Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Văn học trung đại Sự giao thoa cảm hứng nhân đạo thế sự trong “Điệp tử thư trung” (Nguyễn Du) – “Xuân dạ liên nga” (Nguyễn Khuyến) và đặc điểm loại hình của hai tác giả.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.37 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA NGỮ VĂN

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC:
Khuynh hướng văn học và loại hình tác giả Văn học Trung đại Việt Nam

TÊN CHỦ ĐỀ
Sự giao thoa cảm hứng nhân đạo - thế sự trong “Điệp tử thư trung” (Nguyễn Du) –
“Xuân dạ liên nga” (Nguyễn Khuyến) và đặc điểm loại hình của hai tác giả.

Hà Nội, tháng 12 năm 2021

1


Báo cáo độc sáng

Mục lục
2


BÀI TẬP LỚN:..............................................................................................................1
Khuynh hướng văn học và loại hình tác giả Văn học Trung đại Việt Nam...................1
1. Mở đầu.....................................................................................................................4
1.1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................4
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của chủ đề..........................................................................4
1.3. Đối tượng nghiên cứu của chủ đề......................................................................5
2. Giải quyết vấn đề.....................................................................................................5
2.1. Sự giao thoa, gặp gỡ của cảm hứng nhân đạo – thế sự trong văn học trung đại
Việt Nam.....................................................................................................................5


2.2. Sự giao thoa cảm hứng nhân đạo – thế sự trong “Điệp tử thư trung” (Nguyễn
Du) và “Xuân dạ liên nga” (Nguyễn Khuyến)............................................................7
2.3. Đặc điểm loại hình tác giả Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến...........................12
3. Kết luận..................................................................................................................14
4. Tiền đề hình thành cảm hứng yêu nước trong văn học trung đại Việt Nam..........14
5. Tài liệu tham khảo.................................................................................................16

1. Mở đầu
1.1.

Lý do chọn đề tài
3


Cùng với sự phát triển tồn diện về chính trị, xã hội, kinh tế, tơn giáo hay các loại
hình nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc… thì thế kỷ X còn là cột mốc khởi đầu cho nền
văn học Trung đại Việt Nam. Văn học Trung đại Việt Nam được chia thành bốn giai
đoạn chính, đặt trong tương quan bối cảnh văn hóa – xã hội phong kiến, chịu ảnh hưởng
sâu sắc của ý thức hệ phong kiến, gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc,
mang đậm dấu ấn bản sắc văn hóa Việt Nam. Về nội dung, văn học thời kỳ này mang
những đặc điểm nổi bật về các khuynh hướng, cảm hứng sáng tác, chúng ln tồn tại
trong từng tác phẩm và có sự móc nối, giao thoa nhau, thể hiện cái nhìn của tác giả trước
những vấn đề con người – xã hội – đất nước. Đặc biệt, giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến nửa
đầu thế kỷ XIX đã chứng kiến sự bùng nổ của văn học mang nội dung giao thoa giữa
cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự, thể hiện cái nhìn của tác giả trước chuyện đời,
chuyện người, những vấn đề xã hội nổi cộm lúc bấy giờ, đồng thời nói lên tấm lịng u
thương, cảm thơng, trân trọng của họ trước mảnh đời bất hạnh, chịu cảnh bất công, bi
thảm dưới xã hội phong kiến đang lúc suy tàn. Những tên tuổi nổi bật thời kỳ này phải kể
đến Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Quát,
Nguyễn Công Trứ…

Với “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lịng nghĩ suốt nghìn đời”, Nguyễn Du đã để
lại cho hậu thể những áng thơ văn bất hủ, thể hiện cái nhìn của ơng về cuộc đời, con
người, nhân tình thế thái đặt trong hồn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Với tấm lòng yêu nước,
thương dân thầm kín mà sâu nặng, vị “Tam nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến đã gửi
gắm nỗi lịng của mình vào thơ ca, thể hiện “tiếng nói trữ tình, tiếng nói của bậc đại khoa
bình dân, bậc đại quan nhập cuộc đời thường”, trở thành “nhà thơ của quê hương làng
cảnh Việt Nam”. Cả hai không cùng thời, nhưng đều sinh ra vào lúc thế nước đang loạn,
nên các tác phẩm của hai ông đều gặp gỡ nhau tư tưởng, quan niệm sáng tác. Ta bắt gặp
trong những sáng tác của Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến sự giao thoa giữa hai cảm
hứng: nhân đạo và thế sự. Hai con người, hai hướng đi, hai số phận, đều chịu cảnh nhiễu
nhương của thời đại, đều để lại cho đời những áng thơ ca tuyệt thế, vẹn nguyên giá trị
nghệ thuật – tư tưởng đến tận mai sau.
1.2.

Mục tiêu, nhiệm vụ của chủ đề

Ở bài tiểu luận này, bằng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, người viết
sẽ làm rõ sự giao thoa giữa hai cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự - vốn là nguồn thi
hứng quen thuộc, xuyên suốt các tác phẩm của Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến, thông
4


qua sáng tác của hai ông. Bên cạnh những tác phẩm viết bằng chữ Nôm đã quá quen
thuộc và gần gũi với bạn đọc, Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến còn để lại cho hậu thế sau
này kho thi liệu các tác phẩm chữ Hán. Với thi pháp trung đại, việc sử dụng hình ảnh
tượng trưng để thể hiện tâm tư, tình cảm, nỗi lịng của người viết dường như đã quá quen
thuộc trong các tác phẩm thơ ca. Thông qua hai tác phẩm “Điệp tử thư trung” (Nguyễn
Du) và “Xuân dạ liên nga” (Nguyễn Khuyến), người viết sẽ làm rõ sự gặp gỡ, giao thoa
giữa cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự nơi ngòi bút của hai tác giả, từ đó có thêm
những chiêm nghiệm, hiểu biết về đặc điểm loại hình của hai ơng.

