MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU…………………………………………………….2
PHẦN II. NỘI DUNG…………………………………………………3
1. Khái quát về Văn hóa ……………………………………………….3
2. Vai trị của văn hóa trong việc phát triển kinh tế xã hội..……………4
3. Thực trạng và giải pháp nâng cao văn hóa con người ở Việt Nam…..9
PHẦN III. KẾT LUẬN………………………………………………18
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………20
1
PHẦN I. MỞ ĐẦU
Đầu năm 1943, thời điểm Đảng lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị tổng khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, trong Đề cương văn hóa Việt Nam
1943, Đảng ta quan niệm, văn hóa bao gồm: Tư tưởng, học thuật (khoa học)
và nghệ thuật (văn học, nghệ thuật) với vai trị: “Văn hóa soi đường cho quốc
dân đi”. Cũng vào năm 1943, trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí
Minh đã viết tập thơ Nhật ký trong tù. Cuối tập thơ này, trong mục đọc sách,
Bác Hồ đã viết ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng, toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”.
Văn hố là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện
trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất
tinh thần tạo ra những giá trị văn hoá… Văn hoá Việt Nam kết tinh tâm hồn,
trí tuệ, tài năng và đạo lý làm người của dân tộc ta. Trong lịch sử hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước, văn hố là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư
tưởng văn hoá, là một động lực mạnh mẽ, là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước bối cảnh trên, tôi lựa chọn chủ đề “Xây dựng văn hóa con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
2
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Một số quan niệm về văn hóa
Tổng kết 15 năm thực hiện chiến lược văn hóa này của Đảng, chúng ta
nhận thức sâu sắc hơn về văn hóa - một lĩnh vực rất rộng lớn, vơ cùng phong
phú và đa dạng thuộc đời sống tinh thần của xã hội và con người. Vì thế, đã
có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Chúng ta có thể có 3 hướng tiếp cận cơ
bản quan niệm về văn hóa:
- Theo nghĩa rộng nhất, văn hóa là tồn bộ giá trị vật chất, tinh thần do
lao động của con người sáng tạo và tích lũy lại tạo nên bản sắc của từng tộc
người, từng dân tộc, từng xã hội. Đó là “thiên nhiên thứ hai” do con người
sáng tạo ra làm thành các giá trị vĩnh hằng của nhân loại.
- Tiếp cận từ cấu trúc, yếu tố hàng đầu của văn hóa là sự hiểu biết, khả
năng sáng tạo mà con người tích lũy được trong q trình học tập, lao động và
đấu tranh. Nhưng sự hiểu biết chỉ trở thành văn hóa khi nó trở thành nền tảng
cho hành vi ứng xử của con người trong các quan hệ của con người với xã
hội, với tự nhiên, với bản thân mình.
- Theo quan điểm giá trị văn hóa là trình độ phát triển các quan hệ nhân
tính của một xã hội, của mỗi con người, nó được cộng đồng khẳng định thành
một hệ giá trị mà chuẩn mực cơ bản là: Chân, Thiện, Mỹ.
- Theo chuẩn mực cơ bản này, ta phân biệt được cái gì là văn hóa, cái gì
là phản văn hóa, vơ văn hóa thể hiện ở ba cặp phạm trù cơ bản: Đúng - Sai,
Thiện - Ác, Đẹp - Xấu.
Cốt lõi của các giá trị văn hóa là Hệ tư tưởng (Hệ tư tưởng là sự phản
ánh lợi ích giai cấp dưới hình thức lý luận, cho nên nó mang bản chất giai
cấp. Hệ tư tưởng là hệ thống những tư tưởng và quan điểm lý luận thể hiện sự
nhận thức và đánh giá hiện thực xung quanh xuất phát từ những lợi ích xã hội
nhất định. Hệ tư tưởng mang tính lý luận nghĩa là hệ thống hóa một cách duy
lý, nó khác với tâm lý xã hội, gắn liền với cảm giác sống của ý thức đời
3
thường. Hệ tư tưởng gồm các tư tưởng và quan điểm về chính trị, kinh tế, xã
hội, pháp quyền, tơn giáo, đạo đức, thẩm mỹ, triết học…
Hệ tư tưởng là cốt lõi của các giá trị văn hóa, vì nó giữ vai trị kết dính,
định hướng các chuẩn mực giá trị của các cộng đồng văn hóa. Văn hóa biểu
hiện trong các giá trị cơ bản, trong các động cơ, niềm tin khi con người ứng
xử trong mọi hoạt động, mọi lĩnh vực đời sống. Do đó, ta có thể nói đến: Văn
hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa lao động, văn hóa doanh nghiệp, văn
hóa doanh nhân, văn hóa giao tiếp, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa sinh thái, văn
hóa tơn giáo, văn hóa gia đình.
