đãi về đầu tư xây dựng cơ bản.
1.1.2.1 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước được hình thành
từ các nguồn sau:
+ Một phần tích luỹ trong nước từ thuế, phí, lệ phí
+ Vốn viện trợ theo dự án của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức liên
hợp quốc và các tổ chức Quốc Tế khác.
+ Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của tổ chức Quốc tế và các Chính phủ hỗ
trợ cho Chính phủ Việt Nam.
+ Vốn thu hồi nợ của ngân sách đã cho vay ưu đãi các năm trước
+ Vốn vay của Chính phủ dưới các hình thức trái phiếu kho bạc nhà nước phát hành
theo quyết định của Chính phủ
+ Vốn thu từ tiền giao quyền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ
Trang 1Trang 1Trang 1
+ Vốn thu từ tiền bán, cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước
1.1.3 Khái niệm chi đầu tư xây dựng cơ bản của Ngân sách Nhà nước:
Chi đầu tư xây dựng cơ bản của NSNN là quá trình sử dụng một phần vốn


tiền tệ đã được tập trung vào NSNN nhằm thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản
xuất mở rộng tài sản cố định, từng bước tăng cường hoàn thiện cơ sở vật chất kĩ
thuật cho nền kinh tế .
1.1.3.1. Phân loại chi đầu tư xây dựng cơ bản :
Thứ nhất: dựa theo tính chất tái sản xuất tài sản cố định, chi đầu tư XDCB
cho ngành thuỷ lợi được chia thành:
- Chi đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi mới:
Đây là khoản chi để xây dựng mới các công trình thuỷ lợi, sở thuỷ lợi, viện
nghiên cứu, trung tâm khoa học mới ... Khoản chi này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời
gian xây dựng kéo dài. Do đó Nhà nước phải xem xét đầu tư vào những công trình,
dự án mang tính chất cấp bách, trọng điểm, chấm dứt tình trạng đầu tư phân tán dàn
trải. Khoản chi này cần được quan tâm hơn cả trong chi đầu tư XDCB cho ngành
thuỷ lợi
- Chi đầu tư cải tạo, mở rộng, nâng cấp các công trình thuỷ lợi, trạm bơm.
Khoản chi này do thời gian sử dụng lâu dài nên các công trình thuỷ lợi
thường là đã xuống cấp, do thiên tai, địch hoạ gây ra, trong khi đó nhu cầu sử dụng
lại không ngừng tăng lên. Đòi hỏi phải đầu tư để nâng cấp, mở rộng và cải tạo lại.
Hiện nay các khoản chi này vẫn giữ một vị trí quan trọng, đảm bảo tiết kiệm mà đáp
ứng được một số nhu cầu đáng kể
Thứ hai: Dựa vào cơ cấu công nghệ của vốn đầu tư, chi đầutư XDCB
cho ngành thuỷ lợi được phân thành:
- Chi xây lắp: là các khoản chi để xây dựng, lắp đạt các thiết bị vào vị trí như
trong thiết kế. Tuy nhiên, ngành thuỷ lợi là ngành phi sản xuất nên chi phí lắp đặt
chiếm tỷ lệ ít. Do vậy, chi về xây lắp của ngành thuỷ lợi chủ yếu là chi phí về xây
dựng
- Chi về máy móc thiết bị: Là khoản chi để mua sắm máy móc thiết bị phục
vụ cho ngành thuỷ lợi như các máy bơm, máy tính, dụng cụ sửa chữa ... Đối với các
khoản chi này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chi đầu tư XDCB.
- Chi về XDCB khác: là các khoản chi có liên quan đến tất cả qúa trình xây
dựng như việc kiểm tra, kiểm soát để làm luận chứng kinh tế kỹ thuật và các chi phí

có liên quan đến việc chuẩn bị mặt bằng thi công, chi phí tháo dỡ vật kiến trúc, chi
phí đền bù hoa màu đất đai di chuyển nhà cửa ... khoản chi này chiếm tỷ trọng nhỏ
nhưng rất cần thiết.
1.1.3.2.Phạm vi sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho cấp phát đầu tư xây dựng
cơ bản
Vốn của ngân sách nhà nước chỉ được cấp phát cho các dự án đầu tư thuộc
đối tượng sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo quy định của luật ngân sách Nhà
nước và quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Cụ thể vốn ngân sách nhà nước chỉ
được cấp phát cho các đối tượng sau:
- Các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh không có
khả năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng theo phân cấp về chi ngân sách Nhà
nước cho đầu tư phát triển .
- Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự
tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật
- Chi cho công tác điều tra, khảo sát, lập các dự án quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi
được Thủ tướng Chính phủ cho phép
- Các doanh nghiệp Nhà nước được sử dụng vốn khấu hao cơ bản và các
khoản thu của Nhà nước để lại để đầu tư (đầu tư mở rộng, trang bị lại kỹ thuật)
Tóm lại, chi đầu tư XDCB của NSNN đó là những khoản chi lớn của nhà
nước đầu tư vào việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không
có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và nó được thực hiện bằng chế độ cấp phát không
hoàn trả từ ngân sách Nhà nước. Chi đầu tư XDCB là một khoản chi trong chi đầu
tư phát triển và hiện nay chi đầu tư phát triển chiếm khoảng 20% tổng chi NSNN(6-
7% GDP). Hiện nay quan điểm của Đảng ta là không sử dụng tiền đi vay cho tiêu
dùng mà chỉ dùng vào mục đích đầu tư phát triển và phải có kế hoạch thu hồi vốn
vay và chủ động trả nợ khi đến hạn, đồng thời trước khi đầu tư cần phải nghiên cứu
kỹ nhằm đẳm bảo mỗi đồng vốn đầu tư bỏ ra đều mang lại hiệu quả cao.
1.2.Trình tự đầu tư xây dựng của một dự án:
*Khái niệm:

