Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Qua một vài tác phẩm văn học hiện đại, hãy phân tích để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tư duy lôgic và tư duy hình tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.32 KB, 9 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Qua một vài tác phẩm văn học hiện đại, hãy phân tích để làm sáng tỏ mối
quan hệ giữa tư duy lôgic và tư duy hình tượng
Trong một tác phẩm văn học, tư duy logic và tư duy hình tượng có một vai
trò hết sức quan trọng, có thể nói chính chúng đã góp phần đưa tác phẩm trở nên có
gía trị trong cuộc sống của chúng ta nói chung và trong văn học nghệ thuật nói
riêng; thậm chí còn có tác dụng rất lớn trong nhiều lĩnh vực khác như: Khoa học
chính trị, ngoại giao, thương mại, v.v...
Chúng ta hẳn còn nhớ những lời lẽ bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập của
Hồ Chủ tịch đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2.9.1945, tư duy logic và tư duy
hình tượng trong bản Tuyên ngôn của Bác lại dựa trên luận đề trong Tuyên ngôn
độc lập của nước Mỹ (1776) và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách
mạng Pháp (1791): Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng... Và ngay sau
khi dẫn trích, Người đã đưa ra hàng loạt các bằng chứng, dẫn chứng... để kết tội tày
trời giặc Pháp: chúng chẳng những cướp nước ta mà còn làm cho nhân dân ta lâm
vào tình cảnh cơ hàn tủi nhục... Vậy, cái gì đã giúp cho bản Tuyên ngôn của Bác
hết sức đanh thép và đầy sức thuyết phục sau khi công nhận luận đề trong Tuyên
ngôn độc lập và nhân quyền của Pháp và Mĩ để kết tội chúng, rồi tuyên bố cho cả
toàn thể nhân dân và trên toàn thế giới được biết từ nay: dân tộc Việt Nam hoàn
toàn được tự do, hoàn toàn được độc lập ? Phải chăng chính tư duy logic và tư duy
hình tượng đã góp phần tạo cho sự thắng lợi của bản Tuyên ngôn của Người đi vào
lịch sử.
Vậy tư duy logic và tư duy hình tượng là gì? Theo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn
Hữu Đạt, Giảng viên khoa Ngữ văn trường ĐHKHXH và Nhân Văn: tư duy lôgic
là tư duy chính xác{tiền đề, kết đề và lý lẽ}, có cơ sở khoa học thực tiễn của tác giả
được phản ánh một cách trực diện trong tác phẩm. Còn tư duy hình tượng lại là cơ
sở sáng tạo ra các hình tượng khách quan và chủ quan, đồng thời tạo nên các phép
so sánh đối chiếu liên tưởng trong tác phẩm; qua đấy người nói đưa ra những lý lẽ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó, rút ra một (một số) kết
luận hay chấp nhận một số kết luận nào đó của tác phẩm.


Trong văn học, sự sáng tạo nên một tác phẩn hay của mỗi nhà văn đều có sự
khác nhau mà chủ yếu là do trình độ văn hóa, học vấn, do nguồn gốc xuất thân, do
hoàn cảnh xã hội….Đây là những yếu tố chi phối đến thói quen và cách sử dụng
ngôn ngữ của mỗi nhà văn cụ thể. Chính những sự chi phối trên mà mỗi nhà văn
khi cho ra đời một tác phẩm văn học nghệ thuật đều mang những phong cách ngôn
ngữ riêng biệt của mình. Thế nhưng sự thành công của mỗi tác phẩm văn học nghệ
thụât chính là ở chỗ đem đến cho người đọc sự chia sẻ cảm thông, làm cho người
đọc có thể vui với cái vui của nhân vật, có thể buồn với cái buồn của nhân vật, sót
xa với những số phận oan trái, căm hờn với những cảnh đời nghiệt ngã, đau đớn
với nỗi đau của nhân vật. Không những thế người đọc còn cảm nhận được tâm tư
tình cảm của tác giả thông qua hệ thống các nhân vật và nội dung của tác phẩm.
Muốn đạt được sự thành công như vậy thì đòi hỏi mỗi nhà văn khi sáng tạo một tác
phẩm văn học phải am hiểu cuộc sống, có vốn từ ngữ phong phú, có thể sử dụng
các phương tiện ngôn ngữ tinh xảo, có khả năng tác động đến cảm xúc, suy nghĩ
của người đọc. Như vậy đối với quá trình sáng tạo văn học, muốn tác phẩm của
mình đến được với công chúng và được công chúng đón nhận thì đòi hỏi mỗi nhà
văn không ngừng lao động và sáng tạo, để có thể cho ra những tác phẩm văn học
nghệ thuật hay. Một tác phẩm văn học nghệ thuật được công nhận là hay, là thành
công không chỉ được đánh giá bởi nội dung phản ánh của tác phẩm đó, mà nó còn
phụ thuộc vào trình độ sáng tạo nghệ thuật của tác giả trong tác phẩm đó, trong đó
vấn đề về tư duy lôgic và tư duy hình tượng của tác giả được phản ánh trong tác
phẩm là vấn đề vô cùng quan trọng để góp phần tạo nên sự thành công của tác
phẩm.
Trong phạm vi đề tài ở đây, chúng ta chỉ đi sâu vào phân tích về tư duy lôgic
và tư duy hình tượng ở một vài tác phẩm văn học hiện đại để thấy được vai trò và
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chức năng của nó có ý nghĩa như thế nào tác phẩm, mà ở đây xin được phân tích
tùy bút: Người lái đò Sông Đà của nhà văn lớn Nguyễn Tuân.
Trong văn học Việt Nam, tên tuổi Nguyễn Tuân (1910-1987) được biết đến
như một nhà văn tài hoa, kiêu bạc, với quan điểm duy mĩ về nghệ thuật. Trước cách