2. Vai trị của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội
Nói văn hố là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng lực
bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do đó,
khái niệm văn hố chứa đựng tính chất nhân văn. Cơ sở của mọi hoạt động
văn hoá là khát vọng hướng tới Chân, Thiện, Mỹ. Vì văn hố là sự phát huy
các năng lực bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người,
nên văn hố có trong tất cả các hoạt động của con người. Cũng từ quan niệm
bản chất văn hoá trên, chúng ta nhận thức được vị trí, vai trị đặc biệt quan
trọng của văn hóa.
- Văn hóa là mục tiêu phát triển của kinh tế - xã hội và của đất nước.
Văn hóa thể hiện trình độ được vun trồng ngày càng cao, ngày càng toàn diện
của con người và của xã hội, khiến con người, xã hội ngày càng đổi mới tiến
bộ, tiến tới cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản
chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng được bồi
dưỡng phát huy và trở thành hệ giá trị cao đẹp và chuẩn mực của toàn xã hội.
Mục đích này là khát vọng của tồn nhân loại. Đây cũng là mục tiêu lý tưởng
phấn đấu của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Văn hóa là động lực phát triển vì văn hóa kết tinh, khơi dậy và nhân lên
mọi tiềm năng sáng tạo của con người.
Trong thời đại ngày nay, để phấn đấu đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh
khơng chỉ phụ thuộc vào nhiều hay ít lao động vốn, kỹ thuật, công nghệ, tài
4
nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm
năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong
các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong ý chí tự cường và khả năng hiểu
biết, trong tâm hồn đạo lý, lối sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của
cả cộng đồng. Để văn hóa trở thành động lực thì giải pháp của mọi giải pháp
phải hướng vào xây dựng và phát triển nguồn nhân lực; các chính sách, cơ
chế cho phát triển phải hướng vào tạo điều kiện, cơ sở cho các yếu tố cấu
thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người. Văn
hóa trong lãnh đạo, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong sản xuất kinh doanh,
văn hóa trong giao tiếp, văn hóa sinh hoạt gia đình và ngồi xã hội, văn hóa
trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, văn hóa
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội con người ngày càng cao bao nhiêu thì
khả năng phát triển kinh tế - xã hội, phát triển của đất nước càng trở nên hiện
thực bấy nhiêu.
- Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Văn hóa phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan, chủ quan, của các điều
kiện bên trong và bên ngoài đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, văn hóa dựa vào chuẩn mực của cái đúng,
cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nâng cao tay nghề sản xuất hàng hóa với năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh ngày càng cao. Văn hóa doanh
nhân, văn hóa doanh nghiệp hướng dẫn, động viên các doanh nghiệp cạnh
tranh lành mạnh, chủ động liên kết, hợp tác để phát triển với sức mạnh của
các giá trị văn hóa, mới có khả năng hạn chế, đẩy lùi tác động tiêu cực của cơ
chế thị trường. Trong thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế, văn hóa góp phần tăng
cường sự hiểu biết, mở rộng giao lưu hợp tác về nhiều mặt giữa nước ta với
các nước khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Trong lĩnh vực kinh tế, mở
cửa hội nhập kinh tế là để tăng cường hợp tác, liên kết, liên doanh với nước
ngoài, song mọi yếu tố ngoại sinh như: Vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý và thị trường nước ngồi… chỉ có thể biến thành động lực
5
bên trong của sự phát triển nếu chúng được vận dụng phù hợp với các yếu tố
nội sinh như là yếu tố trọng tâm, tức là con người Việt Nam với truyền thống
văn hóa, đạo đức, tâm hồn, lối sống dân tộc Việt Nam. Ở đây, văn hóa dân tộc
phải đóng vai trị định hướng, điều tiết để mở cửa hội nhập, nhưng vẫn giữ
vững độc lập chủ quyền, xây dựng được nền kinh tế độc lập; hợp tác với bên
ngồi nhưng khơng bị người ta lợi dụng biến mình thành kẻ đi vay nặng lãi,
thành nơi cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mạt, thành nơi tiêu thụ hàng
hóa ế thừa, thành “bãi rác cơng nghệ lạc hậu”, nơi tiếp nhận lối sống không
lành mạnh, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
Từ nhận thức sâu sắc nội hàm của văn hóa và vai trị của văn hóa trong
sự nghiệp đổi mới tồn diện đất nước, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã tạo cơ sở lý luận cho
Đảng ta trong Nghị quyết Trung ương 9 đã bổ sung, phát triển 3 quan điểm
chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 5 là:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu động lực phát
triển bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị,
xã hội.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc
trưng: Dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng
lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ
vai trị quan trọng.