Trình tự đầu tư và xây dựng là thứ tự theo thời gian tiến hành những công
việc của quá trình đầu tư để nhằm đạt được mục tiêu đầu tư.
*Các giai đoạn của trình tự đầu tư và xây dựng:
Theo chế độ hiện hành thì trình tự đầu tư và xây dựng được chia làm 3giai
đoạn:
- Chuẩn bị đầu tư
- Thực hiện đầu tư
- Kết thúc xây dựng, đưa công trình vào khai thác sử dụng
1.2.1.Giai đoạn chuẩn bị đầu tư :
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi nghiên cứu sự cần thiết đầu tư cho đến khi
có quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền.
Nội dung của giai đoạn này bao gồm:
- Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và qui mô đầu tư
- Tiến hành tiếp xúc thăm dò thị trường trong nước hoặc nước ngoài nước
để tìm nguồn cung ứng vật tư thiết bị hoặc tiêu thụ sản phẩm. Xem xét
khả năng có thể huy động các nguồn vốn để đầu tư và lựa chọn các hình
thức đầu tư
- Tiến hành điều tra khảo sát và chọn địa điểm xây dựng
- Lập dự án đầu tư
- - Gửi hồ sơ dự án và văn bản trình đến người có thẩm quyền quyết đinh đầu tư, tổ chức cho
vay vốn đầu tư và cơ quan thẩm định dự án đầu tư. Như vậy giai đoạn chuẩn bị đầu tư là
là cơ sở để thực hiện các nội dung tiếp theo của quá trình thực hiện đầu tư, và kết thúc xây
dựng đưa dự án vào khai thác sử dụng, đây cũng là giai đoạn quyết định sự thành công hay
thất bại của công cuộc đầu tư trong tương lai
1.2.2.Giai đoạn thực hiện đầu tư:
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi có quyết định đầu tư, công trình được ghi
vào trong kế hoạch chuẩn bị thực hiện đầu tư cho đến khi xây dựng xong toàn bộ
công trình.
Nội dung của giai đoạn này:
- Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước

- Chuẩn bị mặt bằng xây dựng
- Tổ chức tuyển chọn tư vấn khảo sát thiết kế, tư vấn giám định kỹ thuật
chất lượng công trình
- Thẩm định thiết kế, tổng dự toán công trình: Tất cả các dự án đầu tư xây
dựng thuộc mọi nguồn vốn và thành phần kinh tế đều phải được cơ quan
chuyên môn thẩm định thiết kế trước khi xây dựng. Nội dung thẩm định
trên một số mặt: sự tuân thủ các tiêu chuẩn, qui phạm trong thiết kế kiến
trúc, công nghệ, kết cấu …
- Tổ chức đấu thầu mua sắm thiết bị, thi công xây lắp
- Xin giấy phép xây dựng: Tất cả các công trình xây dựng mới, cải tạo sửa
chữa, thay đổi chức năng hoặc mục đích sử dụng phải xin giấy phép xây
dựng
- Kí kết hợp đồng với các nhà thầu để thực hiện dự án
- Thi công xây lắp công trình
- Theo dõi kiểm tra việc thực hiện hợp đồng
- Quyết toán vốn đầu tư xây dựng sau khi hoàn thành xây lắp đưa dự án
vào khai thác sử dụng: Việc quyết toán vốn đầu tư xây dựng được tiến
hành hàng năm trong thời gian xây dựng. Khi dự án hoàn thành thì chủ
đầu tư phải báo cáo quyết toán vốn đầu tư cho cơ quan cấp phát hoặc cho
vay vốn và cơ quan quyết định đầu tư .
khi quyết toán phải qui đổi vốn đầu tư đã thực hiện về mặt bằng giá trị thời
điểm bàn giao đưa vào vận hành
1.2.3. Kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác sử dụng.
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi công trình xây dựng xong toàn bộ, vận
hành đạt thông số đề ra trong dự án đến khi thanh lý dự án.
Nội dung của giai đoạn này bao gồm:
- Bàn giao công trình
- Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình
- Vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình
- Bảo hành công trình

- Quyết toán vốn đầu tư
- Phê duyệt quyết toán
2. Vai trò của ngành Thuỷ lợi đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta
2.1.Khái niệm:
Theo thống kê điều tra ngày 1/4/1999 dân số nước ta là 76.324.753 người
trong đó có 37.519.754 nam (chiếm 49,2%)và 38.804.999 nữ (chiếm 50,8%). Số
người sống ở nông thôn là 58.407.770(chiếm 76,5%) và ở thành thị là 17.916.983
người (chiếm 23,5%) với tỷ lệ tăng dân số bình quân là 2,1% từ năm 1979-1989 và
là 1,7% từ năm 1989-1999. Hiện nay vấn đề phát triển nông thôn đâng là mối quan
tâm hàng đầu ở các nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng cũng như
thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Để tạo điều kiện cho sự phát triển
toàn diện, đáp ứng được yêu cầu trong đời sống của nhân dân, đòi hỏi nông thôn
phải có một cơ sở hạ tầng đảm bảo, mà trước hết là thuỷ lợi - một lĩnh vực cơ bản
có tính chất quyết định. Thuỷ lợi đáp ứng các yêu cầu về nước một trong những
điều kện tiên quyết để tồn tại và phát triển cuộc sống cũng như các loại hình sản
xuất. Đồng thời thuỷ lợi góp phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển bền vững của
đất nước, không ngừng nâng cao đời sống cả về kinh tế và văn hoá - xã hội .
Các nguồn nước trong thiên nhiên (nước mặt ,nước ngầm) và mưa phân bố
không đều theo thời gian, không gian. Mặt khác yêu cầu về nước giữa các vùng
cũng rất khác nhau, theo mùa, theo tháng, thậm chí theo giờ trong ngày .
Như vậy có thể nói : Thuỷ lợi là biện pháp điều hoà giữa yêu cầu về nước
với lượng nước đến của thiên nhiên trong khu vực; đó cũng là sự tổng hợp các biện
pháp nhằm khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn nước, đồng thời hạn chế những
thiệt hại do nước có thể gây ra.
2.2. Vai trò của Thuỷ lợi đối với việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta
2.2.1.Những ảnh hưởng tích cực:
Nền kinh tế của đất nước ta là nền kinh tế nông nghiệp, độc canh lúa nước.
Vì vậy nền kinh tế nước ta phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, nếu như thơi tiết khí
hậu thuận lợi thì đó là môi trường thuận lợi để nông nghiệp phát triển nhưng khi gặp
những thời kỳ mà thiên tai khắc nghiệt như hạn hán, bão lụt thì sẽ gây ảnh hưởng

nghiêm trọng đối với đời sống của nhân dân ta đặc biệt đối với sự phát triển của cây
lúa, bởi vì lúa là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta. Vì
vậy mà hệ thống thuỷ lợi có vai trò tác động rất lớn đối với nền kinh tế của đất nước
ta như:
- Tăng diện tích canh tác cũng như mở ra khả năng tăng vụ nhờ chủ động về
nước, góp phần tích cực cho công tác cải tạo đất.
Nhờ có hệ thống thuỷ lợi mà có thể cung cấp nước cho những khu vực bị hạn
chế về nước tưới tiêu cho nông nghiệp đồng thời khắc phục được tình trạng khi
thiếu mưa kéo dài và gây ra hiện tượng mất mùa mà trước đây tình trạng này là phổ
biến. Mặt khác nhờ có hệ thống thuỷ lợi cung cấp đủ nước cho đồng ruộng từ đó tạo
ra khả năng tăng vụ, vì hệ số quay vòng sử dụng đất tăng từ 1,3 lên đến 2-2,2 lần
đặc biệt có nơi tăng lên đến 2,4-2,7 lần. Nhờ có nước tưới chủ động nhiều vùng đã
sản xuất được 4 vụ. Trước đây do hệ thống thuỷ lợi ở nước ta chưa phát triển thì lúa
chỉ có hai vụ trong một năm. Do hệ thống thuỷ lợi phát triển hơn trước nên thu
hoạch trên 1 ha đã đạt tới 60-80 triệu đồng, trong khi nếu trồng lúa 2 vụ chỉ đạt trên
dưới 10 triệu đồng. Hiện nay do có sự quan tâm đầu tư một cách thích đáng của
Đảng và Nhà nước từ đó tạo cho ngành thuỷ lợi có sự phát triển đáng kể và góp
phần vào vấn đề xoá đói giảm nghèo, đồng thời cũng tạo ra một lượng lúa xuất khẩu
lớn và hiện nay nước ta đang đứng hàng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo…
Ngoài ra, nhờ có hệ thống thuỷ lợi cũng góp phần vào việc chống hiện tượng sa mạc
hoá .
- Tăng năng xuất cây trồng, tạo điều kiện thay đổi cơ cấu nông nghiệp, giống
loài cây trồng, vật nuôi, làm tăng giá trị tổng sản lượng của khu vực
- Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân nhất là
những vùng khó khăn về nguồn nước, tạo ra cảnh quan mới
- Thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác như công nghiệp, thuỷ sản, du
lịch ...
- Tạo công ăn việc làm, góp phần nâng cao thu nhập cho nhân dân, giải quyết
nhiều vấn đề xã hội, khu vực do thiếu việc làm, do thu nhập thấp. Từ đó góp phần
nâng cao đời sống của nhân dân cũng như góp phần ổn định về kinh tế và chính trị

trong cả nước
- Thuỷ lợi góp phần vào việc chống lũ lụt do xây dựng các công trình đê điều
... từ đó bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho họ
tăng gia sản xuất .
Tóm lại thuỷ lợi có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của nhân dân
nó góp phần vào việc ổn định kinh tế và chính trị tuy nó không mang lại lợi nhuận
một cách trực tiếp nhưng nó cũng mang lại những nguồn lợi gián tiếp như việc phát
triển ngành này thì kéo theo rất nhiều ngành khác phát triển theo. Từ đó tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển và góp phần vào việc đẩy mạnh công cuộc CNH-
HĐH đất nước.
3 2.2.2.Những ảnh hưởng tiêu cực :
- Mất đất do sự chiếm chỗ của hệ thống công trình, kênh mương hoặc do
ngập úng khi xây dựng hồ chứa, đập dâng lên.
- Ảnh hưởng đến vi khí hậu khu vực, làm thay đổi điều kiện sống của người,
động thực vật trong vùng, có thể xuất hiện các loài lạ, làm ảnh hưởng tới cân bằng
sinh thái khu vực và sức khoẻ cộng đồng
- Làm thay đổi điều kiện địa chất, địa chất thuỷ văn gây ảnh hưởng tới
thượng, hạ lưu hệ thống, hoặc có thể gây bất lợi đối với môi trường đất, nước trong
khu vực
- Trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi cảnh quan khu vực, ảnh hưởng tới lịch
sử văn hoá trong vùng
3. Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác thuỷ lợi :
Sự phát triển của thuỷ lợi ở các quốc gia trên thế giới không đồng đều mà
phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau. Nếu xem xét một cách tổng quát thì có
thể thấy nó phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau :
- Điều kiện tự nhiên của quốc gia
- Tập quán sản xuất, cơ cấu cây trồng cũng như nhu cầu về nước
- Mức độ phát triển kinh tế xã hội và khoa học kỹ thuật
4. Nội dung báo cáo nghiên cứu khả thi các dự án thuỷ lợi :
Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án thuỷ lợi là hồ sơ pháp lý đảm bảo rằng

công trình đã hội đủ các điều kiện tối ưu và hiện thực để có thể tiến hành đầu tư xây
dựng .
Đây là yêu cầu bắt buộc và vì thế đòi hỏi nghiên cứu khả thi phải:
- Tuân thủ luật tài nguyên nước và các nghị định, quy định kèm theo
- Phù hợp quy hoạch tổng thể và quy hoạch chuyên ngành của khu vực
- Tương ứng với trình độ khoa học - công nghệ trong xây dựng và quản lý
kinh tế
- Có giải pháp xử lý hậu quả các ảnh hưởng tới xã hội và môi trường
- Các tài liệu điều tra tính toán phải theo tiêu chuẩn hiện hành, đủ tin cậy
1.Các văn bản pháp lý cần thiết :
Để xem xét phê duyệt, những hồ sơ sau là cần thiết:
- Tờ trình của UBND địa phương xin đầu tư dụ án
- Trích lược các quy hoạch, nghiên cứu đã được duyệt
- Các văn bản có liên quan đến dự án của các ngành
2.Các báo cáo nghiên cứu khả thi:
Bao gồm :
+ Báo cáo tổng hợp chi tiết có đủ biểu đồ, bản vẽ minh hoạ
+ Báo cáo tóm lược các biểu đồ, bản vẽ chủ yếu kèm theo
3.Các chuyên đề, bảng biểu trong phụ lục:
+ Báo cáo thuỷ văn
+ Báo cáo địa hình
+ Báo cáo địa chất, địa chất thuỷ văn thổ nhưỡng
+ Nhiệm vụ dự án: thuỷ điện thuỷ nông, phục vụ các ngành khác …
+Thiết kế sơ bộ
+ Thiết kế thi công và dự toán
+ Thiết kế tổ chức và quản lý khai thác
+ Đền bù, di dân tái định cư ,bảo vệ môi trường
+ Đánh giá hiêu quả kinh tế dự án
+ Đánh giá tác động của môi trường của dự án và biện pháp xử lý
5. Sự cần thiết phải tăng cường việc quản lý chi đầu tư XDCB từ NSNN cho

ngành thuỷ lợi.
Từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì yêu cầu về quản lý
chi cho đầu tư XDCB cũng có sự thay đổi nhằm phù hợp với nền kinh tế mới. Hiện
nay ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới thì yêu cầu về quản lý tài chính nói chung và
yêu cầu về việc quản lý một cách chặt chẽ các khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản
đối với ngành thuỷ lợi nói riêng phải đảm bảo đúng mục đích, đúng kế hoạch, đúng
định mức, tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả là hết sức quan
trọng.Tuy nhiên việc quản lý các khoản chi không bị thất thoát là một vấn đề hết sức
nan giải bởi vì trong thực tế hiện tượng tham ô, tham nhũng thì vẫn không thể loại
bỏ được hết .Vì vậy mà việc tăng cường công tác quản lý chi đầu tư XDCB từ
NSNN cho ngành thuỷ lợi ở nước ta hiện nay xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất: Xuất phát từ thực trạng của công tác quản lý vốn đầu tư XDCB:
Hiện nay cơ chế quản lý tài chính ở nước ta có nhiều thay đổi nhằm đáp ứng
với yêu cầu thực tiễn của nước ta hiện nay khi mà đất nước đang trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị truờng .Tuy nhiên cơ chế quản lý vốn đầu tư XDCB
trước đây trở nên kém hiệu quả và không còn phù hợp với tình hình mới do vậy mà
ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng kinh phí của ngân sách nhà nước. Vì vậy mà nhà
nước đã ban hành nghị định số 52 của Chính phủ nay bổ xung nghị định số 12 của
Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng nhằm quản lý một
cách chặt chẽ hơn các khoản chi của Nhà nước cho đầu tư và xây dựng
Mặt khác do cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tài chính chồng chéo nhiều khi
hiệu quả quản lý không cao. Ngoài ra các cơ chế chính sách nhiều khi không chặt
chẽ cũng tạo ra các kẽ hở trong quản lý vốn đầu tư, trong khi đó nguồn vốn dùng
cho chi đầu tư XDCB nhiều khi là nguồn vốn đi vay, có thể là vay trong nước hoặc
vay nước ngoài vì đất nước ta còn nghèo mà khả năng thu thì không thể đáp ứng cho
nhu cầu chi vì vậy mà yêu cầu sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả là rất cần
thiết
Đối với các đơn vị sử NSNN cho đầu tư XDCB thì thiếu chủ động trong việc
sử dụng kinh phí được cấp do chưa nắm sát được thực tế nhu cầu chi tiêu, nhiều đơn
vị đã dùng mọi cách để sử dụng hết kinh phí được cấp và họ không quan tâm đến

việc chi đúng định mức, đơn giá, được duyệt…
Thứ hai: xuất phát từ vai trò của công tác quản lý vốn đầu tư XDCB đối với
ngành thuỷ lợi
Thực hiện tốt công tác quản lý vốn đầu tư XDCB nói chung và đối với ngành
thuỷ lợi nói riêng thì có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hành tiết kiệm. Để từ đó
tập chung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế, ổn định và lành mạnh nền
kinh tế quốc gia, chống các hiện tượng tiêu cực, lãng phí, góp phần ổn định tiền tệ
và kiềm chế lạm phát
Ngoài ra thực hiện công tác này còn đảm bảo cho các công trình thuỷ lợi của
nhà nước được đáp ứng đầy đủ nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu
quả để hoàn thành tiến độ thi công công trình theo đúng kế hoạch, nâng cao trách
nhiệm của các cơ quan tài chính, cơ quan cấp phát cũng như các chủ đầu tư trong
quá trình đầu tư xây dựng
Thông qua công tác quản lý một cách chặt chẽ thì cũng hạn chế được những
tiêu cực trong quá trình thi công công trình. Từ đó cũng thấy được những mặt còn
yếu kém trong công tác quản lý để từ đó có những biện pháp hoặc những chính sách
để bổ xung kịp thời nhằm làm hoàn thiện hơn công tác quản lý .
Thứ ba : Xuất phát từ đặc điểm của các công trình ngành thuỷ lợi: Nhằm
đảm bảo cho chất lượng của công trình thuỷ lợi thì cần phải tăng cưòng công tác
quản lý bởi vì ngành thuỷ lợi có ý nghĩa rất quan trọng cho sản xuất như tưới tiêu,
hệ thống thoát nước, thoát lũ…Đặc biệt là đối với các công trình đê điều. Nếu công
trình đê điều không làm tốt, làm theo đúng kế hoạch được duyệt …thì khi có lũ có
thể gây ra hậu quả nghiêm trọng.Vì vậy mà cần phải tăng cường công tác quản lý
vốn đầu tư XDCB từ NSNN đối với ngành thuỷ lợi, việc tăng cường công tác quản
lý này vừa nhằm đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng mục đích lại vừa đảm bảo
được chất lượng công trình như thiết kế đã được duyệt.
Xuất phát từ những lý do trên mà việc hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý
NSNN nói chung và việc tăng cường công tác quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
cho ngành thuỷ lợi nói riêng là hết sức cần thiết. Mặt khác việc quản lý vốn đầu tư
XDCB từ NSNN đối với ngành thuỷ lợi một cách có hiệu quả thì sẽ nâng cao được

trách nhiệm cũng như phát huy được vai trò của các cấp các ngành các đơn vị có
liên quan đến công tác quản lý, sử dụng NSNN và vốn vay của nhà nước, từ đó góp
phần lập lại kỷ cương tài chính của đất nước
6. Nguyên tắc quản lý cấp phát vốn đầu tư XDCB :
6.1. Điều kiện cấp phát vốn đầu tư XDCB :
Để đảm bảo cho công tác XDCB tiến hành đúng trình tự, đảm bảo các
nguyên tắc cấp phát vốn đầu tư XDCB, các dự án đầu tư thuộc đối tượng cấp phát
của Ngân sách nhà nước muốn được cấp phát vốn đầu tư XDCB phải có đủ các điều
kiện sau :
Thứ nhất : phải có đầy đủ thủ tục đầu tư và xây dựng .
Thủ tục đầu tư và xây dựng là những quyết định văn bản ... của cấp có thẩm
quyền cho phép được đầu tư dự án theo chương trình phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Nó là kết quả của các bước chấp hành trình tự đầu tư và xây dựng. Chỉ khi
nào hoàn tất các thủ tục đầu tư và xây dựng như quyết định của cấp có thẩm quyền
cho phép tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư, báo cáo nghiên cứu khả thi và quyết
định đầu tư của cấp có thẩm quyền, thiết kế dự toán được duyệt …thì dự án mới
được phép ghi vào kế đầu tư XDCB và mới được phép cấp phát vốn theo kế hoạch,
thiết kế dự toán được duyệt
Thứ hai : Công trình đầu tư phải được ghi vào kế hoạch vốn đầu tư XDCB
năm .
Khi công trình được ghi vào kế hoạch đầu tư nghĩa là dự án đã được tính
toán về hiệu quả kinh tế mang lại cho nền kinh tế quốc dân, tính toán về phương án
đầu tư về nguồn vốn đầu tư và đã cân đối được khả năng cung cấp nguyên vật liệu,
khả năng thi công dự án. Chỉ khi nào dự án được ghi trong kế hoạch đầu tư XDCB
mới đảm bảo về mặt thủ tục đầu tư, xây dựng và mới có nguồn vốn của NSNN đảm
bảo cho việc cấp phát vốn đầu tư XDCB được thực hiện
Thứ ba : phải có ban quản lý công trình được thành lập theo quyết định của
cấp có thẩm quyền
Các công trình đầu tư cần thiết phải có bộ phận quản lý dự án để thực hiện
các thủ tục đầu tư và xây dựng; để quản lý sử dụng và quyết toán vốn đầu tư của dự

án, để kiểm tra giám sát quá trình đầu tư xây dựng dự án, đảm bảo sử dụng vốn
đúng kế hoạch và có hiệu quả. Vì vậy chỉ khi có ban quản lý dự án được thành lập
thì các quan hệ về phân cấp thanh toán mới được thực hiện, nên đảm bảo đúng chế
độ Nhà nước quy định
Thứ tư : Đã tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn mua sắm vật tư thiết bị, xây
lắp theo quy định của chế độ đấu thầu (trừ những dự án được phép chỉ định thầu)
Để thực hiện dự án đầu tư, các ban quản lý dự án, chủ đầu tư phải tuyển chọn
thầu để thực hiện thi công xây lắp, mua sắm vật tư thiết bị theo yêu cầu đầu tư của
dự án. Trong cơ chế thị trường việc đấu thầu để tuyển chọn thầu là hết sức cần thiết.
Mục đích của việc tổ chức đấu thầu là để chọn được những đơn vị thi công xây lắp
có trình độ quản lý tốt, tổ chức thi công nhanh hợp lý đảm bảo chất lượng và giá
thành hợp lý. Sau khi đã chọn thầu các đơn vị chủ đầu tư phải kí kết hợp đồng thi
công về mua sắm máy móc thiết bị; các chủ đầu tư theo dõi quản lý và tổ chức thanh
toán cho các đơn vị nhận thầu theo những điều đã kí kết trong hợp đồng. Vì vậy nếu
không có đấu thầu để chọn thầu thi công thì việc xây dựng dự án không thể được
thực hiện và việc cấp vốn đầu tư không thể có
Thứ năm: Các công trình đầu tư chỉ được cấp phát khi có khối lượng cơ bản
hoàn thành đủ điều kiện được cấp vốn thanh toán hoặc đủ điều kiện được cấp vốn
tạm ứng
Sản phẩm XDCB do các đơn vị thi công xây lắp (đơn vị trúng thầu hoặc chỉ
định thầu) thực hiện thông qua quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây
lắp theo hợp đồng đặt hàng của các chủ đầu tư (chủ công trình). Chính vì vậy khi
nào có khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành (sản phẩm XDCB hoàn thành - Bộ
phận công trình, hạng mục công trình, công trình hoàn thành của đơn vị xây lắp bàn
giao theo đúng những điều đã ghi trong hợp đồng (đã được nghiệm thu - có trong kế
hoạch thiết kế, dự toán) thì chủ đầu tư mới được thanh toán cho khối lượng hoàn
thành đó .
Đối với việc mua sắm máy móc thiết bị và đối với phần thi công xây lắp đấu
thầu, để đảm bảo nhu cầu vốn cho việc mua sắm thiết bị, dự trữ vật tư ... thì các đơn
vị mua sắm thi công được tạm ứng trước (cấp phát tạm ứng) nhưng phải đảm bảo

các điều kiện của tạm ứng đã quy định để đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và
có hiệu quả
6.2. Nguyên tắc quản lý cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Để đảm bảo tính kế hoạch và hiệu quả kinh tế cao của vốn đầu tư, đồng thời
đảm bảo phù hợp với sự vận động của vốn đầu tư thì việc cấp vốn đầu tư xây dựng
cơ bản phải đảm bảo những nguyên tắc sau :
Thứ nhất:
Cấp phát vốn đầu tư XDCB phải trên cơ sở thực hiện nghiêm chỉnh trình tự
đầu tư và xây dựng, đảm bảo đầy đủ các các tài liệu thiết kế, dự toán
Trình tự đầu tư và xây dựng bao gồm 3 giai đoạn :
+ Chuẩn bị đầu tư
+ Thực hiên đầu tư
+ Kết thúc xây dựng đưa công trình vào khai thác sử dụng
Mỗi giai đoạn của trình tự thể hiện kết quả của việc thực hiện chủ trương, kế
hoạch đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch phát triển kinh tế ở tuừng thời kỳ phát
triển kinh tế của đất nước
- Giai đoạn chuẩn bị đầu tư là giai đoạn thể hiện chủ trương đầu tư. Sự cần
thiết đầu tư dự án, lập dự án đầu tư (dự án tiền khả thi, dự án khả thi) xét duyệt và
quyết định đầu tư dự án là những nội dung của công việc chuẩn bị đầu tư. Chỉ khi
có quyết định đầu tư dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì dự án mới được
ghi vào trong kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước và mới được cấp phát
vốn đầu tư xây dựng cơ bản
- Giai đoạn thực hiện đầu tư : là giai đoạn thực hiện những công tác chuẩn bị
xây dựng và thực hiện công tác đâu tư xây dựng dự án. Trong giai đoạn này các tài
liệu về thiết kế dự toán, hợp đồng thi công…được hoàn thành. Chất lượng lập duyệt
cũng như đảm bảo cung cấp kịp thời các tài liệu thiết kế dự toán có ý nghĩa quyết
định trong trong việc sử dụng hợp lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Trên cơ sở những
tài liệu thiết kế dự toán được duyệt thì việc thi công xây lắp công trình mới được
thực hiện và vốn đầu tư xây dựng cơ bản mới được chi ra cho việc thực hiện các
khối lượng xây lắp đó