mạng tháng Tám, ông được đánh giá là hiện tượng phức tạp nhưng những trong tuỳ
bút, những truyện ngắn đậm chất lãng mạn của ông vẫn được độc giả yêu thích.
Càng về sau Nguyễn Tuân càng gắn bó và thành công với tuỳ bút chúng ta biết đến
ông giai đoạn này qua tuỳ bút “kháng chiến và hoà bình”, “Sông Đà” và những bài
in rải rác khác.
Tính chất tự do phóng túng của thể tài này đã thử thách rất nhiều cây bút,
song! dường như chỉ đến Nguyễn Tuân nó mới tìm được ra đúng dáng hình và bản
chất. Đòi hỏi của nghề văn trước hết là sự tự biết mình, một sự dũng cảm dám làm
mình, kèm với nó là một sự tự tin rằng mình có ích cho đời ngay ở sự đơn nhất, độc
đáo, không lập lại. Nguyễn Tuân hiểu điều này và qua thể tuỳ bút ông thực sự tìm
thấy lẽ sống, lẽ sáng tác, ở đó ông không chỉ biết những điều mình cảm nhận mà
còn có đất phô bày cái mảng tri thức cổ kim mà sự học mang đến cho ông. Từ trước
đến nay giới nghiên cứu và đông đảo độc giả đều đánh giá cao tài của Nguyễn
Tuân nhưng việc đi sâu vào lãnh địa tuỳ bút của ông với tư cách là văn bản nghệ
thuật ngôn từ vẫn chưa được chú tâm . Một trong những điều làm nên đặc sắc của
văn Nguyễn Tuân chính là ở tư duy logic và tư duy hình tượng một cách tài tình
của ông.
Trước cách mạng, trung tâm thế giới nghệ thuật tuỳ bút Nguyễn Tuân là
những cái tôi với nhiều hoàn cảnh trên từng chặng đường xê dịch, những con người
buồn chán sống vô vị và vui thú những trò tầm thường, đều mang nhiều tâm trạng
dằn vặt, giằng xé giữa sở thích và nghĩa vụ của một cái tô Nguyễn Tuân. Không
gian thiên nhiên chỉ là những cái mơ hồ vụn vặt gắn với nỗi ám ảnh thời gian và
gợi sự bức bối, ngột ngạt.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngược lại sau cách mạng ta tìm thấy sự phong phú tươi rói, sống động của
nhiều vùng đất Tây bắc, cảnh vật mang tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ và bè bạn với con
người, tham gia vào công cuộc cải tạo của con người. Ta không còn bắt gặp những
cái nhân luôn đấu tranh nội tâm về lý tưởng, về bổn phận như trước. Những cá
nhân bây giờ rất ít, nếu có thì hoặc hiện lên với tư cách là đại biểu cho những phẩm
chất đẹp, tư thế khoẻ, tinh thần hứng khởi của người công dân một nước độc lập.