Cũng trên cơ sở nhận thức sâu sắc quan niệm về văn hóa và vai trị của
văn hóa trong thời kỳ phát triển mới, trong Nghị quyết Trung ương 9, Đảng ta
đã hình thành mới 2 quan điểm chỉ đạo rất đặc sắc - đây là bước phát triển
mới trong tư duy lý luận về văn hóa của Đảng ta đó là: quan điểm: Phát triển
văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con
người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân
6
ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết cần cù, sáng tạo và quan điểm: xây dựng
đồng bộ mơi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trị của gia đình, cộng
đồng. Phát triển hài hịa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn
hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Sự hình thành hai quan điểm chỉ đạo mới này cũng trên cơ sở nhận rõ
những yếu kém, hạn chế trong việc xây dựng con người và xây dựng mơi
trường văn hóa thời gian qua. Đúng như Nghị quyết Trung ương 9 đã chỉ rõ:
“So với những thành tựu trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, chưa đủ
để tác động có hiệu quả xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng… Mơi trường văn hóa cịn tồn
tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai trái với thuần phong mỹ tục, tệ nạn xã
hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng”. Và đây cũng là một trong những
nguyên nhân của “kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng, hiệu quả sức
cạnh tranh thấp”. Nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước trong
khu vực và thế giới chưa được đẩy lùi mà cịn có chiều hướng gia tăng.
Hai quan điểm chỉ đạo trên đây, đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền và tồn
bộ hệ thống chính trị khi triển khai thực hiện phải quán triệt và xử lý tốt mối
quan hệ biện chứng giữa xây dựng kinh tế với phát triển văn hóa, phải xây
dựng và thực hiện đồng bộ chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách
kinh tế trong văn hóa, đảm bảo cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động
kinh tế, thúc đẩy các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp
phát triển văn hóa. Việc xây dựng các mục tiêu giải pháp kinh tế phải gắn với
các mục tiêu giải pháp văn hóa, chăm lo con người, nêu cao đạo đức trong sản
xuất kinh doanh. Xây dựng văn minh thương nghiệp, văn hóa kinh doanh, văn
hóa sinh thái…
Do đó, các lĩnh vực văn hóa như: Giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, văn học, nghệ thuật, báo chí truyền thơng, di sản văn hóa, thể chế, thiết
chế văn hóa, văn hóa tơn giáo, giao lưu văn hóa và tất cả các thành tố của môi
7
trường văn hóa (gia đình, các cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện, đơn vị
lực lượng vũ trang, các bản làng, phường, xã…) trong chương trình hoạt động
của mình phải hướng tới hiện thực hóa mục tiêu chung: Xây dựng nền văn
hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện hướng đến Chân - Thiện Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học để văn hóa
thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; là sức mạnh nội
sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
3. Thực trạng và giải pháp nâng cao văn hóa con người ở Việt Nam
hiện nay
Khi ta nói đến nền văn hóa là nói về cái to lớn, vĩ mơ, nhưng vẫn cịn
trừu tượng. Trong cái vĩ mơ ấy, nhất thiết phải có, phải xuyên suốt, đầu tiên
và cuối cùng, phần cốt lõi quan trọng nhất của văn hóa, là con người, từng
con người, từng cuộc đời, những con người, với nhân cách của họ. Cộng
nhiều người lại, với quan hệ xã hội của họ với nhau, thành một dân tộc, một
xã hội. Để đánh giá văn hóa thế nào thì quan trọng nhất là xem thử con người
với nhân cách, đạo đức xã hội ra sao.
Từ khi nước ta tiến hành đổi mới đến nay, về văn hóa và con người, Việt
Nam đã có nhiều mặt tiến bộ đáng kể. Đời sống vật chất và tinh thần có nhiều
mặt khá hơn trước; giáo dục phát triển mạnh về quy mô, số lượng, mạng lưới,
trình độ học vấn của nhân dân cao hơn, đã phổ cập trung học cơ sở và xóa mù
chữ trên toàn quốc; con người ngày càng tiếp cận nhiều hơn với các nguồn
thông tin đa dạng và nhiều chiều, từ đó mà kiến thức và nhận thức nhiều mặt
đã nâng lên. Vấn đề con người và quyền con người được quan tâm hơn, thể
hiện cả trong Cương lĩnh, trong Hiến pháp và luật pháp. Dân chủ có những
mặt tiến bộ đáng kể do nhận thức của các cấp và trình độ dân trí được nâng
lên, chịu sự tác động của thông tin. Tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc cơ
bản được giữ vững; các phong trào xóa đói giảm nghèo, uống nước nhớ
nguồn, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo, từ thiện, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở... đạt những kết quả đáng ghi nhận; các ấn phẩm văn học, nghệ thuật có
8
phát triển về số lượng, quy mô phát hành, phong phú về đề tài và phương thức
thể hiện...
