Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Đề tài tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1002.16 KB, 50 trang )


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài:

II. Mục đích - Yêu cầu:

1
1

1. Mục đích:

1

2. Yêu cầu:

1

III.

Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu:

1

1. Đối tượng:

1

2. Phạm vi:



2

IV.

Cơ sở lý luận - Phương pháp nghiên cứu:

2

1. Cơ sở lý luận:

2

2. Phương pháp nghiên cứu:

2

V. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

2

1. Ý nghĩa lý luận:

2

2. Ý nghĩa thực tiễn:

2

VI.


Kết cấu tiểu luận

B. NỘI DUNG
I.

1

Cơ sở lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1.1 Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc
Việt Nam

2
3
3
3
3

1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng
3
1.3 Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách
mạng Việt Nam và thế giới
4
2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
2.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành cơng của cách
mạng

4

4

2.2 Đại đồn kết tồn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng 5
2.3 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân

6

2.4 Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
6


II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc
1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc

9
9

1.1 Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công
của cách mạng
9
1.2 Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt Nam
10
2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

10

2.1 Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc


10

2.2 Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc

11

3. Điều kiện để xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc

11

4. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Mặt trận dân
tộc thống nhất
12
4.1 Mặt trận dân tộc thống nhất

12

4.2 Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất

13

5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc

14

III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc trong giai đoạn hiện
nay
16
1. Quán triệt tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc trong hoạch định chủ
trương, đường lối của Đảng


16

2. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí
dưới sự lãnh đạo của Đảng
17
IV. Hiện trạng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam

17

1. Những nhiệm vụ chủ yếu nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của
Đảng trong giai đoạn hiện nay
17
1.1. Phát huy dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng

17

1.2. Thực hiện đồng bộ các chính sách và luật pháp của Nhà nước nhằm động
viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước
18
1.3 Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể nhân dân
22
2. Tích cực

24

3. Khó khăn

27


V. Các yếu tố tác động đến tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc

29

VI. Những giải pháp đối với vấn đề trong xây dựng tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc
hiện nay
31


VII. Liên hệ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào thực tiễn

33

1. Đối với Đảng và Nhà nước

33

2. Đối với cá nhân

36

VIII. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc nâng cao Đại đoàn kết dân tộc
trong giai đoạn hiện nay
37
1. Các vấn đề đặt ra

37

2. Phương thức vận dụng Đại đoàn kết toàn dân tộc phải kết hợp với đoàn kết
quốc tế

38
C. KẾT LUẬN

41

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

44


DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Người dân, chiến sĩ Cơng an tỉnh Ðắk Lắk đội mưa khẩn trương bốc rau, củ
lên xe tải để kịp vận chuyển đến TP Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương.
Hình 2: Người dân Thanh Chương (Nghệ An) nấu bánh gửi bà con vùng lũ miền
Trung.
Hình 3: Những chuyến xe cứu trợ đồng bào miền Trung nối dài trên quốc lộ.
Hình 4: Ơng Trịnh Xn Thanh trước tòa án


1

A. MỞ ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài:
Theo bước chân lịch sử dân tộc Việt Nam, có thể thấy rằng kể từ khi Pháp nổ
súng xâm lược thì nước ta đã trải qua gần 120 năm (1858 - 1975) bị các nước khác
xâm lược, gây chiến không thương tiếc. Tuy nhiên, Việt Nam đã thành công trong
việc giữ được nền độc lập cho chính quốc gia của mình. Yếu tố góp phần nên thành
cơng này chính là đại đồn kết dân tộc. Kể cả trong thời bình lẫn thời chiến, tư tưởng

đại đồn kết ln trở thành một loại tình cảm, một suy nghĩ hiện hữu trong từng người
Việt Nam yêu nước và nó ln đóng vai trị là một sợi dây liên kết cả dân tộc cũng
như tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần vào việc đưa tới thắng lợi của Cách mạng
tháng 8 năm 1945 cho đến khi dân tộc Việt Nam được độc lập và thống nhất hồn
tồn năm 1975.
Tư tưởng Đại đồn kết của Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng: khi nào Đảng
ta, dân tộc ta đồn kết một lịng và thực hiện triệt để tư tưởng Đại đồn kết của Người
thì cách mạng lúc đó mới có thể thuận lợi và mang về nhiều thắng lợi được. Ngược
lại, nếu người dân vi phạm đoàn kết hay rời xa tư tưởng Hồ Chí Minh thì cách mạng
lúc đó sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn.
Trong thời đại hiện nay, mặc dù đất nước ở thời bình nhưng mục tiêu cũng như
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết vẫn ln được đề cao và thúc đẩy phát huy. Bởi
vì theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có đại đồn kết dân tộc mới giúp chúng ta thành
cơng trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cuộc sống cho người
dân ngày một giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh, dân chủ. Vì vậy, nhận thức
được tầm quan trọng về việc vận dụng tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh, chúng em
quyết định lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đồn kết dân tộc.”
II. Mục đích - Yêu cầu:
1. Mục đích:
Giúp mọi người nhận thức được tầm quan trọng của lòng yêu nước, của nhân
nghĩa, tin yêu con người. Từ đó mỗi cá nhân sẽ tự phát huy hơn nữa lịng nhân nghĩa
của bản thân mình để sống tốt hơn, có ý nghĩa hơn.
2. Yêu cầu:
Nắm vững được tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc cũng như các
khía cạnh thực tiễn có liên quan.
III. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu:
1. Đối tượng:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.



2

2. Phạm vi:
Những tài liệu lịch sử cụ thể cùng hệ thống tư liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh
kết hợp với các tài liệu tình hình áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết dân tộc
trong thời đại hiện nay.
IV. Cơ sở lý luận - Phương pháp nghiên cứu:
1. Cơ sở lý luận:
Đại đoàn kết dân tộc là yếu tố quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước nên đã có các ban, bộ ,ngành, các nhà chính trị nghiên cứu về vấn
đề này.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Kết hợp phương pháp logic với so sánh, tổng hợp, phân tích, chứng minh,...
V. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
1. Ý nghĩa lý luận:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và
được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa
Mác – Lênin đã được vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với tình hình và điều
kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
2. Ý nghĩa thực tiễn:
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở
tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách
mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa. Những thành công hay thất bại của phong trào ấy đều được người nghiên
cứu để rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về đại đồn kết dân
tộc.
VI. Kết cấu tiểu luận
- Mở đầu
- Cơ sở lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc

- Hiện trạng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam
- Các yếu tố tác động đến tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc
- Những giải pháp đối với vấn đề trong xây dựng tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc
hiện nay và liên hệ ….
- Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc nâng cao Đại đồn kết dân tộc
trong giai đoạn hiện nay
- Kết luận


3

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc được hình thành từ những cơ sở
quan trọng sau đây:
1.1 Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt
Nam
Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, lịng u nước, gắn
liền với ý thức đồn kết, thống nhất dân tộc, đoàn kết dân tộc của nhân dân Việt Nam
đã được hình thành và củng cố, tạo nên một truyền thống lâu dài khơng thể xóa bỏ.
Đối với mỗi người Việt Nam, 3 yếu tố: yêu nước - nhân nghĩa - đồn kết đã trở thành
một loại tình cảm tự nhiên, diễn ra trong cơ cấu xã hội truyền thống và hình thành
mối quan hệ ba cấp chặt chẽ: gia đình - làng xã - dân tộc. Truyền thống này được
truyền từ đời này sang đời khác và được ông cha ta đúc kết sâu sắc trong truyền
thuyết, ca dao, tục ngữ.
Hồ Chí Minh đã sớm tiếp nhận và nhận thức rõ vai trò của truyền thống yêu
nước - nhân đạo - đoàn kết của dân tộc. Người nhắc lại: “Nhân dân ta có tinh thần yêu
nước nồng nàn”. Đây là một trong những truyền thống quý báu của chúng tơi. Từ xưa
đến nay, mỗi khi có cuộc tấn cơng vào Mẫu quốc, thần khí này lại được hồi sinh, nó

tạo thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ và to lớn, nó vượt qua mọi nguy hiểm và
khó khăn, nó cuốn đi tất cả những thương nhân và thổ phỉ.” .
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, thủy chung của dân tộc Việt Nam là
cơ sở đầu tiên và sâu sắc để hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về đại đồn kết.
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân
dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo
cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực
lượng to lớn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ
ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. V.I. Lênin cho rằng, sự liên
minh giai cấp, trước hết là liên minh công nông là hết sức cần thiết bảo đảm cho thắng
lợi của cách mạng vơ sản, rằng nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân
dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản
khơng thể thực hiện được.