Ta bắt gặp rất nhiều “con người số đông”, đó là cộng đồng, là sức mạnh của người
lao động, họ đang rất hăng hái dựng xây chiến đấu, nếu người dân lao động được
miêu tả như những người hùng thì bọn giặc hiện ra rất hèn hạ yếu ớt và bé nhỏ.
Đây là mảnh đất nở hoa tài năng liên tưởng, sáng toạ của nhà văn gây nên
sức hấp dẫn trang viết và là điều khiến chúng ta thán phục. Nó phản ánh cái tài hoa
và thái độ, tình cảm của tác giả đối với thế giới, con người.
1. Trước cách mạng 2. Sau cách mạng
1.1. Con người và những tính cách trạng
thái, hoạt động của con người:
- Con người: gái mãi dâm bị căn vặn về
quá trình truỵ lạc, đám son phấn lầu
hồng, người đàn bà nhẫn nhục, các
nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử (My
phu nhân, Cam phu nhân, Triệu Vân),
kẻ có tính đồng bóng, chàng Tân La, cô
gái hoá, một vài cái tài hoa thần đồng,
kẻ trốn chạy nhân tình cũ, tên chăn cừu,
viên thiếu uý kinh kỵ, thứ tội nhân, đời
mình, ông tù trưởng xứ Mường, người
đi thi, người đi tù…
- Hình ảnh con người: Những kẻ nắm
chắc bí mật tạo tác vùng Đại Bục,
những người đi bể, những người lái đò
cạn , người thổi khèm, bộ đội ta, vẻ mặt
hồn nhiên của anh bộ đội…
- Trạng thái hoạt động: Nét cười của
một người công bình lúc tắt nghỉ, đám
chúng nhân đi xem hội tây, cô gái nhà
lành say rượu, kẻ đi biển tìm phương
Website: Email : Tel : 0918.775.368

hướng, giai nhân tài tử chơi xuân, cô
thiếu nữ vu quy, người đi chơi xa…
1.2. thế giới tự nhiên xã hội. 2.2. Thế giới tự nhiện và xã hội:
- Tự nhiên thuần tuý: Sao chổi, hơi lửa
lò vôi, mưa ngày tháng của tội nhân bị
khổ sai có kỳ hạn, nước lá dội qua cây
gỗ rắn, dầu sôi trong vạc, cái bóng,
đêm ở phố phủ, hoa sim rằng, thung
lũng, rừng đào, gió nồm, bông hoa
cúc…
- Tự nhiên thuần tuý: Giăng xuông, sao
hôm, nắng loé, cái vắng vẻ của rừng,
dòng nước, sóng bể, cây núi Tây Bắc,
lửa, sóng vấp bờ, thuỷ triều dâng, cỏ
bồng nước lũ, mùa xuân Tây Bắc, nếp
sóng bạc đầu, mùa hè, mùa xuân, mùa
thu, mùa đông, trùng dương thạch trận,
cánh đồng đá, trận bão tố, đất vỡ
hoang, con sóng đã khô chắc lại, giống
hoa nhiều màu sắc, tổ phượng hoàng,
rêu mùa xuân, đài hoa thơm, ngàn bọng
ong, mặt giăng chiếu xuống vạc nương
ruộng lúa, con hổ giữ…
- Sự vật, sự việc hiện tượng gắn với
cuộc sinh hoạt: giấy hoa tiên, tiếng
nhạc ngựa, tiếng diều sáo, ngọn lửa
chài, chiếc thuyền rồng, bãi chợ đầu
làng, khăn tang và áo vải đen, tượng đá
tượng Chàm, ngọn đèn rọi đường, xe
thổ mộ ở Nam kỳ…

- Sự vật, sự việc hiện tượng gắn với
cuộc sinh hoạt: tuyết thảm nhung, trận
sốt, vách thành, lỗ giếng đào, cái hào
cạn, hầm máy tàu bể, truyện quái hiệp,
đèn pha vị trí, tờ giấy lệnh, cái bánh đa,
lớp học, con đường biển ra đảo Côn
Lôn, nồi cơm vừa sôi, tường luỹ, gạch
cũ của một cái thành xưa, tóc mây, cái
mộc nhĩ, con ngựa điện biên, tấm áo
người nghèo, cái thân đê nhà Lý, một
công trình văn hoá, cái nhà mồ, chợ
chiều họp vội trên mặt gềnh sông Đà,
cái sân một nhà Mỡo, viên gạch mới,
cái nhẫn vàng, chuông khánh…

×