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại nhất là đạo đức xã hội có nhiều mặt xuống
cấp, trong đó, có mặt nghiêm trọng đáng báo động. Tiêu cực và tội phạm gia
tăng. Nạn cướp của, giết người, hãm hiếp và buôn bán phụ nữ, trẻ em; sự giả
dối, lừa gạt, hàng giả, thuốc chữa bệnh giả, thực phẩm độc hại; buôn bán ma
túy, phá rừng, đổ chất độc hại ra môi trường, tội phạm là phụ nữ và trẻ em tăng
lên. Nạn tham nhũng chưa được đẩy lùi mà có mặt cịn phức tạp và nghiêm
trọng hơn, gây nhức nhối, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương
và mấy năm gần đây quyết liệt hơn trong chỉ đạo cụ thể. Việc chạy chức, chạy
quyền, chạy tội, chạy dự án còn diễn ra phức tạp. “Văn hóa phong bì” cịn khá
phổ biến. Kinh tế thị trường còn nhiều hoang dã, chụp giật. Các biểu hiện lợi
ích nhóm, lũng đoạn kinh tế rất đáng lo ngại, về mặt nào đó có hiện tượng
giống như tình hình ở nhiều nước trong thời kỳ tích lũy tư bản, điều này nếu
không kịp thời ngăn chặn một cách hiệu quả để phát triển thì sẽ dẫn đến chệch
hướng khỏi mục tiêu XHCN và làm cho đất nước lún sâu trong bẫy thu nhập
trung bình, mà rồi sẽ mất nhiều chục năm để vùng vẫy thoát ra. Một bộ phận
khơng nhỏ cán bộ, đảng viên thối hóa, trong đó có cả cán bộ trung, cao cấp
như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã chỉ ra. Các tệ nạn tiêu cực xảy ra ở
hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả ở những nơi đáng ra phải luôn
trang nghiêm, trong sạch (như nơi nắm cán cân công lý, bảo vệ pháp luật, nơi
dạy người, nơi cứu người, nơi truyền bá các giá trị nhân văn, nơi tham mưu cấp
chiến lược, nơi thiêng liêng về tâm linh, tín ngưỡng, thờ tự).
Tình trạng đạo đức xã hội sa sút có nhiều nguyên nhân. Rất đáng lưu ý là
hệ giá trị bị đảo lộn về vị trí, thang bậc. Nhân cách đáng ra phải ln ở vị trí
hàng đầu, trung tâm thì trong nhiều trường hợp đã xuống hàng thứ yếu, sang
bên cạnh, trong khi đồng tiền lại lên ngôi, chi phối nhiều mặt, nhiều việc. Vì
tiền, con người ta đã vi phạm đạo đức, kể cả làm việc ác. Nhưng vì sao mà hệ
giá trị lại bị đảo lộn? Đương nhiên có lý do từ mặt trái của cơ chế thị trường,
nhưng không thể đổ lỗi cho cơ chế ấy, bởi vì nó là vậy, có nhiều mặt tích cực,
9
tạo động lực phát triển, sự lựa chọn cơ chế thị trường là đúng, và có một số
mặt tiêu cực cần phải phòng tránh. Khuyết điểm đáng lưu ý là khi bước vào
kinh tế thị trường, chúng ta chưa lường hết sự phức tạp, tác hại và nhất là
chưa có giải pháp hữu hiệu chủ động phòng tránh để hạn chế tác hại bởi mặt
trái của cơ chế ấy. Nói cách khác, chưa tạo ra được những cơ chế quản lý hữu
hiệu để hạn chế tác hại bởi mặt trái của cơ chế thị trường. Mặt khác, sự tác
động từ mặt trái của cơ chế thị trường lại trong điều kiện Đảng ta cầm quyền,
cán bộ, đảng viên nhiều người có quyền lực, được giao quản lý tài nguyên, tài
sản, tài chính, dự án và các mặt quan trọng của đời sống xã hội, mà bản thân
quyền lực thì mặt trái của nó là làm thối hóa con người khi sử dụng nó nếu
như khơng có cơ chế tốt để kiểm sốt quyền lực, để lựa chọn cán bộ có “đức
trọng” mới giao “quyền cao”, để giám sát nhân cách những người có chức, có
quyền, dù lớn, dù nhỏ. Khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý, sự tác động từ
mặt trái của cơ chế thị trường cộng hưởng với mặt trái của cơ chế quyền lực
như hai con ngựa bất kham. Trong khi cơ chế quản lý, giám sát, kiểm soát kể
cả đối với kinh tế và đối với quyền lực còn nhiều sơ hở, khiếm khuyết. Việc
tự rèn luyện nhân cách của từng người không thường xuyên liên tục, khơng
gương mẫu, tức là chưa đủ độ chín về văn hóa; và kể cả khuyết điểm trong
giáo dục đạo đức, liêm sỉ, trong lựa chọn, bố trí và sử dụng cán bộ.