4

Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin không những đã chỉ ra vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử mà cịn chỉ ra vị trí của khối liên minh cơng nơng trong cách
mạng vơ sản. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ
sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế
trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng
của Người về đại đồn kết dân tộc.
1.3 Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách
mạng Việt Nam và thế giới
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước cũng như sau này, Hồ Chí Minh đã

ln chú ý nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt
Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những bài
học của cuộc Cách mạng Tháng Mười. Những là bài học về huy động, tập hợp lực
lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng, để
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của
việc đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, trước hết là công nông.
Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh
đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam
nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách
mạng. Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của các phong trào dân
tộc dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là cơ sở
thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
2.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành cơng của cách
mạng
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã khơng đồn
kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành
cơng phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành
công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết,
quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đồn kết trở thành
vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách


5


mạng vô sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa,
trong đó Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách
mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng
khác nhau, nhưng đại đồn kết dân tộc ln ln được Người nhận thức là vấn đề
sống còn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành cơng; Đồn kết là điểm mẹ;
điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt; Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết;
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm
coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: "Dễ trăm lần không dân cũng
chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Đồng thời, Người lưu ý rằng, nhân dân bao
gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tơn giáo, do
đó phải đồn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc
đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp
với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi
cơ bản của nhân dân lao động, làm "mẫu số chung" cho sự đoàn kết.
2.2 Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, khơng thương
dân thì khơng thể có tinh thần u nước. Dân ở đây là số đơng, phải làm cho số đơng
đó ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, chúng ta khơng chỉ thấy rõ
việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà cịn coi đại đồn kết dân tộc là mục
tiêu của cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đồn kết dân tộc phải được quán triệt trong
mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của
Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tun bố
trước tồn thể dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8

chữ là: Đồn kết tồn dân, phụng sự Tổ quốc.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đoàn kết
dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí
Minh cịn cho rằng, đại đồn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đồn kết
dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ


6

mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vơ địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
2.3 Đại đoàn kết dân tộc là đại đồn kết tồn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người dùng
các khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "con Rồng cháu Tiên", không phân
biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người khơng tín ngưỡng,
khơng phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đồn kết dân tộc cũng có
nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Người đã nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của
Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ" 1. Với tinh thần đoàn kết
rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây
dựng khối đồn kết tồn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp,
dân tộc, tôn giáo.
Muốn thực hiện được đại đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lịng khoan dung, độ lượng với
con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ
chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ"2. Để thực hiện được đồn kết, Người cịn căn
dặn: Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau

cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại
đồn kết tồn dân với nịng cốt là khối liên minh cơng - nơng - trí thức do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như
vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực
lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Người coi công nông cũng như cái nền của nhà, gốc
của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân
khác. "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh
công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất" 1. Về sau, Người nêu thêm: lấy
liên minh công - nơng - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc càng được mở
rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đồn kết dân tộc.


7

2.4 Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách
mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đồn kết dân tộc không thể
chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một
chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của tồn Đảng, tồn dân ta. Nó
phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó
chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô
địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn; nếu khơng, quần
chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là một số đơng khơng

có sức mạnh. Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó,
chính là đi tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Và
sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý
đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai
cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tơn giáo. Đó là các già
làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, cơng hội, nơng hội, đồn thanh niên, hội
phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu
nước, các nghiệp đoàn, v.v., bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước
Việt, không chỉ ở trong nước mà còn cả những người Việt Nam định cư ở nước ngồi,
dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lịng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ
quốc Việt Nam...
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở
nước ta đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng
lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài
nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh
phúc của nhân dân.
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn, theo Hồ
Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau:


8

Thứ nhất: Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu
nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu.
Hồ Chí Minh cho rằng, Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự

do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Sự đồn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân
tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu.
Thứ hai: Đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh cơng
- nơng - lao động trí óc.
Phải trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó mà mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận
thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Thứ ba: Hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Khi có những lợi ích riêng biệt khơng phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc
nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận
thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích
chung và lợi ích riêng, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt
hoặc dân chủ hình thức. Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác
Mặt trận (tháng 8-1962), Người yêu cầu: Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp
nhân dân... Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ.
Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt
chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa
thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc.
Thứ tư: Khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân
thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương
đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí; bên cạnh
những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải
quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm "cầu đồng tồn dị",
lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ: "Đoàn kết
phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết". Người thường xuyên căn
dặn phải khắc phục tình trạng đồn kết xi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình
và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ.
Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đồn
kết thật sự nghĩa là vừa đồn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình

những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Trong quá
trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu
tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực


9

lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh hướng đồn kết một chiều, đồn
kết mà khơng có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam khơng có lợi ích riêng mà là gắn liền với lợi ích toàn xã hội,
toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền khơng phải chỉ vì lợi ích của giai
cấp mình mà vì "phải trở thành dân tộc" mới có thể giải phóng được dân tộc và giai
cấp.
Hồ Chí Minh ln luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một
thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Nhưng Người cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho
mình, mà phải được nhân dân thừa nhận. Người nói: "Đảng khơng thể địi hỏi Mặt
trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày,
khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo".
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng
đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Đảng phải dùng phương
pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm
hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gị ép, quan liêu mệnh lệnh.
Sự đồn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt
trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đồn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân
sẽ tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ
thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc
1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc
1.1 Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc là chiến lược lâu dài , nhất
quán của cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân
ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta
khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề mang tính
sống cịn của dân tộc Việt Nam nên chiến lược này được duy trì cả trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn cách
mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập
hợp đại đồn kết có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng


10

khác nhau song không bao giờ được thay đổi chủ trương đại đồn kết dân tộc, vì đó là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng
Hồ Chí Minh đã khái quát vai trò và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc:
Thứ nhất, đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Thứ hai, đoàn kết là một lực lượng vơ
địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi. Thứ ba, đoàn kết là sức
mạnh, đoàn kết là thắng lợi. Thứ tư, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành
cơng. Hồ Chí Minh xem đồn kết chính là một điểm rất quan trọng và cũng là điểm
mẹ. Nếu thực hiện tốt thì đẻ con cháu ra đều tốt. Người kết luận:
“ Đoàn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
1.2 Đại đồn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt Nam
Đối với Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn

là mục tiêu lâu dài của cách mạng. Và vì Đảng là lực lượng lãnh đạo CMVN nên tất
yếu đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng. Nhiệm
vụ này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính
sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Vào ngày 3/3/1951, trong lời kết thúc buổi ra
mắt Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đã tuyên bố: “Mục đích của Đảng
Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ: Đồn kết, Toàn dân, Phụng sự tổ quốc.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đại
đoàn kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng và là đòi hỏi khách quan của
quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. Nếu khơng có đồn kết thì
quần chúng nhân dân sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình. Vì
vậy, Đảng Cộng Sản có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển
những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành địi hỏi tự
giác, thành hiện thực, có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con
người
2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
2.1 Chủ thể của khối đại đồn kết tồn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc gồm 2 đối tượng.
Đầu tiên là toàn thể nhân dân. “Nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu vừa
là con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, cả
hai đều là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc. Thứ hai chính là những người Việt
Nam yêu nước ở các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới, các lứa


11

tuổi, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo, các đảng phái. Đại đoàn kết dân tộc là phải
tập hợp, đoàn kết được tất cả mọi người vào một khối thống nhất, không phân biệt dân
tộc, tầng lớp, giai cấp, đảng phái, tơn giáo, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, ở trong
nước hay ở ngoài nước cùng hướng vào mục tiêu chung “ai có tài, có đức, có sức, có

lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ
Trong q trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải đứng vững trên lập
trường Giai cấp cơng nhân, giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc để
tập hợp lực lượng, khơng bỏ sót một lực lượng nào miễn là họ có lịng trung thành và
sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không phản bội lại quyền lợi của nhân dân. Điều này
chứng minh tư tưởng của Người đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa
2.2 Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh chỉ rõ “Đại đồn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác. Đó là nền gốc của đại đồn kết. Nó là cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác”
Lực lượng làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc là cơng nhân, nơng
dân và trí thức. Lực lượng này càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết
tồn dân tộc càng có thể mở rộng, khi ấy khơng có thế lực nào có thể làm suy yếu khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chủ
trọng yếu tố “hạt nhân” là sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng vì đó là điều kiện cho
sự đồn kết ngoài xã hội. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đồn kết
dân tộc càng được tăng cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt
giữa Đảng và nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để
vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng
của cách mạng.
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc
Một là, phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tơn trọng các lợi ích
khác biệt chính đáng. Phải chú trọng xử lý các mối quan hệ lợi ích rất đa dạng, phong
phú trong xã hội Việt Nam vì chỉ có xử lý tốt quan hệ lợi ích, trong đó tìm ra điểm
tương đồng, lợi ích chung thì mới đồn kết được lực lượng. Mục đích chung của Mặt
trận được Hồ Chí Minh xác định cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm
tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Theo Người, đại



12

đồn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương dân,
chống áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu vì nếu nước được độc lập mà dân không
được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đồn kết phải lấy
lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn
đấu. Đây được xem là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số
chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc và tôn giáo vào trong Mặt
trận.
Hai là, phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đồn kết của dân tộc.
Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc và đã trở thành giá trị bền vững, thấm
sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền
qua nhiều thế hệ. Đây là truyền thống có cội nguồn sức mạnh vơ địch để cả dân tộc
chiến đấu và chiến thắng thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản
sắc dân tộc được giữ vững.
Ba là, phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh cho
rằng mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt
xấu. Vì lợi ích của cách mạng, phải có lịng khoan dung độ lượng, trân trọng phần
thiện dù nhỏ nhất ở mỗi người thì mới tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người
từng dặn: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau tại
nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này hay thế khác, nhưng thế
này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta
phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc.
Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có
như thế mới thành đại đồn kết, có đại đồn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”
Bốn là, phải có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa
vào dân, sống, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao trong cuộc

sống. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc: “Nước lấy dân làm
gốc”, “Chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”. Dân là chỗ dựa vững chắc, cũng là
nguồn sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết định thắng lợi của
cách mạng. Vì vậy, muốn thực hiện đại đồn kết tồn dân tộc phải có niềm tin vào
nhân dân.


13

4. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Mặt
trận dân tộc thống nhất
4.1 Mặt trận dân tộc thống nhất
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh khi
được tập hợp, tổ chức thành một khối vững chắc, đó là mặt trận dân tộc thống nhất.
Đây là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt,
cả trong nước và kiều bào sinh sống ở nước ngoài. Vì vậy, Hồ Chí Minh rất chú trọng
việc tập hợp quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp như các hội
ái hữu hay tương trợ, công hội hay nơng hội, đồn thanh niên hay hội phụ nữ, đội
thiếu niên nhi đồng hay phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Cơng giáo u nước hay
những nghiệp đồn. Do yêu cầu và nhiệm vụ của từng chặng đường lịch sử, mặt trận
dân tộc thống nhất có những tên gọi khác như:
- Hội phản đế đồng minh (năm 1930)
- Mặt trận Dân chủ Đông Dương (năm 1936)
- Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương (năm 1939)
- Mặt trận Việt Minh (năm 1941)
- Mặt trận Liên Việt (năm 1951)
- Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (năm 1960)
- Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa bình Việt Nam (năm 1968)
Mặc dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng thực chất đây chỉ là một tổ chức
chính trị - xã hội nhằm tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng

phái, các tổ chức, cá nhân yêu nước ở trong và ngồi nước, phấn đấu vì mục tiêu
chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
4.2 Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Một là, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh cơng nhân - nơng dân - trí
thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh đã xác định mục đích chung của
mặt trận dân tộc thống nhất là tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại
đoàn kết dân tộc. Mặt trận là một khối đồn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối
liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đồn kết tồn dân tộc
của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó để mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ
được cả dân tộc, kết thành một khối vững chắc trong Mặt trận. Hồ Chí Minh viết “Lực
lượng chủ yếu trong khối đại đồn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công
nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Do đó, phải lấy liên minh cơng
nơng làm nền tảng vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội


14

sống và vì họ đơng hơn hết mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết; vì chí khí cách
mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn mọi tầng lớp khác. Hồ Chí Minh căn dặn khơng
chỉ nhấn mạnh vai trị của cơng nơng mà cịn phải liên minh với các giai cấp khác,
nhất là đội ngũ trí thức.
Đảng cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo, Đảng
khơng có lợi ích riêng mà gắn liền với lợi ích tồn xã hội, tồn dân tộc. Đảng lãnh đạo
đối với mặt trận thể hiện ở khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra quy luật khách
quan sự vận động của lịch sử để vạch đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp,
lãnh đạo Mặt trận hồn thành nhiệm vụ của mình là đấu tranh giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
Hai là, phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Mặt trận dân tộc
thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao gồm nhiều giai

cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tơn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích khác nhau.
Hoạt động của Mặt trận phải dựa trên nguyên tắc Hiệp thương dân chủ. Mọi vấn đề
của Mặt trận đều phải được đem ra cho tất cả thành viên cùng nhau bàn bạc cơng khai,
để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Những lợi ích riêng
chính đáng, phù hợp với lợi ích chung của đất nước, của dân tộc cần được tôn trọng;
những gì riêng biệt, khơng phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân
tộc, bằng sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về MQH
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng
Ba là, phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ. Theo Hồ Chí Minh, đồn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt
chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Trong Mặt trận,
các thành viên có những điểm tương đồng nhưng cũng có điểm khác biệt, nên cần có
sự bàn bạc để đi đến nhất trí. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh phương châm “cầu đồng
tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt, đồng thời Người nêu rõ
“Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí.
Đồn kết thực sự nghĩa là vừa đồn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau,
phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Điều này sẽ tạo nên sự đồn kết gắn bó chặt chẽ, lâu dài tạo tiền đề mở rộng khối đại
đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất.
5. Phương thức xây dựng khối đại đồn kết dân tộc
Một là, làm tốt cơng tác vận động quần chúng (dân vận). Để thực hiện mục
tiêu đại đồn kết phải làm tốt cơng tác vận động quần chúng. Vận động quần chúng để


15

thu hút quần chúng chính là để đồn kết mọi người, tạo ra động lực phát triển kinh tế xã hội và văn hóa. Theo Người, để phát huy đầy đủ vai trị, trí tuệ, khả năng to lớn của
quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước cũng như mọi cán bộ, đảng viên phải biết làm tốt công
tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ và vận động quần chúng nhân dân thực

hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; phải
giúp nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người
công dân đối với Đảng, với Tổ quốc và với dân tộc, từ đó họ tích cực, chủ động, tự
giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Người căn dặn: “cần phải chịu
khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng” những việc đó vì lợi ích của họ mà phải
làm”. Theo Hồ Chí Minh, mọi phương pháp tiếp cận và vận động quần chúng đều
phải phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, phải xuất phát từ thực tế trình
độ dân trí và văn hóa, theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bao gồm cả phong tục, tập
quán và cụ thể đối với từng địa phương, từng đối tượng của nhân dân.
Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để
tập hợp quần chúng. Theo Hồ Chí Minh, để tập hợp quần chúng nhân dân một cách có
hiệu quả, cần phải tổ chức đồn thể, tổ chức quần chúng. Đây là tổ chức để tập hợp,
giáo dục, rèn luyện quần chúng cho phù hợp từng giai cấp, dân tộc, tơn giáo, lứa tuổi,
giới tính, vùng miền… như: Cơng đồn, Hội Nơng dân, Đồn thanh niên, Hội phụ
nữ… Các đồn thể, tổ chức quần chúng có nhiệm vụ giáo dục, động viên và phát huy
tính tích cực của tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ của cách mạng
trong từng giai đoạn. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng ra đời dưới sự lãnh đạo của
Đảng, có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận động, tập hợp các tầng lớp
nhân dân tham gia cách mạng, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Do đó,
trong suốt tiến trình cách mạng VN, xây dựng và bảo vệ đất nước, các tổ chức đồn
thể khơng ngừng lớn mạnh về số lượng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân
Ba là, các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong mặt
trận dân tộc thống nhất. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận dân tộc
thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao
nhiêu thì khối đại đồn kết dân tộc càng mạnh mẽ, bền vững bấy nhiêu. Các đoàn thể,
tổ chức quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất là sợi dây gắn kết Đảng với nhân
dân và “Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của
dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ”.



16

Bản chất của đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng là tổ chức của nhân dân, do
đó vai trị của Mặt trận và các đồn thể nhân dân là phải vận động quần chúng bao
gồm các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội tham gia vào các tổ chức của mình. Cơng
tác vận động quần chúng phải dựa trên chiến lược: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết.
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Người chỉ rõ: “Mặt trận dân tộc thống nhất
vẫn là một trong những lực lượng to lớn của CMVN…Phải đoàn kết tốt các đảng phái,
các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận tổ quốc VN, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp
đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây
dựng Tổ quốc…Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tơn giáo,
cùng nhau xây dựng đời sống hịa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”.
III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc trong giai đoạn
hiện nay
1. Quán triệt tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc trong hoạch định chủ
trương, đường lối của Đảng
Trước đây, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh để chiến thắng
giặc ngoại xâm. Hiện nay sức mạnh ấy phải là sức mạnh để chiến thắng nghèo nàn và
lạc hậu. Phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh
thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết tồn dân tộc, ngày
2/11/1993, Bộ Chính trị Trung ương Đảng khóa VII đã ra Nghị quyết số 07-NQ/TW
“Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”. Nghị quyết đã
kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết trong sự nghiệp đổi mới.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1996), vấn đề
đại đoàn kết dân tộc đã được đặt ở một tầm cao mới, nhằm phát huy sức mạnh của
toàn dân trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng khẳng định: “Đại đoàn kết
dân tộc là đường lối chiến lược của CMVN, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, Đại hội XII của Đảng đã đề ra
phương hướng, nhiệm vụ tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.


17

Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi niềm tiềm năng sáng tạo của nhân dân
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình,
độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” làm điểm tương đồng, tôn trọng những điều khác biệt khơng trái với lợi ích
chung quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa,
khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng
cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối
đại đoàn kết dân tộc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII phát biểu: “Phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân,
tăng cường pháp chế, đảm bảo kỷ cương xã hội”.
2. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh cơng - nơng trí dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ lãnh tụ đã trở thành quan
điểm xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lịch sử chứng
minh rằng, Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi thì liên minh cơng - nơng - trí
càng mạnh, sự lãnh đạo của Đảng càng vững. Khối liên minh càng được củng cố, sự
lãnh đạo của Đảng càng được tăng cường thì Mặt trận dân tộc thống nhất càng được
mở rộng và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được nhân lên to lớn
hơn. Để tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời gian tới, cần
thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, ngành, lực lượng nhận
thức sâu sắc về sự cần thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của NN và tiếp tục thể chế
hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại đồn kết dân tộc.
Thứ ba, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội.
Thứ tư, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, NN, tạo sinh lực
mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cuối cùng, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại,
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.


18

IV. Hiện trạng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam
1. Những nhiệm vụ chủ yếu nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
của Đảng trong giai đoạn hiện nay
1.1. Phát huy dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng
Từ những bài học về dân chủ được tổng kết qua 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới
và tổng kết Chỉ thị số 30 CT/T.Ư ngày 18-2-1998 "Về xây dựng và thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở" của Bộ Chính trị (khóa VIII), Đại hội X của Đảng chủ trương:
tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ của nhân dân; cụ thể hóa hơn nữa cơ chế dân chủ ở các đơn vị cơ sở
nhằm đẩy nhanh q trình dân chủ hóa xã hội, góp phần thúc đẩy tính tích cực trong
các tầng lớp dân cư và sự đồng thuận xã hội với các nội dung:
Thứ nhất, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới.
Thứ hai, xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và cơng
chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.
Thứ ba, Nhà nước khơng ngừng hồn thiện hệ thống pháp luật và quản lý, tạo
điều kiện để nhân dân được làm những việc mà pháp luật không cấm.
Thứ tư, Nhà nước và nhân dân cùng nỗ lực phấn đấu cho sự phát triển của đất
nước, kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích tồn xã hội.

1.2. Thực hiện đồng bộ các chính sách và luật pháp của Nhà nước nhằm động
viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước
Bảo đảm lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội và kết hợp hài hịa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và tồn xã hội là yếu tố quan trọng nhất để củng cố và mở rộng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là điều kiện tiên quyết để tổ chức và động viên nhân
dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Điều đó chủ yếu phụ thuộc vào chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Trong những năm đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều luật, pháp lệnh và chính sách có liên quan đến mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh
vực kinh tế - xã hội. Những chính sách đó đã và đang khơi dậy, phát huy tiềm năng
lao động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, khuyến khích mọi người thi đua làm
kinh tế giỏi, thi đua làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước. Tuy nhiên, có
những chính sách kinh tế - xã hội chưa sát với cuộc sống, phải sửa đổi luôn, thực
hiện thiếu đồng bộ, không thống nhất nên chậm vào cuộc sống. Để khắc phục những
thiếu sót nêu trên, Đại hội X của Đảng đề ra nhiệm vụ: "Thực hiện đồng bộ các chính
sách và pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ và giữ vững kỷ cương trong
xã hội. Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước,


19

làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hóa xã hội; mỗi người,
mỗi hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước".
Nhằm phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của mọi công dân, Đại hội đã
đề ra những định hướng, chính sách lớn đối với các giai cấp và tầng lớp xã hội, trong
đó lần đầu tiên đặt ở vị trí rất quan trọng việc tơn trọng và phát huy vai trò gương
mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân
tộc, các tôn giáo cũng như xác định đúng mức vị trí của doanh nhân.
Đối với giai cấp cơng nhân: Cùng với q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, giai cấp cơng nhân Việt Nam tiếp tục tăng nhanh cả về số
lượng lẫn chất lượng. Song tỷ lệ tăng khơng đồng đều, trong đó, các doanh nghiệp tư

nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhất. Vấn đề bảo vệ
quyền lợi, tăng cường ý thức giác ngộ giai cấp công nhân trong các thành phần kinh
tế đang là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách. Đại hội X nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và
cấp bách hiện nay đối với giai cấp công nhân là: "Nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa công
nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao
động, tiền lương, bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao
động... Có chính sách ưu đãi nhà ở đối với cơng nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức,
phát triển đoàn viên cơng đồn, nghiệp đồn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế...".
Đối với giai cấp nông dân: Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, trong
những năm gần đây có sự chuyển dịch mạnh trong sản xuất nông nghiệp và sự
chuyển dịch đó ngày càng nhanh, quy mơ sản xuất ngày càng được mở rộng và tăng
dần đầu tư theo chiều sâu. Năng suất và hiệu quả sản xuất được nâng lên. Yếu tố sản
xuất hàng hóa trong nơng nghiệp thể hiện ngày càng rõ thông qua việc phát triển các
trang trại sản xuất kinh doanh và hệ thống thương mại dịch vụ cung ứng vật tư, tiêu
thụ sản phẩm.Tuy nhiên, đến nay tỷ lệ lao động nơng nghiệp cịn rất lớn; số hộ thuần
nông vẫn chiếm số đông; cuộc sống của nông dân, nhất là nông dân vùng sâu, vùng
xa, vùng cao, vùng dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn.
Xuất phát từ tình hình trên, Đại hội chủ trương: "Đối với giai cấp nơng dân phát huy
vai trị quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ
tiên tiến vào nơng nghiệp, nơng thơn. Thực hiện tốt chính sách về ruộng đất. Tạo
điều kiện thuận lợi để giúp nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ.


20

Khuyến khích nơng dân hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại để

phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất, tiêu thụ
nơng sản hàng hóa. Hỗ trợ và khuyến khích nơng dân học nghề, tiếp nhận và áp dụng
thành tựu khoa học, cơng nghệ".
Đối với trí thức: Đội ngũ trí thức nước ta được hình thành trong quá trình đấu
tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Năng lực trí tuệ của người Việt Nam
được đánh giá cao trong khu vực và trên thế giới. Trong điều kiện đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, vai trị
của đội ngũ trí thức ngày càng quan trọng.
Trong những năm qua, đội ngũ trí thức của chúng ta tăng nhanh nhưng hẫng hụt về
chuyên gia đầu đàn và tỷ lệ trí thức có trình độ trên đại học so với số dân cịn ít so
với các nước trong khu vực. Việc trọng dụng nhân tài chưa được đặt ra một cách
đúng mức, v.v...
Đại hội X của Đảng nhấn mạnh đến vai trị quan trọng của trí thức và đặt ra yêu cầu:
"Phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân
tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát
triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học kỹ thuật,
khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội".
Đối với doanh nhân: Chủ trương phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các
loại hình tổ chức kinh doanh, đã và đang tạo ra một tầng lớp doanh nhân ngày càng
đông đảo, năng động, sáng tạo và giữ vai trị ngày càng quan trọng trong cơng cuộc
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Bên cạnh các doanh nhân thuộc thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã
xuất hiện ngày càng nhiều và phát triển ngày càng nhanh các doanh nhân trong các
thành phần kinh tế khác. Đây là lực lượng quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển
đa dạng và là lực lượng chủ yếu trong việc giải quyết việc làm. Do vai trò ngày càng
quan trọng của doanh nhân, Đại hội X của Đảng đặt doanh nhân lên vị trí thứ tư sau
cơng, nơng, trí và chủ trương: "tạo điều kiện phát huy tiềm năng và vai trị tích cực
trong phát triển sản xuất, kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và ở nước ngoài;

giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo dựng và
giữ gìn thương hiệu hàng hóa Việt Nam".
Đối với thế hệ trẻ: Thế hệ trẻ Việt Nam chiếm 60% dân số. Đây là lực lượng
lao động chủ yếu đang và sẽ thực hiện q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.


×