- Giai đoạn kết thúc xây dựng đưa công trình vào khai thác và sử dụng: là
giai đoạn khánh thành nghiệm thu bàn giao và quyết toán vốn đầu tư. Số thực chi
cấp phát vốn đầu tư cho dự án chỉ được thực hiện đúng theo báo cáo quyết toán vốn
đầu tư được duyệt .
Từ những điều phân tích trên cho thấy một trong những nguyên tắc cơ bản
của cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản là phải đảm bảo các tài liệu thiết kế dự
toán, tuân thủ đúng trình tự đầu tư và xây dựng. Chỉ có đảm bảo nguyên tắc này thì
tiền vốn cấp ra mới đúng kế hoạch, có hiệu quả theo đúng chủ trương đầu tư xây
dựng của Nhà nước
Thứ hai : Việc cấp phát vốn đầu tư XDCB phải đảm bảo đúng mục đích
đúng kế hoạch .
Thứ ba: Việc cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ được thực hiện theo
mức độ thực tế hoàn thành kế hoạch, trong phạm vi giá dự toán được duyệt.
Thứ tư: Việc cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiên bằng 2
phương pháp: cấp phát không hoàn trả và cho vay có hoàn trả
Thứ năm: Cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện kiểm tra
bằng đồng tiền đối với việc sử dụng đúng mục đích có hiệu quả vốn đầu tư .
6.3. Hình thức cấp phát thanh toán:
Cấp phát, thanh toán vốn đầu tư XDCB bao gồm 2 khâu:
- Cấp phát và thu hồi tạm ứng
- Thanh toán khối lượng hoàn thành
6.3.1. Cấp phát tạm ứng nhằm đảm bảo vốn cho các đơn vị trong việc thực hiện thi
công, xây lắp, mau sắm thiết bị, thuê tư vấ, đền bù giải phómh mặt bằng. Khi chưa
có khối lượng hoàn thành về những công việc này tạo điều kiện cho các đơn vị thực
hiện được kế hoạch đầu tư cơ bản và hoàn thành dự án đúng kỳ hạn.
6.3.2. Cấp phát khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành là nội dung chính của cấp
phát vốn đầu tư XDCB. Vì lúc này tiền vốn mới thực sự được cấp ra cho việc thực
hiện đầu tư xây dựng dự án, là khâu có tác dụng quyếtđịnh đảm bảo cấp phát đúng
thiết kế, đúng kếhoạch và dự toán được duyệt.
Trong quá trình cấp phát thanh toán cần phối hợp với các ngành chủ quản,

tăng cường kiểm tra giám sát để quản lý hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn.
* Công tác quyết toán vốn đầu tư XDCB:
Quyết toánvốn đầu tư là toàn bộ chi phí hơp pháp đã thực hiện trong quá
trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác sử dụng. Chi phí hợp pháp là chi phí theo
đúng hợp đồng đã ký kết và thiết kế dự toán được phê duyệt, bảo đảm đúng tiêu
chuẩn, định mức, đơn giá, chế độ tài chính - kế toán và những quy định hiện hành
của Nhà nước có liên quan. Quyết toán vốn đầu tư trong giới hạn tổng mức nếu có.
Quyết toán vốn đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi là khâu công việc cuối
cùng trong cả quá trình quản lý chi ngân sách đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi. Nó
là quy trình kiểm tra rà soát chỉnh lý lại số liệu đã được phản ánh sau một kỳ hạch
toán và tìn hình chấp hành dự toán chi nhằm phân tích kết quả thực hiện dự toán chi
đầu tư để rút ra kinh nghiệm, bài học cần thiết trong thực hiện chi và quản lý chi đầu
tư ở kỳ sau.
Chương 2:
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ
BẢN ĐỐI VỚI NGÀNH THUỶ LỢI TRONG THỜI GIAN QUA
1. Khái quát về tình hình thuỷ lợi ở nước ta hiện nay:
Việt nam có 2360 con sông, trong đó có 9 hệ thống sông lớn có diện tích lưu
vực trên 10.000km2. Tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm 835 tỷ m3, trong
đó có 313 tỷ m3 sản sinh trên lãnh thổ và 522 tỷ m3 từ lãnh thổ các nước khác đổ
vào. Tài nguyên nước dưới đất có trữ lượng động thiên nhiên toàn lãnh thổ khoảng
1.500m3/s. Nguồn tài nguyên nước thoạt nhìn dường như được ưu đãi, nhưng so với
các nước trên thế giới thì lượng nước sản sinh trong nước vào loại trung bình thấp
(4200m3/người)
Trong những năm qua Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng nhiều
công trình thuỷ lợi. Theo tài liệu điều tra cả nước đã có 8625 công trình các loại,
trong đó có 743 hồ chứa loại vừa và lớn (chưa kể hàng nghìn hồ đập nhỏ ), 1017 đập
dâng, 4712 cống tưới tiêu loại vừa và lớn, gần 200 trạm bơm điện các loại. Tổng giá
trị đầu tư theo trị giá hiện tại ước tính trên 100.000 tỷ đồng (chưa kể 5700 km đê
sông, 2000 km đê biển cùng với hệ thống cống và hàng nghìn km bờ bao chống lũ ở

đồng bằng sông Cửu Long). Số vốn vốn đầu tư này đã đưa diện tích được thuỷ lợi
hoá tằng từ 4 triệu ha năm 1980 đến 5 triệu ha vào năm 1990 và 6 triệu ha vào năm
2000. Tuy nhiên khả năng ngăn chặn những thiệt hại do bão lũ gây ra rất kém, vì
vậy một vùng đất nông nghiệp vẫn nằm trong tình trạng bị ngập mặn.
Tính đến đầu năm 1996 các hệ thống thuỷ lợi ở nước ta mới chỉ phục vụ tưới
được cho 5,6 triệu ha gieo trồng lúa (khoảng hơn 3 triệu ha đất canh tác/tổng diện
tích đất nông nghiệp khoảng 7 triệu ha), 60 vạn ha rau màu và cây công nghiệp, tiêu
úng cho 92 vạn ha và cải tạo 70 vạn ha đất ven biển. Hàng năm thuỷ lợi còn cung
cấp hơn 2 tỷ m3 nước cho công nghiệp, dân dụng thuỷ sản ...Tài sản cố định của các
hệ thống thuỷ lợi ước tính khoảng hơn 20.000 tỷ đồng (theo thời giá năm 1992).
Phục vụ cho sự nghiệp phát triển thuỷ lợi ở nước ta trước đây có bộ Thuỷ lợi,
nay là ngành thuỷ lợi thuộc bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đến nay ngành
Thuỷ lợi đã có đủ năng lực để hoàn chỉnh các khâu từ Quy hoạch, Khảo sát thiết kế,
thi công và quản lý khai thác các hệ thống thuỷ lợi, kể cả các công trình và hệ thống
lớn, phức tạp, ngang tầm với trình độ khoa học của thế giới. Tham gia vào công tác
thuỷ lợi, còn có sự đóng góp không nhỏ của các ngành khác như Xây dựng, Điện
lực...
Đối với vùng đồng bằng, trung du phía bắc các hệ thống thuỷ lợi đã cấp nước
tưới tiêu (chủ động hoặc tạo nguồn), tạo điều kiện cho nông dân sản xuất trên phần
lớn diện tích canh tác. Đồng bằng Bắc bộ đã có khoảng 84% đất nông nghiệp được
thuỷ lợi hoá, đưa hệ số sử dụng đất lên xấp xỉ 2 lần. Mặc dù những hệ thống thuỷ
lợi này do xây dựng đã lâu, công tác duy tu bảo dưỡng trong những năm qua còn
nhiều khó khăn nên chất lượng cũng như hiệu quả phục vụ chưa cao .
Ở đồng bằng phía nam, đặc biệt tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tình
hình thuỷ lợi còn rất nhiều hạn chế. Tại các tỉnh này hệ thống thuỷ lợi vẫn thiếu và
chưa đồng bộ, ngập lụt thường xuyên xảy ra, sản xuất nông nghiệp vì thế nên bị
động, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên
2. Quy trình quản lý thanh toán vốn đầu tư XDCB đối với ngành Thuỷ lợi tại
Vụ Đầu tư .
2.1. Quy trình chung :

2.1.1. Hoạt động đầu tư tuân thủ theo một quy trình vì vậy cũng phải tuân theo một
chu trình của dự án
- Trong quá trình thanh toán có nhiều văn bản đầu tư để chứng minh và thụ
lý hồ sơ, phù hợp với từng điều kiện cụ thể
- Trước khi cấp phát phải kiểm tra tính pháp lý:
+ Tính hợp pháp
+ Về giá trị phải phù hợp với từng thời kỳ
+ Đề xuất giá trị cấp phát
2.1.2.Quy trình quản lý theo kế hoạch:
- Thụ lý hồ sơ
- Kiểm tra toàn bộ hồ sơ pháp lý của dự án
+ Quyết định bằng văn bản quy hoạch
+ Quyết định giao nhiệm chủ nhiệm đầu tư đề tài nghiên cứu khoa học
+ Dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt về nội dung
- Văn bản chỉ định thầu
- Hợp đồng giao nhận thầu
- Thẩm tra về giá trị thực hiện quy hoạch
+ Kiểm tra tính pháp lý của nội dung thực hiện quy hoạch
+ Kiểm tra về mặt khối lượng thực tế và kế hoạch được duyệt
+ Xác định khối lượng thực tế của công việc thực hiện
* Căn cứ vào kết quả của hai nội dung trên đề xuất cấp phát thanh toán cho chủ đầu

2.1.3.Quy trình quản lý dự án
* Quản lý ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư
- Kiểm tra chủ trương đầu tư
+ Quyết định đầu tư
+ Quyết định trúng thầu
+ Hợp đồng kinh tế
+ Biên bản nghiệm thu tài liệu
+ Quyết định dự án đầu tư

- Kiểm tra về mặt giá trị hợp đồng
- Kiểm tra về mặt pháp lý
- Các biên bản nghiệm thu và khảo sát kỹ thuật
+ Xác định khối lượng
+ Xác định giá trị
Căn cứ hồ sơ pháp lý đã kiểm tra đề xuất cấp phát thanh toán
* Quản lý ở giai đoạn thực hiện đầu tư
- Pháp lý : hợp đồng kinh tế,thiết kế ,biên bản bàn giao nghiệm thu thiết kế
- Khối lượng :xác định khối lượng thực hiện ,quy trình thiết kế ,biên bản phát
sinh, biên bản bàn giao
- Về giá trị: căn cứ vào khối lượng thực hiện, đơn giá đề xuất thanh toán
* Giai đoạn thực hiện dự án
- Về pháp lý :
+ Hồ sơ mời thầu
+ Quyết định trúng thầu
- Khối lượng xây lắp
+ Căn cứ vào khối lượng nhà thầu đã thực hiện, biên bản phát sinh, xác định
khối lượng thực hiện
Căn cứ khối lượng thực hiện và đánh giá để đề xuất thanh toán
* Về thiết bị : căn cứ vào hợp đồng cung cấp thiết bị giữa nhà thầu và chủ đầu tư
với khối lượng thực hiện để đề xuất thanh toán với chủ đầu tư
* Giai đoạn kết thúc
- Xác định chi phí khác của dự án
+ Nghiệm thu khánh thành bàn giao, chạy thử
+ Chi ban quản lý, đề xuất biện pháp cấp phát thanh toán cho đơn vị
3. Thực trạng của việc quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà
nước cho ngành Thuỷ lợi trong thời gian qua:
3.1. Thực trạng hệ thống thuỷ lợi ở nước ta hiện nay:
Do các công ty quản lý thuỷ nông phải trả những chi phí cơ bản như lương,
hành chính, tiền điện, nên thiếu tiền vận hành bảo dưỡng dẫn đến việc duy tu kém

và sử dụng dưới mức công suất hiện có. Mặt khác chất lượng công trình rất thấp, có
nơi vừa xây dựng đã bị phá huỷ do lũ quét và do các tác động khác của thời tiết, khí
hậu, bị bồi lấp, huỷ liệt. Một số công trình xây dựng xong không có nước phải trờ
nước trời. Mới khoảng 40% xã nghèo đã có công trình thuỷ lợi. Thuỷ lợi ở các vùng
nghèo xã nghèo còn chậm phát triển, một mặt do nhà nước chưa đủ sức đầu tư vốn
vào các vùng này vì quá tốn kém, mặt khác do sản xuất chưa phát triển, các cộng
đồng dân cư chưa có thói quen canh tác có thuỷ lợi. Vì vậy nhìn chung các vùng
nghèo xã nghèo đều chưa có hệ thống công trình thuỷ lợi thích hợp .
Theo tài liệu thống kê các tỉnh miền núi phía bắc đã có trên 12000 công trình
thuỷ lợi song chủ yếu là công trình thuỷ lợi nhỏ, được xây dựng từ lâu. Đặc biệt là
có 10-20% công trình tạm chỉ phục vụ tưới mùa khô, mùa lũ bị phá trôi, phải làm đi
làm lại rất tốn kém.
Theo Ngân hàng Thế giới(năm 1996), “trong số 4 triệu ha canh tác lúa
(chiếm 60% quỹ đất nông nghiệp), 3 triệu ha là được tưới tiêu ở mức độ nhất định.
Song do hệ thống không đồng bộ, do khiếm khuyết trong quy hoạch và thiết kế,
xuống cấp, thiếu nước và vận hành kém, nên chỉ có 2 triệu ha là thực sự được tưới
tiêu đầy đủ”. Việc sử dụng công suất ở miền núi và vùng xa là đặc biệt thấp và thu
hồi chi phí cũng thấp hơn so với những nơi khác trong cả nước .
3.2. Khối lượng và mức độ đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN cho ngành Thuỷ
lợi
Trong những năm gần đây, nước ta đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường và hiện nay đang trong công cuộc công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đẩy nhanh công cuộc
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì việc trú trọng phát triển cơ sở hạ tầng là
hết sức cần thiết trong đó không thể không nhắc tới chi đầu tư xây dựng cơ bản cho
ngành thuỷ lợi.
Chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi là những khoản chi nhằm tăng cường
cơ sở vật chất cho ngành thuỷ lợi như: xây dựng mới các công trình, mua sắm máy
móc thiết bị ...
Mức độ đầu tư nhiều hay ít chịu ảnh hưởng của các nhân tố như: tình trạng

các công trình, quan điểm của Nhà nước trong từng thời kỳ, ngoài ra còn phụ thuộc
vào nguồn vốn ngân sách
Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua
ngành thuỷ lợi đã có những chuyển biến tích cực cả về chất lượng cũng như số
lượng như có nhiều công trình được xây dựng mới và đã tạo ra năng lực tưới rất lớn
so với trước đây ... Có thể xem tình hình chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành
Thuỷ lợi trên một số chỉ tiêu sau:
Tình hình chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành Thuỷ Lợi
Đơn vị: tỷ đồng
ST
T
Chỉ tiêu 1998 1999 2000
A
Tổng chi NSNN
89.976 91.457 94.536
B
Chi đầu tư XDCB cho
Thuỷ Lợi
1.768,182 2.809,734 2.880,136
Tỷ lệ B/ A 1,96% 3,07% 3,04%
Bảng: Tốc độ tăng chi đầu tư XDCB từ NSNN cho ngành Thuỷ Lợi
Đơn vị: tỷ đồng
ST
T
Chỉ tiêu
1999/ 1998 2000/ 1999
Số tuyệt đối
Số tương
đối
Số tuyệt đối

Số tương
đối
1
Tốc độ tăng chi
NSNN
1.481 101,64% 3.068 103,36%
2
Tốc độ tăng đầu tư
XDCB cho Thuỷ Lợi
1.041,552 158,9% 70,402 102,5%
Nguồn số liệu : Vụ Đầu tư - Bộ Tài Chính
Đánh giá tình hình chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi trong ba năm từ
1998 - 2000 ta thấy kế hoạch chi ngân sách nhà nước cho ngành Thuỷ lợi luôn tăng
lên qua các năm 1998 là 1.768,182 tỷ đồng, năm 1999 là 2.809,734 tỷ đồng, năm
2000 là 2.880,136 tỷ đồng.
Trong điều kiện hiện nay, thấy rõ được tầm quan trọng của ngành thuỷ lợi
đối với sự phát triển kinh tế của nước ta nên mức độ đầu tư XDCB đối với ngành
Thuỷ lợi cũng cần phải được tăng cường. Qua bảng số liệu trên ta thấy cơ cấu chi
NSNN, số chi cho đầu tư XDCB đối với ngành Thuỷ lợi không ngừng tăng lên cả về
số tương đối lẫn số tuyệt đối.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù có nhiều tác động của tự nhiên và tình
hình kinh tế xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế vào khoảng 6,8%, tỷ lệ động viên vào
GDP và NSNN giảm song đầu tư cho ngành thuỷ lợi trong 5 năm là 8.421,661 triệu
đồng chiếm 9,35% chi NSNN. Vì phát triển ngành Thuỷ lợi là một trong những
động lực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn ngày càng phát triển mạnh hơn
góp phần vào việc thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
Chi đầu tư xây dựng cho thuỷ lợi xét về tuyệt đối thì có phần tăng nhưng xét
về tương đối thì không tăng lên là mấy: Năm 1999 chi đầu tư XDCB từ NSNN cho
ngành thuỷ lợi là 2.809,734 triệu đồng tăng 1.041,552 (158,9%) so với năm 1998 là
1.768,182 triệu đồng; Năm 2000 là 2.880,136 tỷ đồng tăng 70,402 tỷ đồng (102,5%)

so với năm1999 là 2.809,734 tỷ đồng.
Nhìn chung thì tốc độ tăng chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ lợi có tăng
nhưng chưa đáng kể, chưa thực sự xứng đáng với vai trò và nhiệm vụ mang tính
chiến lược của nó và chưa thể hiện được những đường lối của Đảng và Nhà nước
trong việc phát triển thuỷ lợi mà nhà nước đã khẳng định đó là : Thuỷ lợi là biện
pháp hàng đầu trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, công trình thuỷ lợi là cơ sở hạ
tầng quan trọng để phát triển bền vững đất nước. Để làm rõ vấn đề này ta có
thể so sánh tình hình kế hoạch chi đầu tư XDCB cho một số ngành trong nền kinh
tế quốc dân thể hiện ở bảng sau:(trang sau)

Qua bảng số liệu trên ta thấy, tốc độ tăng chi đầu tư XDCB cho ngành thuỷ
lợi tăng lên rất ít trong khi đó thì chi đầu tư XDCB cho các ngành khác lại tăng lên
rất nhiều cụ thể:
Năm 1998: Chi NSNN đầu tư cho ngành thuỷ lợi là 1.768,182 tỷ đồng chiếm
12,85%; chi NSNN đầu tư cho ngành Y Tế là 740,947 tỷ đồng chiếm 5,38%; Chi
đầu tư cho ngành An Ninh là 129,200 chiếm 1,39%; Chi cho ngành Giao Thông
5.297,926 tỷ đồng chiếm 38,52%, chi NSNN đầu tư XDCB cho ngành nông nghiệp
là 233,182 tỷ đồng chiếm 1,69%, chi đầu tư XDCB cho ngành Văn Hoá là 372,448
tỷ đồng chiếm 2,7% trong tổng số chi đầu tư XDCB của NSNN
Năm 1999: Tổng chi đầu tư xây dựng cho nền kinh tế quốc dân có tăng cả về
số tương đối, số tuyệt đối nhưng tỷ trọng chi cho một số ngành lại giảm đi đáng kể
so với tốc độ tăng của tổng chi đầu tư: Chi cho Y Tế giảm xuống còn 4,8% trong
tổng chi đầu tư XDCB; Chi cho An Ninh giảm xuống còn 1,03% ; Chi cho Giao
Thông còn 32,33%, chi cho ngành Văn Hoá giảm xuống còn 2% . Trong khi đó thì
đầu tư cho ngành thuỷ lợi lại tăng hơn các ngành trên nhưng không đáng kể và tăng
từ 12,85% lên 13,02%
Năm 2000: chi đầu tư XDCB cho ngành Thuỷ lợi là 2.880,136 tỷ đồng chiếm
13,06%; Chi đầu tư cho Y Tế là 1.316,876 tỷ đồng chiếm 5,98%; Chi đầu tư XDCB
cho Giao Thông là 8.184,383 chiếm 37,12%, chi đầu tư XDCB ngành Nông nghiệp
là 173,400 tỷ đồng chiếm 0,77%, chi đầu tư XDCB cho ngành Văn hoá là 523,400

tỷ đồng chiếm 2,37% trong tổng số chi đầu tư XDCB.
Qua đây ta thấy tốc độ tăng giảm của các ngành không đồng đều: Năm 1998
- 1999 chi đầu tư XDCB cho ngành Thuỷ lợi là lớn nhất trong các ngành sản xuất
phi vật chất nhưng đến năm 2000 thì lại đầu tư nhiều nhất cho ngành Y Tế. Điều
này chứng tỏ Nhà nước chưa thực sự trú trọng đến đầu tư XDCB cho ngành thuỷ

×