Để khắc phục tình hình nói trên, tới đây, việc trước tiên là tiếp tục nhận
thức sâu hơn tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa, đạo đức trong đời sống xã
hội, trong xây dựng hệ thống chính trị. Đại văn hào Macxim Gorky đã có lần
nói, đối với ơng, khi nghe nói văn hóa lâm nguy cịn đáng sợ hơn là Tổ quốc
lâm nguy. Về tầm sâu xa, ông nói đúng. Nếu Tổ quốc lâm nguy mà văn hóa
cịn bền vững thì người ta sẽ giữ được Tổ quốc, lấy lại được Tổ quốc khi đã
mất; còn nếu văn hóa lâm nguy thì chẳng những mất Tổ quốc mà cịn mất cả
dân tộc.
Nhìn lại các triều đại phong kiến Việt Nam thấy rằng, phần lớn các triều
đại khi mới lên được nhân dân ủng hộ, lập được nhiều cơng tích lớn, có ý
nghĩa lịch sử, nhưng sau đó khơng lâu thì suy thối về văn hóa, đạo đức trong
10
đội ngũ quan chức và trong triều đình, dẫn đến sụp đổ. Tiếp theo, triều đại
khác lên thay rồi cũng lặp lại như vậy. Mỗi khi thối hóa đạo đức trong đội
ngũ quan lại thì dẫn đến đạo đức xã hội suy đồi, trật tự xã hội rối ren. Một nửa
số triều đại phong kiến chỉ tồn tại trên dưới vài chục năm, rồi sụp đổ ngay
trong đời vua thứ nhất, thứ nhì. Nhà Lý và nhà Trần trị vì dài nhất, mỗi triều
đại trên dưới 200 năm, là nhờ biết chăm lo xây dựng văn hóa trong chính trị
“dân là gốc”; mặc dù vậy, cuối cùng cũng do thoái hóa mà suy sụp. Liên Xơ,
thời kỳ đầu, xây dựng chính quyền của dân, được nhân dân ủng hộ, đã làm
nên nhiều việc lớn lao như chiến thắng 14 nước đế quốc đến bao vây khi
chính quyền Xơ Viết cịn non trẻ, chiến thắng chủ nghĩa phát xít cứu nhân loại
khỏi thảm họa diệt chủng, đưa một đất nước từ chủ yếu cịn là nơng nghiệp
thành một nước cơng nghiệp hùng mạnh; từ một nước chủ yếu còn là thủ cơng
thành một nước có cơng nghiệp vũ trụ hàng đầu thế giới... Vậy mà, giai đoạn
sau, đã để thối hóa, từ một nhà nước của dân thành nhà nước của các quan
cai trị tham nhũng, dẫn đến đổ vỡ. Sự đổ ngã của Liên Xô chủ yếu là do “tự
đổ” chứ khơng phải hồn tồn do địch phá. Địch thì bao giờ mà chẳng phá, do
nó phá nên mới gọi là địch. Nhưng địch phá sao bằng các thời kỳ trước đó?
Phá là việc của địch, cịn đổ là việc của ta. Mặt trái của cơ chế quyền lực luôn
song hành, luôn bám theo trong mỗi bước đi từ lúc đã thành cơng. Khi chiến
thắng đến đỉnh cao thì cũng là lúc bắt đầu thua. Khi đã có trong tay tất cả thì
cũng là lúc bắt đầu mất dần. Bài học lịch sử là, các nhà nước của vua và tập
đoàn phong kiến, nhà nước của các quan cai trị, nhà nước do các tập đoàn tài
phiệt chi phối cuối cùng do thối hóa bởi mặt trái của cơ chế quyền lực mà đổ
ngã (tất nhiên cịn có cả lý do từ quy luật phát triển). Chỉ có nhà nước của
nhân dân, thật sự của nhân dân, mọi quyền lực đều của nhân dân, như tư
tưởng Hồ Chí Minh, thì mới bền vững lâu dài, vì nhân dân là vạn đại, việc
bảo vệ và phục vụ nhân dân thì lúc nào cũng cần thiết.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khóa XI về văn hóa đã nhấn
mạnh vấn đề cốt lõi, trung tâm của xây dựng văn hóa là xây dựng con người
có nhân cách, đạo đức tốt đẹp. Tinh thần ấy thể hiện xuyên suốt trong Nghị
11
quyết, từ tên gọi đến mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp. Đây là
điểm cần đặc biệt lưu ý để luôn bám chắc mục tiêu chủ yếu trong q trình
xây dựng văn hóa. Nền văn hóa là cái to lớn, nhưng cũng sẽ chưa có nghĩa gì
nếu như trong đó vấn đề con người - nhân cách khơng được quan tâm đúng
mức, để cho đạo đức suy đồi. Càng khơng thể hiểu sai rằng văn hóa là chuyện
“cờ, đèn, kèn, trống”, “nhảy múa, hát hò”, là cái đi sau, cái đuôi của kinh tế,
là chuyện mua vui.
