Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tìm hiểu các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai. Chỉ ra những vướng mắc và đề xuất hướng khắc phục?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.34 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LUẬT ĐẤT ĐAI
ĐỀ TÀI: Tìm hiểu các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp
đất đai. Chỉ ra những vướng mắc và đề xuất hướng khắc phục?


1


MỤC LỤC

A.

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

B.

NỘI DUNG........................................................................................................... 2
Lý luận chung về hòa giải tranh chấp đất đai .................................................... 2

I.
1.

Khái niệm về hòa giải tranh chấp đất đai....................................................... 2

2.

Đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai ...................................................... 2

3.


Ý nghĩa của việc hòa giải tranh chấp đất đai ................................................. 3
Quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai ..................................... 4

II.
1.

Nội dung quy định của pháp luật về hòa giải tiền tố tụng đối với tranh chấp

đất đai .................................................................................................................... 4
2.
III.

Nội dung quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Tịa án 7
Thực trạng, khó khăn vướng mắc và hướng khắc phục trong hòa giải tranh

chấp đất đai .............................................................................................................. 10
1.

Thực trạng về hoạt động hòa giải trong tranh chấp đất đai hiện nay ........... 10

2.

Khó khăn, vướng mắc trong hòa giải tranh chấp đất đai ............................. 11

3.

Hướng khắc phục khó khăn, vướng mắc trong hịa giải tranh chấp đất đai 13

C.


KẾT LUẬN ........................................................................................................ 15

D.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 16

2


A. MỞ ĐẦU
Việt Nam luôn tự hào là một quốc gia “Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”. Và
quả thực thì nguồn tài ngun đất đai vơ cùng q giá ấy đã và đang tạo ra những giá trị
cao đẹp cho dân tộc ta. Có thể nói, trải qua nhiều thế hệ, đất đai nhuốm máu của cha ông
ta và mỗi “tấc đất” đã trở thành “tấc vàng” vô cùng thiêng liêng, quý giá. Hiện nay, đất
đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một tư liệu sản xuất
đặc biệt khó có thể thay thế. Chính vì những ý nghĩa đó mà đất đai ngày càng trở lên quan
trọng hơn. Trên thực tế, khi xã hội ngày càng phát triển, quỹ đất thu hẹp thì vấn đề tranh
chấp đất đai đã phát sinh và ngày càng gia tăng. Từ đó mà việc giải quyết tranh chấp đất
đai có tầm quan trọng lớn cả trong đời sống thực tế và đời sống pháp luật. Có thể nói,
trong các biện pháp giải quyết tranh chấp đất đai thì hịa giải được xem là biện pháp được
ưu tiên hàng đầu. Bởi hòa giải từ xưa đến nay là biểu hiện nét đẹp truyền thống của dân
tộc ta. Về bản chất hòa giải nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm; tăng cường tình đồn kết,
tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng; kịp thời giải quyết những xích
mích, mâu thuẫn ở cơ sở; ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật. Vậy từ những vấn đề đó
thì một câu hỏi đặt ra là: Hiện nay pháp luật nước ta đã có quy định như thế nào về vấn
đề hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai?
Trước nội dung cần quan tâm, để thấy được những quy định pháp luật về vấn đề
trên, em xin chọn đề tài: “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp
đất đai. Chỉ ra những vướng mắc và đề xuất hướng khắc phục” làm đề tài tiểu luận kết
thúc học phần môn Luật Đất đai.


1


B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về hòa giải tranh chấp đất đai
1. Khái niệm về hòa giải tranh chấp đất đai
Trong cuộc sống hiện nay, việc hòa giải tranh chấp đất đai là một trong những vấn
đề vẫn thường xuyên diễn ra. Vậy để biết hòa giải tranh chấp đất đai là gì thì trước hết
cần hiểu khái niệm về tranh chấp và tranh chấp đất đai. Theo đó, Tranh chấp là việc giành
nhau cái không biết thuộc về bên nào, các bên trong tranh chấp có quan điểm trái ngược
nhau về đối tượng tranh chấp. Bên cạnh đó, tại Khoản 24 Điều 3 luật Đất đai 2013 định
nghĩa Tranh chấp đất đai như sau: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ
của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai” [1]. Hay nói cách
khác, tranh chấp đất đai là sự bất đồng quan điểm giữa các bên tranh chấp trong việc xác
định người có quyền sử dụng đất.
Từ các khái niệm trên, có thể thấy: Hịa giải tranh chấp đất đai là biện pháp pháp
lý giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, theo đó bên thứ ba độc lập
giữ vai trò trung gian trong việc giúp các bên có tranh chấp tìm kiếm những giải pháp
thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến quyền sử
dụng đất và thương lượng với nhau về việc giải quyết quyền lợi của mình. [2]
2. Đặc điểm của hịa giải tranh chấp đất đai
Pháp luật Đất đai khuyến khích sự thỏa thuận, hịa giải giữa những người sử dụng
đất nếu có tranh chấp xảy ra. Chính vì vậy, để việc thỏa thuận và hòa giải giữa các bên
được diễn ra hiệu quả thì cần hiểu được đặc điểm của hoạt động này. Có thể nói, tranh
chấp đất đai là một dạng đặc biệt của tranh chấp dân sự do có đối tượng tranh chấp là
quyền sử dụng đất. Do vậy, bên cạnh những đặc điểm chung của hòa giải tranh chấp dân
sự thì việc hịa giải tranh chấp đất đai cịn có những đặc điểm riêng sau đây:
- Việc hịa giải được tiến hành tại nơi có đất tranh chấp. Theo đó, việc tranh chấp
đất đai ln gắn liền với quyền sử dụng đất nên việc hòa giải thường phải được tiến hành

tại nơi có tài sản tranh chấp. Bởi điều đó sẽ giúp cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
có điều kiện để tìm hiểu về nguồn gốc, hiện trạng pháp lý cũng như thực tế tài sản tranh

2


chấp… một cách tốt nhất. Nhờ vậy mà các chủ thể này sẽ có cơ sở để tiến hành hịa giải
một cách phù hợp và hiệu quả.
- Việc hòa giải tranh chấp đất đai phải do các chủ thể am hiểu pháp luật về đất đai,
nắm vững nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và nguyên nhân tranh chấp giữa các bên tiến
hành. Cụ thể tài sản tranh chấp ở đây là đất đai có giá trị lớn. Bên cạnh đó lịch sử cũng
như sự chuyển giao tài sản này khá phức tạp nên đòi hỏi những chủ thể tiến hành hịa giải
phải có nguồn kiến thức và hiểu biết lớn về pháp luật đất đai. Có như vậy việc giải quyết
tranh chấp đất đai mới đảm bảo chất lượng và đạt được hiệu quả.
- Chủ thể tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai có thể là tổ hịa giải, Ủy ban Nhân
dân hoặc Tịa án. Khi có tranh chấp xảy ra, cách thức đầu tiên mà các bên phải sử dụng
là tự hịa giải, hay nói cách khác là thương lượng. Khi các bên khơng tự hịa giải được thì
các chủ thể trên sẽ đóng vai trị trung gian giúp các bên tranh chấp tiến hành gặp gỡ, trao
đổi, thỏa thuận với nhau để đạt được tiếng nói chung, xóa bỏ bất đồng, xung đột lợi ích
nhằm giải quyết ổn thỏa vụ việc.
- Hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban Nhân dân xã, phường, thị trấn tiến hành
trong một số trường hợp được coi là giai đoạn tiền giải quyết tranh chấp đất đai của cơ
quan hành chính nhà nước hoặc của Tịa án nhân dân có thẩm quyền.
- Hịa giải tranh chấp đất đai được tiến hành trên cơ sở tôn trọng quyền định đoạt
của các đương sự có tranh chấp. Trong q trình hịa giải tranh chấp đất đai, các đương
sự có quyền thỏa thuận, thương lượng với nhau để giải quyết những bất đồng về quyền
lợi của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện ý chí, thỏa thuận. Mọi sự tác động từ bên ngoài
trái với ý muốn của các đương sự đều bj coi là trái pháp luật và không được cơng nhận.
Các cơ quan, tổ chức trung gian hịa giải không được cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp giữa họ.

3. Ý nghĩa của việc hòa giải tranh chấp đất đai
Hiện nay, việc hòa giải tranh chấp đất đai là một hoạt động cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng trên thực tế.
Thứ nhất, hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở góp phần giải quyết kịp thời, từ gốc
mâu thuẫn, xích mích, các tranh chấp trong gia đình, cộng đồng dân cư. Thể hiện đúng

3


tinh thần của cha ông ta từ xưa đế nay: “Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa khơng”.
Từ đó khơi phục, duy trì, củng cố tình đồn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn
chế vi phạm pháp luật, tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Chính việc duy trì và
củng cố tình làng nghĩa xóm tốt đẹp trong nhân dân là cơ sở để xây dựng xã hội tốt đẹp
văn minh [3]. Bên cạnh đó, việc để các bên trong quan hệ đó tự đưa ra các phương án
thống nhất hoặc theo sự định hướng của chính quyền địa phương sẽ làm giảm bớt mức
độ gay gắt của mâu thuẫn, làm mâu thuẫn giảm dần và tiến đến xóa bỏ.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp thơng qua hịa giải, quan hệ tốt đẹp giữa các
bên được duy trì, góp phần giảm bớt khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của nhân dân, tiết kiệm
thời gian, chi phí, cơng sức của nhân dân cũng như của Nhà nước, giảm tải áp lực cho cơ
quan Tòa án và các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Thứ ba, hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở góp phần phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong quản lý xã hội. Bởi đặc trưng cơ bản của hòa giải là bảo đảm quyền tự
định đoạt của các bên trong giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Vì vậy, hòa giải là một
phương thức để thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đây là điều quan trọng
trong việc thúc đẩy đất nước, xã hội đi lên; thể hiện đúng tinh thần xây dựng một đất
nước tiến bộ; Đất nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Thứ tư, thơng qua hịa giải, đặc biệt là hòa giải ở cơ sở, vai trò tự quản của người
dân được tăng cường. Nâng cao vai trò của người dân, tổ tự quản trong việc giải quyết
những vấn đề nội bộ phù hợp với thẩm quyền của địa phương. Điều đó có ý nghĩa rất
quan trọng góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa hiện nay.

II. Quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai
1. Nội dung quy định của pháp luật về hòa giải tiền tố tụng đối với tranh chấp đất
đai
Khi xảy ra tranh chấp về đất đai thì việc đầu tiên mà các bên cần hướng tới là việc
tự thương lượng và thỏa thuận với nhau. Bên cạnh đó, các bên cũng có thể lựa chọn tổ
hịa giải cơ sở để giải quyết tranh chấp của mình. Trong trường hợp các bên tranh chấp
không đưa ra được tiếng nói chung thì tiến hành gửi đơn lên Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
có đất tranh chấp để hòa giải trước khi gửi đơn kiện ra Tòa án.

4


* Hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai:
Đối với việc hòa giải cơ sở trong tranh chấp đất đai thì tại Khoản 1 Điều 202, luật
Đất đai 2013 quy định: “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải
hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thơng qua hịa giải ở cơ sở” và tại Khoản 2 của Điều
này cũng quy định: “Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp khơng hịa giải được thì
gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hịa giải”.
Khi xét các văn bản hiện hành về hịa giải cơ sở thì dường như hịa giải cơ sở là
loại hình riêng biệt phân biệt với hòa giải đất đai ở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Theo Điều 2, Luật Hòa giải cơ sở năm 2013 quy định: “1. Hòa giải ở cơ sở là việc hòa
giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau
các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này.
2. Cơ sở là thơn, làng, ấp, bản, bn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và
cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố)” [4]. Bên cạnh đó, tại
Điều 3 của luật này quy định phạm vi những loại việc có thể được hịa giải ở cơ sở một
cách khá rộng. Theo đó, Việc hịa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn,
tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp như: Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng; Vi phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình, giao
dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải; Vi phạm

pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm
hành chính: Mâu thuẫn, tranh chấp khác khơng được hịa giải ở cấp cơ sở theo quy định
pháp luật.
Như vậy, có thể thấy rằng: Hịa giải cơ sở do hòa giải viên thuộc tổ hòa giải là tổ
chức của nhân dân được thành lập ở thơn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư
khác thực hiện. Cơ cấu tổ hịa giải có Tổ trưởng và các tổ viên do Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc xã, phường, thị trấn phối hợp với các thành viên của mặt trận lựa chọn, giới thiệu
để nhân dân bầu và do Ủy ban nhân dân cùng cấp công nhân. Từ nội dung trên thì xét về
bản chất, giữa hịa giải cơ sở và hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn đã có sự khác biệt.
* Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn:

5


Điều 202, luật Đất đai 2003 quy định về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn với một số nội dung:
- Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hịa giải hoặc giải quyết
tranh chấp đất đai thơng qua hịa giải ở cơ sở.
- Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp khơng hịa giải được thì gửi đơn đến
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hịa giải tranh chấp
đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức
xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện
trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh
chấp đất đai.
Trước hết, hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
thực hiện có sự khác biệt căn bản với các loại hình tự hịa giải tại cơ sở. Cụ thể, việc hòa
giải tranh chấp đất đai do UBND cấp xã thực hiện phải được tiến hành theo một trình tự

thủ tục tương đối chặt chẽ như: Phải đảm bảo thời hạn luật định; Việc hòa giải tranh chấp
đất đai phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và xác nhận hịa giải thành
hoặc khơng thành của UBND cấp xã; và biên bản hòa giải này được gửi đến các bên tranh
chấp, lưu tại UBND cấp xã, phường, thị trấn nơi có tranh chấp và gửi đến cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, trong trường hợp này, Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn chỉ đóng vai trị trung gian, làm cầu nối hòa giải giúp gỡ bỏ những vướng mắc
bất đồng về vấn đề đất đai chứ không phải là một cấp giải quyết tranh chấp đất đai. Thẩm
quyền giải quyết này thuộc về Tòa án và các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Từ
cấp huyện trở lên). Với tư cách của bên trung gian, pháp luật về đất đai, một mặt xác định
trách nhiệm chủ yếu của Uỷ ban nhân dân cấp xã trong hoạt động hòa giải đối với tranh
chấp đất đai, mặt khác cũng đã yêu cầu “UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối
hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức
xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất đai”. Điều này khẳng định vai trị khơng nhỏ của
các tổ chức xã hội trong hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban Nhân dân cấp xã thực hiện.

6


Ngoài ra, theo Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai
mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều
100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tịa án nhân dân giải
quyết”. Quy định này dẫn tới cách hiểu và vận dụng trong thực tiễn theo hướng hòa giải
tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã là một điều kiện bắt buộc. Khi các bên hịa giải khơng
thành mới tiến tới khởi kiện ra Tòa án. Như vậy, nếu khơng có việc hịa giải của UBND
cấp xã thì các đương sự sẽ bị coi là chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp
luật và Tòa án sẽ phải trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn đương sự tiến hành thủ tục hòa
giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Tính chất pháp lý bắt buộc của hòa giải tranh chấp đất đai do Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn tiến hành được thể hiện như sau:
Một là, hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban Nhân dân xã, phường, thị trấn thực

hiện được coi là điều kiện bắt buộc trước khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thụ
lý, xem xét, giải quyết vụ việc.
Hai là, giá trị pháp lý của hòa giải tranh chấp đất đai do UBND cấp xã thực hiện
bằng việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận đối với kết quả hịa giải tranh chấp.
Trong đó, điểm đặc biệt là pháp luật đất đai đã quy định đối với trường hợp hòa giải thành
mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì UBND cấp xã gửi biên bản
hịa giải đến Phịng Tài ngun và Mơi trường đối với tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình,
cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở tài nguyên và Môi trường đối với các
trường hợp khác. [5]
2. Nội dung quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án
* Quy định về phạm vi các vụ việc mà tòa án tiến hành giải quyết:
Theo luật Đất đai 2013 quy định tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một số giấy tờ có liên quan theo quy định và
tranh chấp về tài sản gắn liền với đất sẽ do Tòa án nhân dân tiến hành giải quyết. Cụ thể,
một số loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai cũng
như Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP bao gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng

7


đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; Sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước
ngày 18 tháng 12 năm 1980. Một trong các giấy tờ được lập trong quá trình thực hiện
đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị số 299-TTg về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký
thống kê ruộng đất trong cả nước do cơ quan nhà nước đang quản lý: Biên bản xét duyệt
của Hội đồng đăng ký ruộng đất cấp xã xác định người đang sử dụng đất là hợp pháp;
Đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất… [6]
Sau khi thụ lý các vụ việc tranh chấp về đất đai theo thẩm quyền, để giải quyết vụ
việc tòa án tiến hành giải thích pháp luật, giúp các đương sự giải quyết mâu thuẫn. Có
thể nói, hịa giải tranh chấp đất đai trong giai đoạn này là hoạt động tố tụng do Tòa án

tiến hành nhằm giúp các đương sự đưa ra được tiếng nói chung. Theo đó, các tranh chấp
đất đai thuộc thẩm quyền hòa giải và xét xử của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự bao
gồm: Tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất; Tranh chấp hợp đồng chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê lại quyền sử dụng đất; Thừa kế quyền sử dụng đất… Mặc
dù vậy, nhưng không phải trường hợp tranh chấp đất đai nào Tòa án cũng đứng ra hòa
giải trước khi xét xử. Cụ thể, đối với các tranh chấp đất đai phát sinh từ giao dịch trái
pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Tịa án khơng tiến hành hịa giải mà đưa ra xử theo
quy định của pháp luật. Hoặc các trường hợp bị đơn có tranh chấp đất đai đã được Tịa
án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; Đương sự trong vụ tranh
chấp đất đai không thể tham gia hịa giải được vì lý do chính đáng thì Tịa án cũng khơng
cần tiến hành hịa giải trong các trường hợp này.
* Quy định về các chủ thể và thủ tục hòa giải tại Tòa án:
- Chủ thể tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai: Theo quy định, những người tiến
hành hòa giải bao gồm thẩm phán chủ trì phiên hịa giải, thư ký Tịa án ghi nội dung biên
bản hịa giải. Bởi vì, hịa giải tranh chấp đất đai đòi hỏi người tiến hành phải có kinh
nghiệm giải quyết các tranh chấp cũng như am hiểu nhất định về lĩnh vực cần hòa giải và
thẩm phán về dân sự là người thỏa mãn được các điều kiện đó. Sau khi tịa án xét xử sẽ
phân công thẩm phán giải quyết vụ án. Thẩm phán sẽ nghiên cứu hồ sơ để nắm tình tiết
vụ án, xác định nội dung vụ án, yêu cầu đương sự tự khai nội dung vụ án để cung cấp
chứng cứ. Đồng thời, thẩm phán cũng tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, hồn cảnh gia đình
của đương sự để từ đó nắm được tính cạnh tranh khách quan của vụ án làm cơ sở cho

8


việc hòa giải, giải quyết vụ án. Phương pháp mà thẩm phán áp dụng khi hòa giải tranh
chấp đất đai là thuyết phục đương sự, khai thác yếu tố tâm lý, tình cảm giữa các bên. Sau
khi có đủ điều kiện tiến hành hòa giải, Thẩm phán triệu tập đương sự đến Tòa án để tiến
hành hòa giải. Thẩm phán sẽ cơng bố nội dung u cầu tịa giải quyết cho nguyên đơn, ý
kiến của bị đơn và ý kiến của người có quyền lợi liên quan… Lúc này, thẩm phán khai

thác, lợi dụng yếu tố tâm lý của các bên liên quan như nắm bắt được tâm tư nguyện vọng
của đương sự, giữa các đương sự có thơng cảm, chia sẻ và đồng thuận thống nhất giải
quyết vụ việc hay không? Khi thẩm phán đã nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của đương
sự và thấy họ có thể “mười phân vẹn mười”, nhân nhượng, thông cảm với nhau thì vụ án
có thể được giải quyết bằng cách hịa giải. Thẩm phán có thể giải quyết; Ưu tiên các quy
định của pháp luật liên quan đến tranh chấp để các bên tự đề xuất thỏa thuận giải quyết
tranh chấp đất đai. Trong thực tế, thường là ý chí của các bên và vai trò của cơ quan nhà
nước trong việc hịa giải tranh chấp đất đai.
Ngồi chủ thể tiến hành hịa giải thì phiên hịa giải cịn bao gồm các chủ thể tham
gia hòa giải như: Các đương sự hoặc người đại diện họp pháp của đương sự. Và người
phiên dịch trong trường hợp đương sự không biết về Tiếng Việt.
- Thủ tục hòa giải tại Tòa án: Giải quyết tranh chấp đất đai theo trình tự tố tụng
dân sự: Cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện
hợp pháp để tiến hành khởi kiện vụ án tranh chấp đất đai tại Tịa án có thẩm quyền.
Đầu tiên, gửi đơn khởi kiện, giấy tờ, tài liệu chứng cứ kèm theo đến Tịa án có
thẩm quyền, sau đó nộp tạm ứng án phí và hồn chỉnh, bổ sung hồ sơ theo đúng yêu cầu
của Tòa án.
Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Tòa sẽ tiến hành mời các đương sự lên hòa giải, đây
là giai đoạn bắt buộc do Tòa án tiến hành và chủ trì. Theo đó, nếu hịa giải thành, mà sau
07 ngày các bên khơng có ý kiến gì về việc này nữa thì tranh chấp chính thức kết thúc.
Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các bên thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ việc và các bên không thay đổi ý kiến
về sự thỏa thuận theo hướng phản đối thỏa thuận đã lập. Trường hợp nếu hịa giải khơng
thành thì Tịa án sẽ đưa ra xét xử. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử, các bên vẫn được

9


quyền thỏa thuận với nhau để có thể giải quyết vụ án. Đồng thời các bên vẫn có quyền
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. [7]

III. Thực trạng, khó khăn vướng mắc và hướng khắc phục trong hòa giải tranh chấp
đất đai
1. Thực trạng về hoạt động hòa giải trong tranh chấp đất đai hiện nay
Hiện nay, hoạt động tranh chấp đất đai ở nước ta đang gia tăng. Không những về
số lượng mà cịn phức tạp về tính chất, nhất là ở những vùng đang đơ thị hóa nhanh. Các
tranh chấp đất đai diễn ra ở hầu hết các địa phương. Tính bình qn trong cả nước, tranh
chấp đất đai chiếm từ 55 - 60%, thậm chí nhiều tỉnh ở Tây Nguyên và Tây Nam Bộ chiếm
từ 70 - 80% các tranh chấp dân sự phát sinh [8]. Trước sự gia tăng của hoạt động tranh
chấp đất đai hiện nay thì vấn đề hịa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai đã và đang
trở thành vấn đề nhận được nhiều quan tâm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
cũng như tồn xã hội. Trong hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng, hịa giải
có tầm quan trọng đặc biệt. Nếu hịa giải thành, có nghĩa là tranh chấp sẽ kết thúc, không
những hạn chế được sự phiền hà, tốn kém cho các bên đương sự mà cịn giảm bớt được
cơng việc đối với Tịa án, phù hợp với đạo lý tương thân, tương ái của dân tộc, giữ được
tình làng, nghĩa xóm, đảm bảo đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Đồng thời qua hòa giải,
các đương sự sẽ hiểu thêm về pháp luật và chính sách của Nhà nước đúng như lời dạy
của Hồ Chủ tịch: "Xét xử đúng là tốt, nhưng không phải xét xử thì càng tốt". Nhận thức
sâu sắc vai trò to lớn của tranh chấp đất đai tại cơ sở cũng như tai Tòa án, trong những
năm qua các cơ quan có thẩm quyền đã tăng cường chú trọng hoạt động hịa giải trong
q trình giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các tranh chấp đất đai nói riêng.
Theo báo cáo tổng kết hằng năm của Tòa án nhân dân tối cao, kết quả hòa giải thành
chiếm một tỉ lệ khá lớn trong tổng số các vụ việc dân sự đã được giải quyết. Ở một số địa
phương, hoạt động hòa giải trong tranh chấp đất đai đạt được hiệu quả cao. Theo ơng
Nguyễn Đức Trí, Chủ tịch UBND phường Bình Thuận, quận 7, TP. Hồ Chí Minh: “Trong
sáu tháng đầu năm 2019, UBND phường đã tiếp nhận hòa giải năm vụ tranh chấp liên
quan đến đất đai, tỉ lệ hòa giải thành đạt 60%. Năm 2018, tỉ lệ hòa giải thành loại tranh
chấp này là 80%”. Có thể nói, mặc dù chưa có số liệu cụ thể và riêng biệt về hòa giải

10



tranh chấp đất đai nhưng qua thực tiễn có thể thấy hiệu quả của biện pháp hòa giải trong
thời gian qua đối với lĩnh vực dân sự nói chung, tranh chấp đất đai nói riêng. Để đạt được
kết quả và tỉ lệ hịa giải trên là có sự quan tâm, phối hợp tốt của các cơ quan có thẩm
quyền trong hòa giải tranh chấp đất đai.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực đã đạt được thì ở một số địa phương
cơng tác hịa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở có nhiều bất cập nảy sinh, trong đó nổi cộm
nhất việc hịa giải cịn hình thức, chưa hiệu quả và thực chất. Một số địa phương khác thì
hiệu quả của hoạt động hòa giải trong tranh chấp đất đai cịn chưa cao. Theo ơng Lơi Đại
Phong, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, TP.HCM thì: “Trong sáu
tháng đầu năm 2019, UBND xã hịa giải chín vụ liên quan đến tranh chấp đất đai thì cả
chín vụ đều khơng thành, phải chuyển lên tịa án tiếp tục giải quyết” [9]. Trước những
thực trạng trên thì các cơ quan có thẩm quyền cần có sự điều chỉnh và có hướng đi phù
hợp để cơng tác hịa giải đạt kết quả cao nhất. Bởi cơng tác hịa giải phải đạt hiệu quả thì
việc giải quyết tranh chấp đất đai mới thực sự có ý nghĩa.
2. Khó khăn, vướng mắc trong hòa giải tranh chấp đất đai
Trên thực tế, khi áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành vào việc hịa giải
tranh chấp đất đai thì bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được thì vẫn cịn tồn
tại những hạn chế bất cập cần phải khắc phục. Cụ thể như sau:
* Bất cập, vướng mắc trong các quy định về hòa giải tiền tố tụng đối với tranh
chấp đất đai:
- Trước hết có thể thấy, quy định về hòa giải bắt buộc tại Ủy ban nhân dân cấp xã,
phường, thị trấn hiện nay đối với các tranh chấp đất đai không đáp ứng yêu cầu về đảm
bảo quyền tiếp cận công lý của công dân. Bởi theo quy định của pháp luật Đất đai hiện
hành thì Nhà nước chỉ khuyến khích giải quyết tranh chấp đất đai thơng qua hịa giải ở
cơ sở chứ khơng coi hịa giải cơ sở là thủ tục bắt buộc. Khi hịa giải ở cơ sở khơng đạt
mới tiến hành khởi kiện ra Tòa án. Do vậy, trong trường hợp này thì Tịa án chỉ thụ lý và
giải quyết các đơn kiện tranh chấp đất đai mà đã tiến hành hịa giải ở UBND xã, phường,
thị trấn nhưng khơng đạt kết quả. Điều này đã gây ra sự khó khăn cho người dân trong
việc thực hiện việc khởi kiện tại Tòa án và vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự.


11


Bên cạnh đó, thời gian tiến hành hịa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã theo
quy định của Luật Đất đai 2013 là 45 ngày kể từ khi nhận được đơn. Trên thực tế thì đây
là khoảng thời gian khá dài đã gây cản trở, khó khăn trong một số vụ tranh chấp đất đai.
Chưa kể có trường hợp Uỷ ban Nhân dân cấp xã, phường, thị trấn triệu tập nhiều lần
nhưng người bị kiện cố tình khơng đến, cho nên khơng thể tiến hành hịa giải được.
- Hiện nay, pháp luật vẫn chưa có những quy định về phương án xử lý trong trường
hợp một bên tranh chấp khơng hợp tác để tiến hành hịa giải tranh chấp đất đai. Như đã
nói ở trên, khơng phải trường hợp nào các bên tranh chấp cũng đồng ý ngồi lại để tiến
hành hịa giải. Mà có những trường hợp Uỷ ban Nhân dân cấp xã, phường, thị trấn triệu
tập nhiều lần nhưng người bị kiện cố tình trốn tránh khơng đến đã gây khó khăn cho cơng
tác hịa giải. Trong khi đó pháp luật Đất đai hiện hành vẫn chưa có những quy định cụ
thể để xử lý những trường hợp cố tình trốn tránh như vậy. Điều này đã gây ra những khó
khăn, vướng mắc nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc. Đặc biệt là gây lãng phí
thời gian cho các bên thực hiện cơng tác hòa giải tranh chấp đất đai.
- Trên thực tế, pháp luật hiện hành cịn chưa có các quy định về cơ chế công nhận
sự thỏa thuận của các bên tranh chấp là chưa đáp ứng được yêu cầu về khuyến khích hịa
giải trong tranh chấp đất đai. Theo đó, hiện nay thì Nhà nước chỉ khuyến khích giải quyết
tranh chấp đất đai thơng qua hịa giải ở cơ sở chứ khơng coi hịa giải cơ sở là thủ tục bắt
buộc. Điều này đã dẫn đến một bất cập là khi các bên đã thỏa thuận được với nhau thì
pháp luật lại không quy định về cơ chế để công nhận sự thỏa thuận làm cơ sở pháp lý để
buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành thoả thuận đã đạt được trong q trình hịa giải thơng
qua hịa giải cơ sở. Hay có thể hiểu rằng khi đã đạt được thỏa thuận trong tranh chấp đất
đai và có văn bản hòa giải do các hòa giải viên lập nhưng bên có nghĩa vụ lại khơng tự
nguyện thi hành thì việc hịa giải trở nên khơng có giá trị pháp lý, khơng có giá trị ràng
buộc các bên. Đây là một bất cập rất lớn trên thực tế.
* Bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai

tại Tòa án:
- Hiện nay, các quy định của pháp luật về trách nhiệm hòa giải của Tòa án còn
chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu về khuyến khích hịa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai [10]. Theo đó, pháp luật hiện hành nếu xét về thẩm quyền giải quyết theo cấp thì

12


chỉ Tòa án cấp sơ thẩm mới bắt buộc tiến hành thủ tục tố tụng trước khi đưa vụ việc ra
xét xử tại phiên tịa sơ thẩm. Do đó, ở các thời điểm khác Tịa án khơng tiến hành thủ tục
hịa giải mà chỉ cơng nhận sự thỏa thuận giữa các bên nếu các bên tự thỏa thuận được với
nhau và u cầu Tịa án cơng nhận. Tuy nhiên, trên thực tế hiệu quả của việc hòa giải tại
Tòa án trước khi đưa vụ việc ra xét xử chưa đáp ứng được mong mỏi của các bên tranh
chấp khi mà hiện tượng hòa giải kéo dài, vi phạm về thời hạn tố tụng vẫn cịn tồn tại. Bên
cạnh đó, thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai cho thấy hiện tượng vi phạm về chủ thể có
thẩm quyền hịa giải vẫn còn tồn tại. Cụ thể là trường hợp thẩm phán được giao giải quyết
vụ việc không trực tiếp tiến hành hòa giải mà giao cho thư ký tiến hành hòa giải. Điều
này đã tạo ra bất cập và lỗ hổng lớn trong hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai hiện nay.
- Vẫn còn tồn tại, bất cập trong trường hợp đương sự khởi kiện ra Tòa án do có
tranh chấp tài sản là quyền sử dụng đất gồm nhiều phần đất ở địa phương khác nhau thì
có nhiều quan điểm khác nhau về thủ tục hòa giải tiền tố tụng. Bên cạnh đó, vẫn cịn tồn
tại trường hợp thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại xã, phường, thị trấn khơng đúng đã
dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện quyền khởi kiện tại Tòa án.
- Pháp luật hiện hành khơng có quy định về thủ tục trong trường hợp các đương
sự có thỏa thuận lại sau khi Tòa án đã lập biên bản hòa giải thành. Theo đó, pháp luật
hiện hành khơng có điều khoản quy định hợp lý về hậu quả pháp lý trong trường hợp các
bên thay đổi ý kiến trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành. Trong
thời hạn bảy ngày, nếu các đương sự thay đổi ý kiến về thỏa thuận đã lập nhưng không
theo hướng phản đối thỏa thuận mà các đương sự vẫn muốn giải quyết tranh chấp bằng
quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhưng các bên đã tự thương lượng và

đồng ý sửa đổi thỏa thuận đã lập thì pháp luật hiện hành lại không quy định về thủ tục áp
dụng trong trường hợp này.
3. Hướng khắc phục khó khăn, vướng mắc trong hòa giải tranh chấp đất đai
Trước những khó khăn, bất cập trong việc hịa giải, tranh chấp đất đai nêu trên,
em xin được đề xuất một số phương hướng khắc phục sau:
Thứ nhất, để có thể giải quyết tranh chấp đất đai một cách nhanh chóng, kịp thời,
hiệu quả và đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân, pháp luật đất đai cần sửa đổi

13


theo hướng quy định hịa giải thơng qua hịa giải ở cơ sở là một thủ tục hòa giải bắt buộc.
Đồng thời, khi có tranh chấp phát sinh, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn hịa
giải thơng qua hòa giải ở cơ sở hay hòa giải do UBND cấp xã, phường, thị trấn tiến hành.
Hay nói cách khác, nếu hịa giải thơng qua hịa giải ở cơ sở khơng thành thì một trong các
bên tranh chấp có thể gửi đơn khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp mà
khơng cần tiến hành hịa giải ở UBND cấp xã nữa.
Thứ hai, để đáp ứng được yêu cầu về đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công
dân, pháp luật cần quy định cụ thể về biện pháp xử lý và chế tài đối với trường hợp một
trong các bên tranh chấp cố tình trốn tránh, khơng tham gia hịa giải hoặc khơng thể tham
gia hịa giải sau khi đã được thông báo từ các cơ quan tiến hành hịa giải. Có như vậy mới
khắc phục được tình trạng này, hướng tới việc các đương sự sẵn sàng tham gia hòa giải
cũng như giải quyết tốt các vụ việc tranh chấp đất đai.
Thứ ba, pháp luật cần bổ sung quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động
hòa giải tranh chấp đất đai theo hướng: Tịa án có thẩm quyền sẽ ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các bên đương sự đã đạt được ở hòa giải tiền tố tụng theo một trình tự,
thủ tục nhất định để đảm bảo cam kết của các bên tranh chấp sẽ được thực thi. Từ đó góp
phần tăng tính hiệu quả của biện pháp hòa giải tiền tố tụng và giúp tiết kiệm thời gian,
chi phí cũng như giảm áp lực cơng việc cho Tịa án và các cơ quan hành chính khác có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.

Thứ tư, để việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án diễn ra một cách hiệu quả thì
điều cần thiết là cần phải nâng cao năng lực, trình độ và trách nhiệm của Thẩm phán khi
tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai. Thẩm phán là người chịu trách nhiệm chủ trì phiên
hịa giải, chính vì vậy phải là người có đầy đủ năng lực để đảm đương nhiệm vụ được
giao. Để đảm bảo được yêu cầu này đòi hỏi phải xây dựng một tiêu chuẩn nhất định đối
với người thẩm phán. Cụ thể là cần phải có trình độ chun mơn nghiệp vụ phù hợp, có
đạo đức cũng như tinh thần trách nhiệm, kinh nghiệm sống phong phú…
Thứ năm, để tránh trường hợp thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại cấp xã,
phường, thị trấn không đúng đã dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện quyền khởi kiện
tại Tịa án thì điều cần thiết là phải chú trọng việc tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai ở
cơ sở. Trong đó cần tích cực nâng cao chất lượng của các tổ hòa giải, các hòa giải viên ở

14


địa phương. Khi lực lượng này được nâng cao chuyên mơn sẽ tiến hành hịa giải hiệu quả
hơn, tránh sai sót xảy ra. Từ đó giúp giảm áp lực cho các cơ quan về tố tụng.
Thứ sáu, để tránh khó khăn và bất cập khi có trường hợp cụ thể xảy ra thì pháp
luật hiện hành cần đưa ra các quy định về thủ tục trong trường hợp các đương sự có thỏa
thuận lại sau khi Tịa án đã lập biên bản hòa giải thành. Khi xây dựng được các quy định
ấy sẽ giúp các cơ quan chức năng không lúng túng khi có tình huống xảy ra. Đồng thời
các cơ quan có thẩm quyền cũng cần ban hành văn bản hướng dẫn để thống nhất thủ tục
hòa giải tiền tố tụng trong trường hợp đương sự khởi kiện ra Tịa án do có tranh chấp tài
sản là quyền sử dụng đất gồm nhiều phần đất ở địa phương khác nhau. Từ đó giúp các cơ
quan chức năng có hướng giải quyết các vụ việc một cách phù hợp và thống nhất.

C. KẾT LUẬN
Như vậy, trên đây là toàn bộ phần trình bày của em về đề tài: “Tìm hiểu các quy
định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai. Chỉ ra những vướng mắc và đề xuất
hướng khắc phục”. Từ đây có thể nhận thấy, vấn đề nghiên cứu và áp dụng biện pháp

hòa giải tranh chấp đất đai trong thực tiễn là nội dung khá được quan tâm và có ảnh hưởng
trực tiếp tới pháp luật Đất đai của nước ta. Việc sử dụng biện pháp hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai là hoạt động cần thiết và mang lại giá trị, ý nghĩa lớn cho người
dân, cộng đồng và xã hội. Có thể nói, khi tìm hiểu về vấn đề nêu trên đã giúp cho mỗi
người có cái nhìn chính xác về các chính sách, quy định của pháp luật hiện hành về vấn
đề đất đai và hòa giải tranh chấp đất đai. Đồng thời từ đó chỉ ra các vấn đề thực tiễn hiện
nay, các bất cập khó khăn và đưa ra một số phương hướng từ đó góp phần vào việc giải
quyết các vụ việc về đất đai một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả. Đối với tình
hình tranh chấp đất đai ngày nay đang gia tăng và hết sức phức tạp địi hỏi chúng ta cần
phải tích cực, chủ động trong việc phân tích nghiên cứu để bổ sung và sửa chữa nhiều
hơn góp phần củng cố, hồn thiện hệ thống pháp luật Đất đai.
Bài tiểu luận của em cịn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm và nhận
xét góp ý của các thầy/cơ.

15


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Luật Đất đai năm 2013, Luật số: 45/2013/QH13.
[2] Nguyễn Thị Hảo (2014), Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai, Luận văn Thạc
sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
[3] Lương Thị Bích Ngân, Giảng viên Khoa luật - Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng,
Một số vấn đề về hòa giải tranh chấp đất đai tại Việt Nam, ngày 13/06/2021,
/>[4] Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, Luật số: 35/2013/QH13.
[5] Khúc Thị Phương Nhung (2019), Quy định về hòa giải tiền tố tụng đối với tranh chấp
đất đai - Một số bất cập và kiến nghị hồn thiện, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số chun
đề 2 – 2019.
[6] Nghị định 43/2014/NĐ-CP, Nghị định Quy định chi tiết thi hành một số Điều của
Luật Đất đai.
[7] Hùng Sơn, Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án và tại UBND,

ngày 15-07-2020, />[8] DHLaw, Thực trạng tranh chấp đất đai hiện nay, truy cập ngày 14/7/2021,
/>[9] Nhóm PV Báo Pháp luật, Người trong cuộc nói về hịa giải tranh chấp đất đai, ngày
7/8/2019, />[10] Trần Quang Huy, Cịn nhiều hạn chế trong cơng tác hòa giải, đối thoại, ngày
15/10/2018,

/>
cong-tac-hoa-giai-doi-thoai-bai-1-16490.html

16



×