1.3.

Đối tượng nghiên cứu của chủ đề

Đối tượng nghiên cứu mà bài tiểu luận muốn hướng đến là những nét tương đồng,
gặp gỡ, giao thoa nhau giữa cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự trong nội dung, tư
tưởng của hai tác giả Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, thể hiện cụ thể trong hai bài thơ chữ
Hán “Điệp tử thư trung” và “Xuân dạ liên nga”. So với những tác phẩm chữ Nôm đã
quá quen thuộc, hai tác phẩm chữ Hán này dường như có phần xa lạ với người đọc, tuy
nhiên nó vẫn chứa đựng rất nhiều giá trị từ nội dung, nghệ thuật đến quan niệm, tư tưởng.
Từ đây, bài viết sẽ có những móc nối, liên hệ tới đặc điểm loại hình của hai tác giả tiêu
biểu cho nền văn học Trung đại nước nhà.
2. Giải quyết vấn đề
2.1.

Sự giao thoa, gặp gỡ của cảm hứng nhân đạo – thế sự trong văn học
trung đại Việt Nam

Văn học trung đại Việt Nam ra đời, mở đầu cho thời kì văn học viết, kế thừa và phát
huy những giá trị nhân văn của kho tàng văn học dân gian mà cha ông để lại. Chủ nghĩa
nhân đạo trong văn học trung đại xuất phát từ những giá trị vốn có từ tư tưởng, lối sống
của con người Việt Nam, đó là truyền thống “thương người như thể thương thân”, “lá
lành đùm lá rách” đã đi vào tiềm thức của người con đất Việt. Nhân đạo, đơn giản là
lòng thương người, trân trọng giá trị của con người. Với những biểu hiện vô cùng phong
phú, đa dạng, cảm hứng nhân đạo dần ăn sâu vào lối viết của các nhà Nho, tác giả trung
đại; qua đó, họ thể hiện sự cảm thơng, trân trọng giá trị, vẻ đẹp của con người, đề ca khát
vọng chính nghĩa và lên án những thế lực tối tăm đã chà đạp lên số phận con người.
Khác với nhân đạo, cảm hứng thế sự trong văn học đề cập đến các vấn đề trong xã
hội “có tính chất đời thường, thế tục và thể hiện quan niệm, thái độ, cách phân tích, đánh
5



giá, phê bình, lý giải của tác giả” về những vấn đề ấy. Nói đến thế sự là nói đến những sự
việc xảy ra xung quanh, có ảnh hưởng và tác động đến đời sống của con người, để từ đó
ta phải nhìn nhận và suy ngẫm. Cuộc sống mn màu mn vẻ ngồi kia ln là nguồn
cảm hứng bất tận cho văn chương. Cảm hứng thế sự chính là yếu tố quan trọng giúp tác
giả “khẳng định giá trị thẩm mỹ của cái đời thường, đi sâu khám phá những biến đổi
phức tạp, éo le của cuộc sống muôn màu, mn sắc nhằm tìm kiếm hạnh phúc và khẳng
định nhân cách, bản thân con người”.
Trong cuộc đời cầm bút của mình, các tác giả khơng bao giờ đóng khung bản thân
trong một cảm hứng sáng tác nhất định. Bởi vốn dĩ, các cảm hứng sáng tác ln có sự
gặp gỡ, giao thoa nhau, bệ đỡ cho nhau và cùng nhau gây dựng lên ý nghĩa cho tác phẩm.
Một cách cụ thể, ta có thể bắt gặp sự giao thoa giữa cảm hứng thế sự và cảm hứng nhân
đạo khi đặt điểm nhìn nơi các tác giả văn học trung đại. Họ lấy chất liệu từ đời sống dân
gian, cuộc sống thường nhật của nhân dân hay những chuyện chốn kinh thành xa xôi, nơi
cung cấm của vua chúa, quan lại…từ đó thể hiện quan điểm, thái độ của mình về sự việc
ấy. Thế sự có thể bàn đến những bất cập trong đời sống, những câu chuyện nơi góc khuất
mà lịch sử khó có thể đào sâu. Từ những câu chuyện rất đời ấy, dưới cái nhìn tinh tế và
sự nhạy bén của mình, các tác giả văn học trung đại có thể bóc tách và lột trần lớp vỏ bọc
bên ngoài để thấy được những vấn đề thực sự đằng sau nó, đồng thời nói lên tiếng nói
của bản thân, cũng có khi là nói thay cho nhân vật. Ta bắt gặp thái độ lên án, châm biếm
sâu cay trước những chuyện đời “chướng tai gai mắt”; sự cảm thơng, xót xa trước số
phận bất hạnh của con người; cái nhìn trân trọng, ngưỡng mộ nhân cách cao đẹp, một con
người tài hoa; hay những chiêm nghiệm, phân tích, lý giải về vấn đề xoay quanh cuộc
sống. Đó chính là cách một tác giả thể hiện tấm lịng nhân đạo của bản thân trước một
thế sự họ trải qua hoặc chứng kiến, hay chỉ đơn giản là họ chiêm nghiệm được thông qua
các triết lý sống trong sách vở. Đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” trong “Vũ
trung tùy bút” của tác giả Phạm Đình Hổ chính là minh chứng rõ nét cho sự giao thoa
giữa cảm hứng nhân đạo và thế sự. Thông qua việc phản ánh đời sống xa hoa, hưởng lạc
của vua chúa, sự nhiễu nhương, chuyên quyền, lộng hành của quan lại thời vua Lê – chúa