Con người Việt Nam phải là những con người yêu nước. Trong xây dựng
văn hóa cần quan tâm thường xuyên việc xây đắp lòng yêu nước, tinh thần
dân tộc. Nhờ đặc điểm này của văn hóa Việt Nam mà chúng ta đã giữ được
nước, lấy lại được nước sau bao nhiêu lần bị kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều đến
xâm lược và đơ hộ; nhờ đó mà chúng ta khơng bị đồng hóa qua một nghìn
năm Bắc thuộc. Ngày nay cũng cần phải lấy tinh thần yêu nước, tinh thần dân
tộc làm bàn đạp và chỗ dựa để tiến lên, phát triển. Trong thế giới hội nhập,
với cuộc tiếp biến văn hóa ở quy mơ tồn cầu, chỉ có phát triển mới tồn tại
chính mình - một dân tộc thực sự độc lập.
Con người Việt Nam phải có lịng nhân ái. Trong quá khứ, người Việt
Nam đã biết yêu thương, đùm bọc nhau, nhất là mỗi khi có khó khăn, sóng
gió, hoạn nạn. Trong tương lai, để có một xã hội thật sự tốt đẹp như mong
muốn của Bác Hồ, của Đảng và nhân dân ta, lòng nhân ái cũng sẽ là nền tảng
quan trọng nhất cho sự tốt đẹp ấy trong đời sống xã hội.
Con người Việt Nam phải là những con người sáng tạo. Xưa nay, ta thấy
con người Việt Nam dễ thích nghi, có sáng kiến, nhưng bên cạnh đó lại có mặt
bảo thủ, chưa đi đến cùng trong công cuộc sáng tạo để phát triển. Điểm mạnh
nhất của văn hóa Việt Nam là văn hóa giữ nước. Điểm chưa mạnh (nếu khơng
muốn nói là điểm yếu) là văn hóa phát triển. Thực tế đã kiểm nghiệm điều đó.
Dân tộc ta trong những hồn cảnh hết sức khó khăn đã giữ nước rất kiên cường
và thành công; mặt khác, lịch sử Việt Nam khơng chỉ có chiến tranh mà cịn có
nhiều thời kỳ xây dựng hịa bình, nhưng đến nay vẫn là nước chưa phát triển,
rất vất vả trong quá trình phát triển. Từng con người Việt Nam phải phát triển,
12
một dân tộc Việt Nam phải phát triển, đó là mục tiêu quan trọng nhất của xây
dựng văn hóa. Muốn phát triển được thì phải đổi mới, phải sáng tạo, liên tục,
khơng ngừng, nhất thiết phải như vậy, khơng có cách khác.
Văn hóa là những giá trị thật, trong cuộc sống thực. Bệnh hình thức,
bệnh thành tích, sự giả dối không bao giờ tạo ra được các giá trị văn hóa, mà
ngược lại nó làm hỏng văn hóa. Con người Việt Nam phải là những con người
trung thực, có tự trọng, biết xấu hổ với cha ông, với đồng bào đồng chí và với
chính mình. Con người Việt Nam u nước, nhân ái, trung thực, sáng tạo... là
các đặc tính rất quan trọng đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI.
Mơi trường văn hóa là nơi con người sống và chịu sự tác động của nó
trong q trình hình thành nhân cách. Gia đình, cộng đồng, văn hóa trong
kinh tế, văn hóa trong chính trị có vai trị hết sức quan trọng đối với việc xây
dựng nhân cách. Cần phải có những gia đình hiếu học và chiếc nơi ni
dưỡng nhân cách. Cần phải có một nền kinh tế phát triển bền vững, lành
mạnh, hiệu quả, trong đó những người lao động được tơn trọng, khơng bị
phân hóa giàu nghèo bất hợp lý, khơng bị lợi ích nhóm (theo nghĩa xấu) chi
phối, có cơ chế quản lý tiên tiến, đủ sức hạn chế “yêu quái” từ mặt trái của cơ
chế thị trường. Cần có một nền chính trị dân chủ thấm đẫm văn hóa “dân là
gốc”, nói cách khác là một nền “dân trị”, trong đó dân thật sự là chủ, làm chủ,
quyền lực là của nhân dân, cán bộ là những người hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân, kính trọng và lễ phép với nhân dân; có cơ chế kiểm sốt quyền lực
đủ mạnh để hạn chế một cách hiệu quả mặt trái của con ngựa bất kham. Đó là
điểm quan trọng nhất về xây dựng văn hóa chính trị. Khơng thực hiện thành
cơng điều đó thì khơng thể có CNXH hiện thực được, dù chúng ta có viết, có
hơ khẩu hiệu nghìn lần. Trong nền chính trị ấy, và để xây dựng nền chính trị
ấy, cần có Đảng là bộ tham mưu chiến lược, là “con nịi” của dân tộc, là một
Đảng chân chính, trong sạch, “đạo đức và văn minh”, “trí tuệ, danh dự và
lương tâm” như cách nói của Hồ Chí Minh và Lênin. Mơi trường văn hóa tốt
đẹp là một mơi trường mà khi tiếp cận với nó, sống trong đó, con người ta sẽ
tốt hơn lên, trưởng thành, hoàn thiện và hạnh phúc hơn. Một nền văn hóa tốt
13
đẹp do con người tạo ra và đến lượt nó sẽ là một mơi trường văn hóa khổng lồ
tác động trở lại tạo ra những con người có nhân cách tốt đẹp. Hội nghị Trung
ương 5 khóa VIII đã có chủ trương xây dựng một nền văn hóa “tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc”. Kế thừa và tiếp tục phát triển tinh thần ấy, Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI đã lưu ý các đặc trưng của một nền văn hóa Việt Nam
là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Dân tộc ta nhất quyết phải phát
triển và phải là Việt Nam; với một nền văn hóa giàu tính nhân văn, để trong
đó con người đẹp hơn và được hạnh phúc; với một chế độ dân chủ để ổn định
bền vững và có sức mạnh tiến lên; với một nền khoa học phát triển để dân tộc
có thể tiến cùng thời đại.
Hoạt động văn hóa là hoạt động của con người nhằm phát triển, sáng tạo,
lưu giữ và truyền bá các giá trị nhân văn, “Chân - Thiện - Mỹ”. Nếu hoạt
động kinh tế chủ yếu là nhằm tạo ra thu nhập thì hoạt động văn hóa chủ yếu là
nhằm tạo ra giá trị nhân văn. Các hoạt động văn hóa có vai trị hết sức quan
trọng đối với việc xây dựng con người, hình thành nhân cách. Trung ương
cũng đã có Nghị quyết 29 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo
đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”. Theo đó, phải chuyển nền
giáo dục từ chủ yếu là truyền thụ kiến thức sang xây dựng nhân cách, phát
triển năng lực; phát triển một nền giáo dục mở, gắn với xã hội học tập. Đây là
quan điểm đổi mới rất quan trọng, và đúng hướng, phù hợp với xu thế khách
quan. Phần lớn nhân cách của con người được hình thành ở giai đoạn đầu đời,
trong tuổi học sinh, sau này lớn lên sẽ tiếp tục bổ sung, hồn thiện, nhưng về
cơ bản đã có nền tảng trước đó. Vì vậy, việc xây dựng nhân cách quan trọng
và hiệu quả nhất là ở lứa tuổi học trò, nên giáo dục là việc trọng yếu trong xây
dựng văn hóa. Nhân cách phải là mục tiêu hàng đầu trong các chương trình
giáo dục phổ thơng, cần được thể hiện ở tất cả các môn học, nhất là khoa học
xã hội.
Đổi mới và đem đến những thành tựu to lớn nhưng mặt trái của kinh tế
thị trường cũng để lại khơng ít hệ lụy. Cơ chế khơng theo kịp "cơn lốc" hội
14
nhập, luật pháp chưa chặt chẽ, quản lý thiếu minh bạch... Những rào cản của
sự phát triển ngày càng lộ rõ khi lợi ích vật chất lơi kéo "một bộ phận khơng
nhỏ" thối hóa, biến chất. Vấn nạn tham nhũng ngày càng nhức nhối, trong
khi, tinh thần nhân văn, đạo đức xã hội bị rung lắc dữ dội… Báo cáo của
Chính phủ tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII thẳng thắn nhận định: "Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu; tác động
của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế chưa được ngăn chặn có
hiệu quả; nhiều biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong xã
hội"… Ở thời điểm hiện tại, những mặt mạnh và yếu của kinh tế thị trường đã
bộc lộ rõ. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và văn hóa ngày càng đặt ra nhiều
vấn đề và có thể nói dân tộc Việt Nam đang phải đối mặt với những thách
thức chưa từng có.
Xác định con người là yếu tố cốt lõi, là động lực của sự phát triển, Đảng
ta đặt nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam, trong đó nhiệm vụ trọng tâm
là từng bước xây dựng các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam.
Đồng thời tạo môi trường để phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực
sáng tạo, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân cùng ý thức tôn trọng pháp
luật, hiểu biết, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc… Gắn xây dựng con
người với xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, văn minh trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, Đảng ta đề cao nhiệm vụ xây dựng văn hóa
trong chính trị. Trong đó, chú trọng xây dựng văn hóa trong Đảng, văn hóa
trong các cơ quan nhà nước và các đồn thể. Cùng với đó là xây dựng văn hóa
trong kinh tế, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân…
Chủ động xác định một hệ giá trị cho Việt Nam cho hiện tại và tương lai
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bên cạnh những giải pháp cấp bách nhằm đẩy
lùi cái xấu, cái ác đang tha hóa con người, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức
xã hội; đồng thời khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam...
Thực trạng đó địi hỏi phải có những quan điểm chỉ đạo và chủ trương,
giải pháp mới về xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người, đặc biệt phải có
nhận thức mới về vai trị của văn hóa trong phát triển. Chính vì vậy Hội nghị
15
Trung ương 9 khóa XI (tháng 5-2014) đã nhất trí ban hành nghị quyết mới về
“Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước”.
Kế thừa, bổ sung và phát huy kết quả đạt được, Báo cáo Chính trị Đại hội
XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển
văn hoá, con người Việt Nam, đồng thời đề ra nhiệm vụ tổng quát: “Xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam
phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Trên cơ sở 6 nhiệm vụ, 4 nhóm giải
pháp của Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI, Nghị quyết Đại hội XII đã nghiên
cứu, sắp xếp tổng hợp lại thành 7 nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với giai đoạn
hiện nay và sắp tới, nhất là vấn đề xây dựng nhân cách, đạo đức con người.
Nếu như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, XI và các văn kiện của
Đảng trước đây xác định quan điểm xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội và
nói đến yếu tố con người như là một nguồn lực quan trọng trong phát triển, thì
Nghị quyết Đại hội XII đã bổ sung nhân tố xây dựng con người gắn với xây
dựng văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và con người là cặp đơi
biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ hưởng các
giá trị, sản phẩm văn hố. Ngồi ra, yếu tố con người đề cập lần này là những
con người rất cụ thể, con người phải có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực,
kỹ năng, trách nhiệm xã hội…, việc xây dựng con người phải thông qua hoạt
động thực tiễn, cụ thể của từng người, chứ khơng nói chung chung nữa.
Tại Đại hội XII của Đảng, khi nói về phát triển văn hóa và con người
Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Xây dựng mơi
trường văn hố lành mạnh, tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam
đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng
tạo; khoẻ về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tôn trọng, tuân thủ pháp luật”. Điều này có nghĩa phát triển văn hóa thì
khơng thể tách rời phát triển con người. Về mặt lý luận, nói tới văn hóa là nói
16
tới con người, vì vậy mọi hoạt động văn hóa, dù phát triển đa dạng, phong
phú như thế nào đều phải hướng tới, phải quy tụ vào mục tiêu xây dựng, ni
dưỡng con người.
Ngồi yếu tố văn hóa liên quan đến phát triển nhân cách và trí tuệ con
người thì Báo cáo chính trị Đại hội XII cũng đề cập những điểm rất mới đó là
văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị, đề cập đến chủ động hội nhập
quốc tế về văn hóa, phát triển cơng nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn
hóa…
Văn hóa chính trị, văn hoá Đảng cũng là một bộ phận của văn hóa dân
tộc, bộ phận tiên tiến nhất, ưu tú nhất, bởi: “Đảng là đạo đức, là văn minh”.
Văn hoá trong Đảng, văn hố trong chính trị càng gắn chặt, càng sâu sắc bao
nhiêu, thì hiệu quả mang lại cao bấy nhiêu, bởi trong bất kỳ thời đại nào, văn
hóa, nhân cách, đạo đức, nhân phẩm không thể tách rời con người.
Trong hội nhập văn hố, vấn đề là phải tìm hiểu yếu tố nào là truyền
thống, cốt lõi của văn hóa Việt Nam, trên cơ sở đó ta xây dựng cốt cách của
mình, đồng thời tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong
phú thêm văn hóa dân tộc. Cịn trong kinh tế, UNESCO từng chỉ ra rằng, nền
kinh tế nào mà chỉ quan tâm phát triển kinh tế, bỏ quên yếu tố con người, yếu
tố văn hóa thì sẽ dẫn đến hệ lụy là kinh tế khơng phát triển được mà xã hội
cũng có nhiều điều bất an. Bởi văn hoá là sư chắt lọc, là sự kết tinh, bồi lắng:
“Mưa dầm thấm lâu”, nhưng sự suy thoái của các giá trị truyền thống văn hố
thường diễn ra rất nhanh, nếu khơng có những kế sách đủ mạnh, đặc biệt là
những quốc gia đang trên đường hội nhập.
Có thể thấy mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế, chính trị và văn hóa
ngày càng chiếm vị trí đặc biệt trong đường lối xây dựng và phát triển đất
nước, thể hiện tầm nhìn sáng suốt của Đảng về quá trình phát triển bền vững
đất nước. