Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài thu hoạch quyền con người vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.37 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Quyền con người là một trong những vấn đề được cả nhân loại quan
tâm và nghiên cứu. Ở Việt Nam, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986), công cuộc đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm thay đổi
nhận thức về vấn đề bảo vệ quyền con người. Hiến pháp 1992 được ban
hành, sủa đổi, bổ sung một số điều đã khẳng định cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc bảo đảm quyền con người trong mọi lĩnh vực với sự giám sát chặt
chẽ của lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân. Sự nghiệp bảo vệ quyền
con người đã trở thành ý chí thống nhất của tồn đảng, tồn dân.
Thành tựu của cơng cuộc đổi mới đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ
đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam. Hàng loạt vấn đề mới xuất hiện, hàng
loạt vấn đề của cơ chế cũ đang được xem xét, nhìn nhận lại trong điều kiện
mới với sự hội nhập quốc tế và khu vực. Bằng sự đánh giá khách quan,
khoa học ở Việt Nam và trân thế giới chúng ta càng nhận thức rõ hơn về
những quyền con người. Bảo vệ quyền con người là một q trình. Nó phụ
thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như: kinh tế, chính trị, pháp
luật, văn hóa,… trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng
đầu.
Thực tiễn Việt Nam và thế giới cho thấy, đảm bảo bằng pháp luật là
một trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người được
thực hiện. Mọi yêu cầu hay yêu sách về quyền nếu không được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ thì khơng thể có bất cứ một quyền con người nào. Vì
vậy, cần nghiên cứu vấn đề “Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam hiện nay”.


NỘI DUNG
I. Một số khái niệm
1. Khái niệm về pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự)
có tính bắt buộc chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, do nhà nước ban


hành (hoặc thừa nhận) thể hiện ý chí nhà nước và được nhà nước bảo đảm
thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng
bộ

máy

Nhà nước.
2. Khái niệm về quyền con người
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người. Theo lập trường tư
sản cho rằng, quyền con người là “bẩm sinh”, nghĩa là con người sinh ra đã có
các quyền. Quyền con người là những nhu cầu cơ bản của con người, xuất
phát từ phẩm giá vốn có của mỗi người.
Quan điểm của cộng đồng quốc tế, nhất là của Liên hợp quốc khẳng
định:
“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát bảo vệ các cá nhân và
nhóm khỏi những hành động can thiệp vào tự do cơ bản và phẩm giá con
người. Luật Nhân quyền quốc chỉ ra nghĩa vụ của quốc gia và các chủ thể
nghĩa vụ khác phải có trách nhiệm phải thực thi việc bảo đảm và ngăn ngừa
sự vi phạm”
Kế thừa những nhận thức chung và dựa trên quan điểm macxit về
quyền con người, có thể hiểu: Quyền con người là quyền của tất cả mọi
người, xuất phát từ nhân phẩm vốn có của con người, được pháp luật ghi nhận
và bảo vệ.
II. Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người

2


1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho
việc bảo vệ quyền con người

Trước hết, Đảng và Nhà nước ta coi việc xây dựng và hồn thiện hệ
thống pháp luật có ý nghĩa then chốt đối với việc bảo đảm và phát triển quyền
con người. Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam năm 1946 mới chỉ
gồm 70 điều, nhưng đã dành 18 điều cho việc quy định các quyền và nghĩa vụ
cơ bản của cơng dân, được trình bày tập trung tại một chương: “Nghĩa vụ và
quyền lợi công dân” và đặt trang trọng ở vị trí ưu tiên, ngay tại Chương II.
Qua bốn lần sửa đổi, kế thừa và phát huy tinh thần của các Hiến
pháp trước, Hiến pháp năm 1992 khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân..." (điều 2), đồng thời quy định cụ
thể và toàn diện hơn các quyền của người dân. Bên cạnh đó, chỉ tính từ năm
1986 đến nay, chúng ta đã ban hành khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật,
trong đó có những đạo luật trực tiếp liên quan tới lĩnh vực quyền con người,
như Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng
hình sự, Luật báo chí, Luật xuất bản, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật đặc xá,
Pháp lệnh tín ngưỡng tơn giáo, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử
đại biểu hội đồng nhân dân, Luật giáo dục, Luật bảo hiểm xã hội... Hiện nay,
chúng ta đang tập trung triển khai mạnh mẽ và đồng bộ Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010 (định hướng đến năm
2020) nhằm tạo khung pháp lý và chính sách ngày càng hồn chỉnh hơn, góp
phần tạo bước phát triển mới cho việc bảo đảm quyền của người dân.
Hệ thống thiết chế về quyền con người được xây dựng và khơng ngừng
hồn thiện, bảo đảm các chính sách của Nhà nước được triển khai một cách
hiệu quả trên thực tế. Vai trò của các cơ quan kiểm tra, giám sát thực thi pháp
luật được chú trọng, đặc biệt là Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Những năm gần đây,
3


trong mỗi kỳ họp Quốc hội, phần đại biểu Quốc hội chất vấn các thành viên

Chính phủ được truyền hình trực tiếp, ngày càng đi vào thực chất và trở thành
diễn đàn để người dân, thông qua đại biểu do họ bầu ra, chất vấn chính sách,
cách thức điều hành của Chính phủ, đề xuất các giải pháp khắc phục khó
khăn, thách thức. Chính phủ cũng đang thực hiện Chương trình cải cách hành
chính giai đoạn 2001-2010 về thể chế, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức, tài chính nhằm nâng cao tính dân chủ, hiệu quả, chuyên nghiệp
và hiện đại, qua đó bảo đảm tốt hơn quyền của người dân. Song song với cải
cách hành chính là việc triển khai chương trình cải cách tư pháp sâu rộng
nhằm xây dựng hệ thống tư pháp xứng đáng là chỗ dựa của nhân dân trong
việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ
pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh
đó, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp như Hội Chữ thập đỏ, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên... tiếp tục tham gia tích cực
vào cơng tác quản lý nhà nước và xã hội, có vai trị quan trọng trong việc bảo
vệ

quyền



lợi

ích

chính

đáng

của


các

đối

tượng

cụ thể.
2. Vai trị của pháp luật trong việc bảo vệ, bảo
đảm

quyền

con người
2.1. Pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá trị
xã hội của quyền con người, làm cho quyền con người trở
thành ý chí và mục tiêu hành động của xã hội
Các quyền đó được pháp luật hóa và mang tính bắt buộc ,được xã hội
thừa nhận và bảo vệ. Nếu khơng có sự thừa nhận của xã hội thơng qua pháp
luật thì quyền tự nhiên vốn có của của con người chưa thành quyền thực sự.
Ngược lại quyền con người khi đã được quy định trong pháp luật nó sẽ trở
thành quyền pháp định, là ý chí chung của tồn xã hội,được xã hội thừa
4


nhận,phục tùng,được quyền lực nhà nước tôn trọng,bảo vệ. Khi quyền con
người được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật khác thì nó sẽ trở thành
“tối thượng”có giá trị bắt buộc đối với toàn xã hội,ngay cả với cơ quan cao
nhất của nhà nước.Điều này có nghĩa là,một khi nhân quyền được thừa nhận
thì khơng ai có quyền chối bỏ,xâm phạm cho dù đó là cơ quan chính quyền.
Đây là quyền mà không chỉ nằm trên phạm vi quốc gia,lãnh thổ mà nằm trên

phạm vi tồn cầu.
Ví dụ: Con người ai cũng có quyền làm chủ cơ thể chính mình và danh
dự, nhân phẩm. Người khác phải tơn trọng và khơng được xâm phạm quyền
tự nhiên, vốn có này. Song quyền này chỉ được chính thức cơng nhận và nằm
dưới sự bảo vệ của pháp luật khi được quy định rõ ràng trong Hiến pháp.
Trong chương V tại Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “Cơng dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể,được pháp luật bảo hộ về tính mạng,sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm. Khơng ai bị bắt nếu khơng có quy định của Tịa án
nhân dân, quy định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội bắt quả tang…”
2.2. Pháp luật là tiền đề, nền tảng tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu
tranh bảo vệ quyền con người
Pháp luật là tiền đề nền tảng tạo cở sở pháp lý để con người đấu tranh
và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ,thơng qua nhà nước ban hành
các đạo luật,điều luật liên quan đến việc bảo vệ quyền con người như: Hiến
pháp,Bộ luật hình sự từ điều 93 đến 122, Bộ luật dân sự các điều 32, 37. Pháp
luật được xem xét không chỉ với tư cách là cơng cụ, phương tiện của nhà
nước mà cịn là cơng cụ, vũ khí của mọi người trong việc bảo vệ quyền con
người của họ.
2.3. Vai trò hàng đầu của pháp luật trong việc thực hiện quyền con
người thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện khác

5


Vai trò của pháp luật trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người
còn thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện bảo đảm khác
(chính trị, kinh tế, văn hóa…) các điều kiện trên đều phải thơng qua pháp luật,
thể hiện dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội ổn định, được
hiện thực hóa trên qui mơ tồn xã hội. Chỉ có như vậy thì các điều kiện đó

mới phát huy được vai trị của mình trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con
người, cụ thể như:
- Điều kiện chính trị: Đường lối chính trị của một quốc gia là nhằm xây
dựng vào bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nền kinh tế phát
triển, nền dân chủ thực sự. Đường lối chính trị đó phải được thể chế hóa trong
Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
văn hóa xã hội, tổ chức hoạt động của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã
hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân… Đó chính là cơ sở pháp lý để
xây dựng một xã hội có cơ cấu tổ chức và chế độ chính trị hướng tới tôn
trọng, bảo vệ quyền con người.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết
bảo đảm Nhà nước Việt Nam là Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì
dân. Muốn dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh,
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội, tạo điều kiện bảo đảm thực hiện, bảo vệ quyền con người.
- Điều kiện kinh tế: Phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất là một trong
những điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện quyền con người. Nhưng
muốn phát triển kinh tế thì đường lối chính sách, cơ chế phải được cụ thể
hóa trong pháp luật. Pháp luật sẽ tạo khuôn khổ môi trường pháp lý thuận
lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phát huy được mọi tiềm
năng, hạn chế được các mặt tiêu cực.
- Điều kiện văn hóa: Phát triển văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí
cũng phải được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật, bảo đảm cho con
6


người được phát triển tự do và toàn diện, tạo điều kiện cho mọi người được
độc lập, nghiên cứu nâng cao nhận thức về mọi mặt. Mặt khác, pháp luật có
vai trị giáo dục tích cực, mạnh mẽ đối với tất cả các thành viên trong xã
hội góp phần hình thành văn hóa pháp lý ở mọi người, giúp cho mọi người

biết sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, biết “tự bảo vệ” các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình và biết tơn trọng các quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác trong cộng đồng.
Từ các điều kiện của pháp luật như đã trình bày, chúng ta thấy pháp
luật có vai trị quan trọng hàng đầu trong việc bảo vệ quyền con người. Để
phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền
con người thì phải thể chế hóa quyền con người thành các quy định cụ thể
trong hệ thống pháp luật, phải có cơ chế bảo đảm cho các quy định đó
được thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý thực hiện quyền
con người. Nói cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người chính
là bảo đảm thực hiện quyền con người bằng pháp luật.
Thể chế hóa quyền con người trong hệ thống pháp luật, khơng chỉ là cụ
thể hóa quyền con người thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân và
những người không phải là công dân hoặc bị tước đi quyền cơng dân. Nó cịn
bao hàm cả việc quy định các hình thức, biện pháp xử lý những hành vi vi
phạm quyền con người, quyền công dân, quy định về tổ chức, hoạt động của
bộ máy nhà nước, chức năng nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức và công chức Nhà nước, xây dựng hệ thống các thủ tục trong tố
tụng. Quyền con nguwoif được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật thành hệ
thống các quy định nêu trên, nhưng nếu không có cơ chế bảo đảm thực hiện
các quy định đó thì khơng thể nói đã có bảo đảm pháp luật bảo vệ quyền con
người. Vì vậy cần phải triển khai các hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục, giải thích pháp luật… nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các thành viên
xã hội, hình thành văn hóa pháp lý trong đời sống xã hội
7


3. Thực trạng bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Năm 1986, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng chính thức
tun bố đường lối đổi mới, với nội dung cơ bản là chuyển nền kinh tế từ mơ

hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; mở cửa tăng cường
giao lưu hợp tác với bên ngoài trên tinh thần Việt Nam sẵn sàng làm bạn với
các nước, phấn đấu vì hịa bình, hợp tác và phát triển.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con
người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối
đổi mới kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối
mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời
gian qua.
Về mặt nhận thức, cùng với việc coi trọng vị thế và vai trò của con
người, vấn đề quyền con người cũng được coi trọng và đánh giá tương ứng.
Hiến pháp năm 1992 (Điều 50) lần đầu tiên đề cập đến thuật ngữ quyền con
người và khẳng định: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và
luật”. Cùng với khái niệm quyền con người, các khái niệm có liên quan khác
như quyền bình đẳng của phụ nữ, quyền trẻ em… cũng được chính thức đề
cập trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật, pháp quy của Nhà
nước. Điều đó cũng đã tạo nên sự chuyển biến về nhận thức: từ sự đồng nhất
một cách ấu trĩ khái niệm quyền con người, như là sản phẩm của chủ nghĩa cá
nhân hoặc như là một thứ cơng cụ chính trị, mà các thế lực tư bản chủ nghĩa ở
phương Tây sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa đến cách nhìn
nhận khách quan hơn, coi nhân quyền là sản phẩm chung, là sự kết tinh của
8


nền văn minh nhân loại; tuy mang tính phức tạp và nhạy cảm, nhưng vẫn là
một yếu tố không thể bỏ qua trong đời sống chính trị hiện đại.

Xét riêng trên lĩnh vực lập pháp, chỉ tính từ năm 1996 đến năm 2002, Nhà
nước đã ban hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 Bộ
Luật và Luật, trên 120 Pháp lệnh, gần 850 văn bản pháp luật của Chính phủ
và trên 3.000 văn bản pháp quy của các bộ, ngành, trong đó đã “nội luật hóa”
một cách tồn diện những cơng ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
đã phê chuẩn hoặc gia nhập từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX và trong thời
kỳ này. Đây là điều mà trong giai đoạn trước hầu như chúng ta chưa làm
được.
* Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta trong quá trình đổi
mới ở Việt Nam
 So với các Hiến pháp năm 1959 và 1980, Hiến pháp năm 1992 đã thể
hiện một bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa các quyền con người,
với việc khẳng định khái niệm và sự tôn trọng các quyền con người (Điều 50)
cũng như bổ sung một loạt các quyền và tự do mới trên tất cả các lĩnh vực.
Xét trên lĩnh vực dân sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền quan
trọng được ban hành mới hoặc bổ sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu tài sản
(bao gồm cả tư liệu sản xuất); quyền tự do kinh doanh; quyền ra nước ngoài
và từ nước ngoài về nước theo luật định; quyền được thơng tin theo luật định;
quyền bình đẳng của các tơn giáo; quyền khơng bị coi là có tội và phải chịu
hình phạt khi chưa có bản án kết tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án
kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngồi ra, Hiến pháp năm 1992
cịn đề cập đến việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài và mở rộng việc bảo vệ, giúp đỡ các nhóm xã hội
dễ bị tổn thương.

9


Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị của công dân, bên
cạnh Hiến pháp năm 1992, chỉ tính trong giai đoạn 1996 -2001, Quốc hội đã

thơng qua 40 đạo luật, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thơng qua 40 Pháp lệnh
có liên quan đến vấn đề này, tiêu biểu là Bộ Luật Hình sự; Bộ Luật Tố tụng
hình sự; Bộ Luật Dân sự; Luật Hơn nhân và Gia đình; Luật Quốc tịch Việt
Nam; Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân; Pháp lệnh Xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại của người
nước ngoài tại Việt Nam. Gần đây nhất, ngày 27/5/2004, Quốc hội đã thông
qua Bộ Luật Tố tụng dân sự đầu tiên ở Việt Nam, bổ sung một công cụ pháp
lý quan trọng để bảo đảm các quyền dân sự.
Nội dung đảm bảo quyền dân sự - chính trị ở nước ta được thể hiện một
cách cụ thể: - Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của cơng dân: Bình
đẳng trong bầu cử, ứng cử, tự ứng cử; bình đẳng trong quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình và nhiều dạng quan hệ dân sự khác, đặc biệt là bình đẳng
trong hoạt động sản xuất - kinh doanh; bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa-giáo
dục, khoa học-công nghệ như quyền được học tập của công dân, quyền
nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu của
mọi công dân.
- Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, cụ thể: ngăn ngừa
những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của
con người (trong đó kể cả những bị can, bị cáo và những phạm nhân đang thi
hành án phạt tù)…
- Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác: Quyền tự do ngơn luận,
quyền tự do lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo…
* Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân
dân trong giai đoạn mới, từ năm 1986 đến nay, bên cạnh Hiến pháp năm
10


1992, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong đó có

thể kể như Bộ Luật Dân sự (1995), Bộ Luật Lao động (1994), Luật Giáo dục
(1998), Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (1991), Luật Phổ cập giáo
dục tiểu học (1991), Pháp lệnh về người tàn tật (1998)…
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được cụ thể trong các
quyền tiêu biểu nhất:
- Bảo đảm quyền làm việc: ở nước ta, quyền làm việc được ghi nhận
trong các bản Hiến pháp và được Hiến pháp năm 1992 quy định: “Lao động là
quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày
càng nhiều việc làm cho người lao động” (Điều 55).
Bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý, từ khi đổi mới đến nay,
Nhà nước đã xây dựng và thực hiện hàng loạt chính sách, chương trình kinh
tế – xã hội nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền làm việc, tập trung vào việc
mở mang, phát triển các ngành nghề tại các địa phương, hỗ trợ các doanh
nghiệp, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nghề và xuất khẩu lao động…
- Bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục: Ngay từ khi mới giành
được độc lập, Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến quyền được tiếp cận với
giáo dục của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH do Đảng đề ra năm 1991 xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Quan điểm này được thể chế hóa trong Điều 35 Hiến pháp năm 1992: “Giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Đây là cơ sở tư tưởng cho việc hiện
thực hóa quyền được tiếp cận với giáo dục của nhân dân trong thời kỳ mới.
Bên cạnh quy định kể trên, Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ, học tập là
quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 59), đồng thời xác định nghĩa vụ của
Nhà nước trong việc bảo đảm quyền này (Điều 36). Trên cơ sở đó, một loạt
các văn bản pháp luật khác được ban hành nhằm cụ thể hóa việc bảo đảm
quyền được tiếp cận với giáo dục, trong đó quan trọng nhất là Luật Giáo dục
(năm 1998).
11



- Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế: Từ khi đổi mới đến nay, cũng
giống như các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, có sự chuyển đổi về hướng tiếp
cận việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế từ chế độ bao cấp hoàn toàn của
Nhà nước sang hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đa dạng hóa các
loại hình dịch vụ y tế, thực hiện chế độ bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi
người dân được chăm sóc sức khỏe. Sự chuyển đổi này khơng có nghĩa là
Nhà nước giảm bớt sự quan tâm đến việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế
của nhân dân, mà ngược lại, Nhà nước vẫn thừa nhận và nỗ lực bảo đảm
quyền này, nhưng theo một cách thức phù hợp và hiệu quả hơn.
- Quyền được bảo đảm xã hội: Từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ
trương đổi mới chính sách bảo đảm xã hội theo hướng mọi người lao động và
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH,
tách quỹ BHXH với cơng nhân, viên chức nhà nước và những người làm công
ăn lương ra khỏi ngân sách theo hướng xã hội hóa cơng tác bảo hiểm y tế.
Điều 56 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quy định thời gian lao động,
chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm y tế đối với viên chức
nhà nước và những người làm cơng ăn lương, khuyến khích phát triển các
hình thức BHXH khác đối với người lao động”. Ban hành Luật bảo hiểm y tế
(2006), hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 đối với bảo hiểm y tế bắt buộc, từ
ngày 1/1/2008 đối với bảo hiểm y tế tự nguyện và từ ngày 1/1/2009 đối với
bảo hiểm thất nghiệp.
Nhờ đổi mới hướng tiếp cận trong chính sách, pháp luật về cơng tác
BHXH, việc thực hiện quyền được BHXH ở nước ta từ khi đổi mới đã đạt
được những thành tựu rất đáng khích lệ: Số lượng đối tượng tham gia và được
hưởng BHXH ngày càng được mở rộng, quyền được BHXH có sự phát triển
về chất; mức trợ cấp bình quân cho các đối tượng BHXH nói chung và mức
tiền lương hưu bình qn nói riêng liên tục tăng. Thành cơng nổi bật nhất
trong việc thực hiện quyền được bảo đảm xã hội ở nước ta từ khi đổi mới đến
12



nay là việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo-một chủ trường và
quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Xuất
phát từ quan điểm: Vấn đề nghèo khó khơng được giải quyết thì khơng có một
mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế, cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng
kinh tế, cải thiện đời sống, hịa bình, ổn định, bảo đảm các quyền con người
được thực hiện, Nhà nước ta đã coi Chương trình xóa đói giảm nghèo là một
trong bảy chương trình mục tiêu quốc gia và đã có những ưu tiên đặc biệt về
nguồn nhân lực, vật lực cho chương trình này.

13


KẾT LUẬN
Có thể nói, vấn đề quyền con người ln được Đảng và Nhà nước đề
cao, nhận thức tích cực và áp dụng phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Nhờ đó, từ một dân tộc bị tước đoạt cả những quyền tự do cơ bản nhất,
người dân Việt Nam đã được thụ hưởng ngày một đầy đủ và tồn diện hơn
các quyền của mình. Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước
hết xuất phát từ mục tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những
nội dung và đặc trưng rất cơ bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã
họi chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng; đồng thời, trước xu thế dân chủ
hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con
người và các quyền tự do cơ bản của cá nhân công dân phải được tơn trọng và
tăng cường hơn nữa.Địi hỏi mỗi cán bộ công chức cần phải học tập, nâng cao
hơn nữ trình độ chun mơ và kiến thức mọi mặt để tham mưu, đề xuất và
thực thi nhiệm vụ nhằm phát huy hiệu quả nhà nước XHCN “ của dân,do dân
và vì dân”
Sứ mệnh của pháp luật là sinh ra để bảo vệ những lợi ích thiết thực và tối
thiểu nhất của con người. Và khi càng nhiều người dân ý thức được bản thân

họ có những quyền bất khả xâm phạm, thì địi hỏi về nhân quyền sẽ càng lớn.
Trong thế giới này, ý tưởng nhân quyền có sức mạnh đạo lí và khả năng huy
động khó có thể kháng cự được. Bởi vậy, mỗi công dân chúng ta hãy mạnh
dạn nói ra tiếng nói của riêng để tự bảo vệ quyền lợi của chính mình trong xã
hội. Pháp luật đang hiện hình dưới một thanh gươm sắc để bảo vệ nhân
quyền, và hi vọng Việt Nam sẽ lên tiếng mạnh mẽ hơn trong vấn đề này để
khẳng định mình với tồn thế giới.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lí luận nhà nước và pháp
luật, Nxb. CAND, Hà Nội 2013
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa
đổi bổ sung năm 2001, Nxb Lao động
3. />4. />co_id=30257&cn_id=619939#.

15



×