Trịnh, Phạm Đình Hổ đã thể hiện một góc nhìn vơ cùng chân thực về thực trạng đen tối,
thối nát của xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ. Qua đó, ơng thầm kín bày tỏ nỗi
xót thương, cảm thơng trước cuộc sống lầm than của người dân và sự bất lực của kẻ trí
thức lúc vận nước đang suy yếu dần. Giữa cảm hứng nhân đạo và thế sự luôn tồn tại một
6


sợi dây vơ hình móc nối nhau, đan xen nhau và gắn liền với nhau. Từ những câu chuyện
về thế sự, tác giả thể hiện cái nhìn nhân đạo của mình một cách cơng khai hoặc thầm kín.
2.2.

Sự giao thoa cảm hứng nhân đạo – thế sự trong “Điệp tử thư trung”
(Nguyễn Du) và “Xuân dạ liên nga” (Nguyễn Khuyến)

Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến là hai cái tên vô cùng nổi bật của văn học Việt
Nam thời kỳ trung đại. Tên tuổi Nguyễn Du gắn liền với các tác phẩm mang đậm cảm
hứng nhân đạo, bày tỏ nỗi xót xa, cảm thông, trân trọng những kiếp người tài hoa, bạc
mệnh, thể hiện cái nhìn mới lạ của ơng về cái đẹp, về sự hoàn mỹ của con người trong xã
hội phong kiến, đặc biệt là người phụ nữ. Các sáng tác của Nguyễn Du bao gồm cả chữ
Nôm và chữ Hán, có thể kể đến như “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), “Văn tế
thập loại chúng sinh” (Văn chiêu hồn), “Thanh Hiên thi tập”… Đối với Nguyễn Khuyến
, vị “Tam nguyên Yên Đổ” nổi danh khắp vùng, được mệnh danh là “nhà thơ của làng
cảnh Việt Nam” với các tác phẩm mang đậm cảm hứng thế sự, xuất phát từ những câu
chuyện rất đời, rất thực, thể hiện một tâm hồn rộng mở, khoáng đạt, giàu cảm xúc, suy tư
trước cuộc sống nông thôn, trước quang cảnh thiên nhiên núi rừng và con người nơi thôn
quê dân dã. Giống với Nguyễn Du, thơ ông vô cùng đa dạng, viết bằng cả chữ Nơm và
chữ Hán, ví dụ như chùm thơ thu nổi tiếng: “Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm”, các tập thơ
“Quế sơn thi tập”, “Yên Đổ thi tập”…
Có thể nói, các tác phẩm của Nguyễn Du thiên về cảm hứng nhân đạo, cịn trong
thơ ca Nguyễn Khuyến ln ẩn chứa câu chuyện, mang đặc trưng của cảm hứng thế sự.

Tuy nhiên, như đã nói ở trên, trong một tác phẩm văn học luôn chứa những yếu tố đan
xen giữa các khuynh hướng cảm hứng nhằm bộc lộ cá tính sáng tạo cũng như nội dung tư
tưởng, tình cảm mà tác giả muốn truyền đạt. Sự xuất hiện đan xen giữa nhân đạo và thế
sự luôn hiện hữu trong các tác phẩm của Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến. Điều đó được
thể hiện rõ nét trong hai tác phẩm chữ Hán “Điệp tử thư trung” (Nguyễn Du) và “Xuân
dạ liên nga” (Nguyễn Khuyến).
“Điệp tử thư trung

“Xuân dạ liên nga

Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương,

Tiện nhĩ tiêm tiêm nhất vũ hàn,

Tạ khước phong lưu vị thị cuồng.

Đầu minh nhi tử tử nhi an.

Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch,

Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị,
7


Tàn hồn vô lệ khốc văn chương.

Đáo đắc thuân tuần biện diệc nan.

Đố ngư dị tỉnh phồn hoa mộng,


Tố phú tri năng do vị dẫn.

Huỳnh hoả nan hôi cẩm tú trường.

Đương tiền danh lợi bất tương quan.

Văn đạo dã ưng cam nhất tử,

Cô đăng sát nhĩ do liên nhĩ.

Dâm thư do thắng vị hoa mang”

Đáo đắc thành hôi lệ vị can.”

Bài thơ “Điệp tử thư trung” (Con bướm chết trong sách) được trích trong “Thanh
Hiên thi tập” – một trong ba tập thơ chữ Hán nổi tiếng của Đại thi hào Nguyễn Du, nằm
sát cuối phần “Làm quan ở Bắc Hà” viết khoảng năm 1802 – 1804. Bài thơ được viết khi
Nguyễn Du chưa tới tuổi “tam thập nhi lập”, được đánh giá là một tác phẩm “vừa lạ lùng
vừa tuyệt diệu”, mang theo những tâm tư, chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời, con
người, về cõi nhân sinh.
Tương truyền, bài thơ “Xuân dạ liên nga” (Đêm xuân thương con thiêu thân) của
Nguyễn Khuyến có hồn cảnh ra đời rất đặc biệt: có người cho rằng tác giả sáng tác bài
thơ này khi nghe tin cụ Nghè Dao Cù bị giặc Pháp giết hại. Đúng lúc đó, trên án thư có
một con thiêu thân lao đầu vào đọi dầu mà chết, Nguyễn Khuyến liền mượn hình ảnh con
thiêu thân để ngụ ý. Cụ Nghè Dao Cù tên thật là Vũ Hữu Lợi, quê ở làng Dao Cù, Nam
Trực, Nam Định, là chủ mưu cuộc đánh chiếm, hòng đòi lại tỉnh Nam Định đã rơi vào
tay giặc Pháp; thế sự không thành, cụ bị giặc Pháp bắt và xử chém.
Hai tác giả, hai cá tính sáng tác, hai tác phẩm khác nhau. Điểm chung ở đây là cả
hai cùng hướng điểm nhìn tới một đối tượng: con bướm hay con thiêu thân; từ hình ảnh
mang đầy tính trừu tượng ấy, họ thể hiện cảm xúc, tâm sự thầm kín trong lòng và bày tỏ

thái độ, những chiêm nghiệm về cuộc đời, kiếp người, cõi nhân sinh. Một bên kể câu
chuyện về con bướm chết trong sách, thi nhân tình cờ nhìn thấy, từ đó ngẫm về mình,
“mượn thơ để kí thác tâm tư, gửi tiếng lịng vào mn thuở”. Một bên dùng tiếng thơ để
thương khóc cho số phận con thiêu thân chịu kiếp chết thiêu trong lửa đèn như một cách
kín đáo bày tỏ nỗi xót thương cho sự ra đi của người bạn mình, cũng là tỏ nỗi lòng bản
thân khi quyết định rời xa thế sự nhiễu nhương, lui về cuộc sống ẩn dật để bào toàn danh
tiết của một nhà Nho chân chính.
Cả hai bài thơ chữ Hán đều viết theo thể thơ thất ngôn bát cú với bốn phần đặc
trưng: Đề – Thực – Luận – Kết. Với nhan đề “Điệp tử thư trung”, người đọc sẽ tưởng
tượng Nguyễn Du kể một câu chuyện về “con bướm chết trong sách”, từ đó bày tỏ triết lý
8


sống và thái độ, tư tưởng của bản thân. Đối với “Xuân dạ liên nga” của Nguyễn Khuyến,
ngay từ nhan đề, tác giả đã thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình một cách trực tiếp: xót
thương, cảm thơng trước cái chết của con thiêu thân: dám lao đầu vào ngọn lửa chết một
cách “quang minh chính đại”, khơng hổ thẹn với lòng.
Xuyên suốt “Điệp tử thư trung” là yếu tố thế sự và nhân đạo đan xen nhau. Từ
những câu chuyện thế sự mà tác giả thể hiện tấm lịng nhân đạo của mình. Ở hai câu đề,
nhìn con bướm chết khô nằm trên trang sách cũ trong thư phòng, Nguyễn Du chợt ngộ ra
triết lý sống, ngẫm về đời, nghĩ về mình.
“Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương – (Thư phòng nay nhiễm hương thơm của sách)
Tạ khước phong lưu vị thị cuồng – (Từ bỏ vị phong lưu không thể cho là dại)”
Hai câu đề nhuốm màu thế sự, thể hiện suy tư, triết lý về “nhân tình thế thái” của
Nguyễn Du trong mối quan hệ giữa vật chất, danh vọng và những giá trị đích thực nơi
cuộc sống. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh thư phòng “nhiễm thư hương” – nhiễm hương
thơm của sách vở. Từ bỏ đi thói phong lưu, rong chơi để được sống và tận hưởng “hương
thơm sách vở” nơi không gian ấy thì quả là điều sáng suốt, chứ lý nào là dại! Câu thơ
mượn hình ảnh “con bướm” cốt để răn dạy con người: so với tiền tài, địa vị xã hội thì
những kiến thức trong sách vở, giáo lý thánh hiền mới là thứ quý giá hơn. Đây là “xu

hướng đối lập giữa "nghĩa" (lí tưởng nhân nghĩa) với "lợi" (lợi ích vật chất, tiền tài, danh
vọng) trong quan niệm về giá trị của các nhà nho.”
Từ quan niệm, triết lý nhuốm màu thế sự, hai câu thực kế thừa, phát triển và truyền
tải cái nhìn nhân đạo đầy xót xa:
“Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch – (Mệnh bạc có dun lưu lại với sách vở)
Tàn hồn vơ lệ khốc văn chương – (Hồn tàn không nước mắt khóc văn chương)”
Tố Như bày tỏ lịng xót thương xen lẫn ngưỡng mộ: nơi con bướm chết là trên một
trang sách. “Con bướm thực may mắn khi được lưu cùng sách – cũng có nghĩa lưu cùng
những giá trị bất hủ nằm trong sách”. Câu thơ thứ hai trong phần thực mang hình ảnh
trừu tượng và độc đáo: “hồn tàn”, “khơng nước mắt” khi “khóc văn chương”? Có lẽ khi
chết đi, hồn rời khỏi nơi thể xác, chỉ còn lại cái xác khơ đang khóc cho văn chương một
cách bất lực; mà cái hồn, thứ linh khí kia mới chính là thứ cần có để “giao lưu hịa nhập”
với những tinh hoa của văn chương. Nguyễn Du mượn hình ảnh con bướm để nói về
mình, cũng là nói về người trong thiên hạ. “Cái khốc này chính là của Nguyễn Du dành
9


cho văn chương, đúng hơn là cho những khát vọng ông chưa thực hiện được cho văn
chương đến giây phút ấy”. Thương thay một kiếp phong lưu, suốt đời phiêu bạt, lênh
đênh; tới khi hiểu rằng mọi thứ phồn hoa phù phiếm trên đời chẳng thể đổi lấy một lần
thanh thản, an yên nơi Đạo thì đã muộn.
Sự giao thoa giữa cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự cũng được thể hiện ở
“Xuân dạ liên nga”. Lấy hình ảnh con thiêu thân như một hình ảnh thực tế thay thế cho
điển tích, điển cố cho Trung Quốc, giúp cho bài thơ dễ hiểu và gần gũi hơn rất nhiều.
Con thiêu thân vốn có đặc tính bị thu hút bởi ánh sáng và thường lao đầu vào ánh sáng
ấy. Nguyễn Khuyến mượn hình ảnh con thiêu thân để ca ngợi về chí khí của bậc quân tử,
dám hi sinh thân mình, từ bỏ tất cả để bảo tồn khí tiết, giữ tâm trong sạch. Nguyễn
Khuyến sinh sống trong thời loạn, nước nhà trong cảnh lầm than, nên không thiếu những
câu chuyện các nhà Nho, tướng sĩ lãnh đạo cầm quân, đánh đuổi giặc, dẫu kết cục có
phải “đầu rơi máu chảy”, họ vẫn cam lòng. Đến cách chết của người trí sĩ cũng là điều

đáng nói đến:
“Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị – Nếu là thảng thốt mà xơng vào chỗ chết thì cịn dễ
Đáo đắc thn tuần biện diệc nan – Nhưng dùng dằng mà quyết chết được, thực khó”
Nếu thảng thốt lao đầu vào chỗ chết, khơng có chút dằn vặt, day dứt nào thì chưa
phải cái chết được người đời ca tụng, cũng không phải khí tiết một nhà Nho nên có. Bởi
thế Nguyễn Khuyến mới cho đó là cái chết dễ dàng, sẵn sàng bỏ lại tất cả để giải thoát
bản thân khỏi guồng xích, gơng kìm. Cịn khi vẫn dùng dằng giữa sống và chết, giữa hi
sinh và bảo toàn mạng sống, nhưng suy tính thiệt hơn, việc bản thân chết sẽ giúp được
cho nhiều người sống, thì đó là cái chết đáng “lưu danh thiên cổ”. Thái độ “dùng dằng”
trước đó cho thấy sự không nỡ xa rời nhân thế, bản thân còn nhiều tâm nguyện ấp ủ,
mong muốn cống hiến nhiều hơn, hay đơn giản là chỉ mong được nhìn thấy người thân
yêu lần cuối. Thế nhưng cuối cùng, họ vẫn quyết chết, hi vọng sự hi sinh của bản thân
cứu được nhiều người phía sau. Bởi thế, cái chết thực là khó. Câu thơ nhuốm màu tang
thương, chết chóc; phải chăng chính tác giả đang day dứt, dằn vặt, xót xa, đau đớn cho
cái chết ấy của người tử sĩ, của người bạn mình? Thơng qua hình ảnh đau xót ấy, nhà thơ
muốn phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ, từ đó thể hiện thái độ lên án chế độ phong
kiến, căm giận giặc Pháp, xót thương cho người những người trí sĩ yêu nước hi sinh nơi
chiến trường và người dân sống trong leo lắt, đói khổ. Đó là sự giao thoa giữa thế sự và
nhân đạo nơi hồn thơ Nguyễn Khuyến.
10


Đắm say trong giấc mộng phồn hoa, một ngày kia con mọt gặm gỗ may mắn gặm
được sách, bừng tỉnh khỏi mộng: “Con mọt sách dễ tỉnh giấc mộng phồn hoa”, nhận ra
cái phồn hoa của danh lợi rồi cũng sẽ qua nhanh như cái chớp mắt, vốn dĩ chỉ là thứ phù
phiếm, hào nhống, tạo ra những “ơng phỗng đá”, những kẻ bù nhìn, giẫm đạp lên nhau
để tranh lấy quyền cao, chức trọng. Có lẽ, Tố Như giống con mọt sách kia, khi nhận ra
giá trị đích thực của cuộc đời vốn nằm nơi đạo lý thánh hiền, nơi sách vở, ông lắc đầu
ngao ngán trước thế sự nhiễu nhương. Đồng thời, Tố Như cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ,
trân trọng trước những “tấm lịng gấm vóc” khơng dễ gì bị đốt bởi “lửa đom đóm” – thứ

biểu trưng cho sự phù phiếm của danh lợi, hay những ước vọng nhỏ bé, tầm thường của
kẻ tiểu nhân ham mê vật chất. Hay chăng, Tố Như đang tự răn chính bản thân mình, dù
trong cảnh ngộ thế nào, cũng phải giữ được “tấm lịng gấm vóc (cẩm tú trường)” thanh
sạch, trinh ngun, khơng bị “lửa đom đóm” đốt cháy, làm vướng bận. Mượn hình ảnh
con mọt sách để chỉ con người có cốt cách, được đọc sách thánh hiền. Nhưng mấy ai
được may mắn như con mọt sách, còn những ai bị cuốn vào thế sự nhiễu nhương, vào
vòng xoáy danh lợi? Hai câu thơ cuối trong “Điệp tử thư trung” đã thể hiện quan điểm,
triết lý sống của tác giả Nguyễn Du:
“Văn đạo dã ưng cam nhất tử, – Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam,
Dâm thư do thắng vị hoa mang. – Ham mê sách còn hơn mải miết vì hoa.”
Ở đây, Nguyễn Du mượn hai chữ “Văn đạo” trong sách Luận ngữ của Đức Khổng
Tử: “Triêu văn đạo, tịch khả tử” (sáng được nghe đạo, tối có chết cũng hả). Mượn hình
ảnh “con bướm chết trong sách”, tác giả trầm ngâm một triết lý sống: khi chết vẫn được
nằm lại nơi trang sách, hưởng cái Đẹp trong Sách, đó là cái chết ý nghĩa, có chết cũng
cam lịng; thay vì cứ chạy theo danh lợi “mải miết vì hoa”, thì việc ham mê sách há
chẳng phải tốt hơn sao? Có lẽ, đối với Tố Như, ông đã coi con bướm ấy là mình, tuy yểu
mệnh nhưng được lưu lại nơi thư phòng ngát hương thơm của sách, thấm đượm những
giá trị bất hủ cho đời, cho người. Ơng thương con bướm, tức đang thương chính bản thân
mình. Lịng nhân đạo khơng chỉ thể hiện với con người ngồi kia, mà cịn là sự tự ý thức
về giá trị bản thân, tự hiểu và trân trọng bản thân, tự thương và hiểu rõ chính mình.
Giống như cái cách Nguyễn Du từng tâm sự trong “Độc Tiểu Thanh ký”: “Bất tri tam
bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Giống với Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến đời sau luôn đề cao danh tiết của một nhà
Nho chân chính, coi thường danh lợi, phù phiếm đời thường. Việc lui về ở ẩn chốn quê
11


thanh nhàn khơng có nghĩa là Nguyễn Khuyến thiếu trách nhiệm với dân, với nước. Ông
nhận thức được những vị vua tại vị về sau này chỉ là “bù nhìn”, khơng có tài cáng giúp
dân, giúp nước. Chứng kiến sự mục nát của triều đại, sự khốn khố của nhân dân trong

kiếp nô lệ, ông quyết định cáo quan, về quên dạy học, vui thú điền viên, giữ vững cho
mình hai chữ “tri năng”. Vậy nên, mượn hình ảnh con thiêu thân liều chết trong ánh lửa,
Nguyễn Khuyến bày tỏ nỗi lòng, muốn từ bỏ danh lợi để sống cuộc đời ẩn dật của nhà
Nho “sa cơ lỡ vận”, tự cho rằng bản thân không đủ tài cáng để cứu nước, cứu dân: “Trời
phú cho mày có lương tri, lương năng chưa đến nỗi mất/ Cho nên danh lợi trước mắt
cũng khơng vướng víu gì”. Từ bỏ là điều tốt, bản thân ta cịn giữ được tiếng thơm cho
mình, người đời sau nhìn ta bằng con mắt trân trọng một tài năng, một kiếp người tài hoa
nhưng phận bạc. Giống như con thiêu thân kia, dù chết đi, hóa thành tro, vẫn có người
khóc thương cho số phận nó. Ngọn đèn khơng phải thứ đã giết chết nó, chính nó đã lựa
chọn kết cục như vậy để bảo toàn danh tiết cho bản thân:
“Cô đăng sát nhĩ do liên nhĩ. – Ngọn đèn le lói tuy giết mày nhưng vẫn thương mày
Đáo đắc thành hôi lệ vị can – Cho đến lúc thành tro mà lệ vẫn chưa khô”.
Hai câu thơ cuối mang đậm màu sắc nhân đạo, ẩn sâu trong đó là đơi lời tâm sự của nhà
thơ trước thế sự nhiễu nhương. Nguyễn Khuyến thấu hiểu, thấu cảm cho nỗi đau và sự
dằng xé nơi nội tâm của con thiêu thân ấy. Mượn hình ảnh con thiêu thân để nói về mình,
để tỏ bày cho người đời về sự bất lực của bản thân trước thời cuộc. Không phải trở về
quê ở ẩn là được sống an nhàn, bởi nội tâm nhà thơ luôn giằng xé hai chữ “trung hiếu”.
Có lẽ, khơng ít lần Nguyễn Khuyến muốn góp sức để cáng đáng thế sự nước nhà, nhưng
sức cùng lực kiệt, tuổi già dạm ngõ. Khóc cho số phận con thiêu thân, cũng là khóc vì sự
bất lực của bản thân khi khơng thể giúp được gì cho dân, cho nước. Trải dài cả bài thơ, là
những nỗi đau, mối lo vơ hình khơng dứt. Nỗi lo đời, thương xót cho số phận của nhân
dân, ngán ngẩm trước sự suy tàn của triều đại, và bất lực trước hoàn cảnh của bản thân.
Tất cả kết hợp lại tạo nên một hồn thơ Nguyễn Khuyến mang đặc trưng của cảm hứng
thế sự, nhưng lời thơ, ý thơ vẫn đan xen màu sắc nhân đạo.
2.3.

Đặc điểm loại hình tác giả Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến

Thông qua bút pháp nghệ thuật, nội dung – tư tưởng trong các tác phẩm văn học
trung đại, chúng ta có thể xác định được đặc điểm loại hình của tác giả ấy. Trước tiên,

chúng ta sẽ tìm hiểu đơi nét về khái niệm: “Loại hình tác giả là một tập hợp chủ thể sáng
tác mang những đặc trưng riêng biệt có thể khu biệt với các nhóm chủ thể sáng tác khác.
12


Việc phân loại “kiểu tác giả” chỉ tương đối vì thực tế sáng tác có độ giao thoa giữa các
kiểu tác giả. Quan niệm về các loại hình tác giả nhà nho (hành đạo, ẩn dật, tài tử) cũng
tương đối”. Loại hình tác giả văn học trung đại được phân loại theo nhiều phương diện:
theo giới tính (tác giả nam, tác giả nữ, tác giả “thác nữ”), theo địa vị xã hội (vua chúa,
q tộc, quan lại, trí thức, bình dân…) và theo lý tưởng triết – mỹ (nhà Nho, nhà sư, đạo
sĩ…)
Từ việc tìm hiểu những nét giao thoa giữa cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự
trong hai tác phẩm thơ chữ Hán của Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến, ta thấy được cái
chất nhà Nho tồn tại và hiển hiện trong từng câu chữ. Tuy nhiên, trong Nguyễn Du tồn
tại con người tài tử, thơ ông luôn đề cao cái tài (tài hoa), tình (ái tình), tính (tính dục), du
(thú phong lưu), mỹ (mỹ cảnh, mỹ nhân). Nguyễn Du từng có những mỹ từ miêu tả vẻ
đẹp của Thúy Kiều, Thúy Vân mang đậm chất một nhà Nho tài tử:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Trong “Điệp tử thư trung”, Nguyễn Du chọn cho mình hình ảnh “con bướm chết
trong sách” – trừu tượng nhưng không kém phần lãng mạn làm điểm tựa, để tỏ bày tâm
sự, nỗi lòng, thể hiện tư tưởng và triết lý nhân sinh sâu sắc. Khác với nhiều nhà Nho
đương thời, Nguyễn Du khơng ngại “khóc” trong thơ, có thể là tiếng khóc của nhân vật,
cũng có thể là tiếng khóc của chính tác giả: “Hồn tàn khơng nước mắt khóc văn
chương”. Vốn dĩ, nhà Nho tài tử luôn bộc lộ xúc cảm nhiều hơn là một nhà Nho quân tử,
họ không ngại thể hiện cảm xúc trong thơ văn, họ cũng không ngại phá vỡ quy chuẩn của
một nhà Nho quân tử để làm mới bản thân thông qua những tác phẩm mang nặng cảm
xúc hơn là lí trí, đề cao giá trị của con người hơn là các chuẩn mực của Nho giáo. Bên
cạnh Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Cao Bá Qt… thì Nguyễn Du
chính là một tên tuổi nổi danh cho những vần thơ của một con người tài tử, yêu cái đẹp,

trân trọng cái tình, cái tài.
Với Nguyễn Khuyến, ta nhìn thấy hình ảnh một nhà Nho mẫu mực, vì bất lực trước
thời cuộc mà chọn “treo ấn từ quan”, bng bỏ vịng danh lợi, về q dạy học và vui
hưởng thú nhàn. Vậy nên, cái tên “nhà Nho ẩn dật” rất thích hợp với con người ơng.
Trong “Xn dạ liên nga”, Nguyễn Khuyến thể hiện rõ tâm thế của một kẻ sĩ lui về cuộc
sống thôn quê, dung dị, tỏ rõ nỗi lòng mong muốn giữ cái cốt cách thanh cao, giữ cái
13


“lương tri, lương năng” mà trời phú cho. Từ việc khóc thương con thiêu thân mà gửi gắm
nơi người đọc viết bao xúc cảm: băn khoăn, day dứt, tiếc thương, trân trọng, ngợi ca…
Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến không sinh ra trong cùng thời điểm; Nguyễn Du
mất được mười lăm năm thì Nguyễn Khuyến mới ra đời. Tuy nhiên, giữa hai người họ
luôn tồn tại sợi dây gắn kết vô hình, đều là những tác giả nhà Nho tiêu biểu cho nền văn
học trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII – đầu thế kỉ XIX. Có ai đó từng nói:
“Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, thấy tâm trạng buồn rầu và cảm giác bế tắc khi ông
nghĩ về chuyện văn chương, tôi chợt nhớ đến Nguyễn Khuyến”. Từ chất liệu ngơn từ đến
hình ảnh thơ, tất cả đều là phương tiện tải đạo và bày tỏ tâm tư, cảm xúc cũng như cá tính
sáng tạo và đặc trưng về loại hình hai tác giả nhà Nho mà người đời ngưỡng mộ: Nguyễn
Du – Nguyễn Khuyến.
3. Kết luận
Mỗi tác phẩm văn học đều ẩn chứa nỗi niềm, tâm tư, tình cảm, mang nét đặc trưng
của những người đã sáng tạo nên nó. Với “Điệp tử thư trung” và “Xuân dạ liên nga”,
Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến đã thể hiện cái nhìn đầy tinh tế trước cuộc đời, con
người, qua đó gửi gắm tiếng nói nhân đạo qua từng câu chữ. Một con bướm cả cuộc đời
bay lượn bốn phương tìm kiếm vị phong lưu, đến cuối đời mới hiểu ra những thứ nó
kiếm tìm thực chất chỉ là phù du, tạm bợ, cái chết bên trang sách thể hiện sự giác ngộ
trước cuộc đời, trước nhân tình thế thái. Con thiêu thân sẵn sàng lao đầu vào lửa, chết đi
để bảo tồn danh tiết, “tri năng” của mình, cũng là thể hiện sự bất lực, thảm thương trước
phận đời đầy nghiệt ngã, “đến lúc thành tro mà lệ vẫn chưa khơ”. Có thể là người đời

khóc thương nó, cũng có thể nó đang khóc bản thân mình. Hai nhà thơ mượn lời con vật
để nói bản thân mình. Chất thế sự và nhân đạo cứ đan cài và giao thoa nhau, tạo cho bài
thơ một màu sắc rất thực, thực từ câu chuyện đến cảm xúc. Thương xót, cảm thơng, trân
trọng, ngưỡng mộ, đó là điều cảm hứng nhân đạo thường hướng đến nơi tác phẩm. Từ
đây, người đọc nhìn ra chất nhà Nho tồn tại trong lối viết, cảm xúc, nhận thức và tư
tưởng của hai tác giả. Một người thiên về nhà Nho tài tử, một người mang những đặc
trưng của nhà Nho ẩn dật. Bằng tài năng nghệ thuật, sức sáng tạo không ngừng nghỉ,
Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến đã ghi dấu ấn trong lòng người đọc mọi thế hệ, các tác
phẩm của ông trở thành đề tài cảm thụ, nghiên cứu và là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ
ca nước nhà.

14


4. Tiền đề hình thành cảm hứng yêu nước trong văn học trung đại Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, ghi dấu
công lao của cha ông, những người đã vun đắp và truyền lửa cho các thế hệ tương lai, để
ta thắp sáng niềm tự hào, kiêu hãnh về một dân tộc anh hùng. Mỗi khi có giặc xâm lăng,
người Việt Nam, nhân dân Việt Nam lại đồng lòng đánh đuổi giặc ngoại xâm, quyết hi
sinh tất cả chứ không chịu để một tấc đất Nam rơi vào tay chúng. Một dân tộc gan góc và
can trường, quyết chống lại sự áp bức vô lý và chiến tranh phi nghĩa của các tập đoàn
phong kiến, các nước thực dân, đế quốc để giành lấy tự do, hịa bình. Tới khi đất nước
thanh bình, khơng cịn bóng giặc xâm lăng, những con người kia lại trở về với cuộc sống
thường nhật, hịa mình với thiên nhiên cây cỏ, bên mảnh vườn, mái nhà tranh, ăn bữa
cơm đạm bạc thơm mùi khói bếp. Trong họ ln nhen nhóm một ngọn lửa của tình u
nước, thương nịi; mỗi khi giang sơn, xã tắc lâm nguy, ngọn lửa đó lại bùng cháy, kết
thành khối đại đồn kết, qt sạch mọi qn thù. Đó chính là lịng u nước, sự tự hào, tự
tơn dân tộc, ý thức về trách nhiệm của bản thân đối với xã tắc. Lịng u nước ln tồn
tại một cách tự nhiên trong tiềm thức của người con đất Việt, được bồi đắp từ những lời
ru à ơi của bà, của mẹ từ thuở ấu thơ, sự gắn bó với q hương, xóm làng, mảnh đất mình

sinh ra lớn lên… Lòng yêu nước được bồi đắp thêm, cứ lớn dần và tồn tại theo từng năm
tháng.
Văn học, với vai trò tự thân là phản ánh đời sống – xã hội, đã ghi chép lại một cách
chân thực, đa dạng và đầy đủ những biểu hiện tình cảm của nhân dân đối với đất nước,
dân tộc. Xuất phát từ lòng yêu nước, thương nòi, sự tự ý thức về dân tộc, về dòng máu
đang chảy trong con người, cảm hứng yêu nước ra đời, trở thành nguồn cảm hứng chủ
đạo xuyên suốt chiều dài lịch sử văn học Việt Nam. Trong thời kì trung đại, biết bao tác
giả đã ghi lại lịch sử hào hùng dân tộc bằng thơ ca, văn chương, thể hiện lịng u nước
sâu nặng một cách cơng khai hoặc thầm kín. Cảm hứng yêu nước được thể hiện dưới
nhiều hình thức, thể loại, đề tài, mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Từ những bài
kệ chốn tu hành, các bài văn mang chức năng: cáo, chiếu, biểu, hịch… đến các thể loại
mang đậm tính nghệ thuật: thơ ca, truyện, ngâm khúc… Thơ ca yêu nước thời trung đại
luôn đa dạng cung bậc cảm xúc: tự hào, xót thương, căm hờn, thao thức băn khoăn, bàng
hồng hổ thẹn… cùng với các giọng điệu vô cùng đa dạng: bi tráng, hào hùng, xót xa,
tâm tình, kêu gọi… Tất cả điều ấy giúp cảm hứng yêu nước trong các sáng tác của nhà
thơ trung đại được phát huy và nâng tầm. Sự vẹn nguyên giá trị cũng như những lời ngợi
khen không ngớt của hậu thế dành cho các tác phẩm văn học trung đại mang đậm cảm
15


hứng u nước chính là minh chứng cho điều đó. Dù đất nước bị xâm lăng hay khi hưởng
thái bình, lòng yêu nước vẫn là nguồn cảm hứng chủ đạo, bất tận đối với các tác giả văn
học trung đại.
5. Tài liệu tham khảo

1) Đoàn Lê Giang (2015), “Nhà nho tài tử”: Nguồn gốc, nội dung và ý nghĩa đối với
việc nghiên cứu văn học trung cận đại Việt Nam”, Khoa Văn học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn.
2) GS. TS Lã Nhâm Thìn (Chủ biên), “Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam” (t1),
NXB Giáo dục Việt Nam.

3) Tiểu Linh Bảo (2014), “Nguyễn Du và Con bướm chết trong sách”, trên trang
/>4) Hoài Việt Hoài, “Nguyễn Khuyến – Nhà thơ dân tộc”, trên trang
onhoadalat.com/HOCHOI/vanhoc/NguyenKhuyen.htm
5) Lưu Khâm Hưng (2020), Tâm sự "con bướm chết trong sách" thi hào Nguyễn Du
(“Điệp tử thư trung”), trên trang />6) Mai An Nguyễn Anh Tuấn, “Điệp Tử Thư Trung” – Bài thơ kỳ lạ nhất của Nguyễn
Du”, trên trang />
16



×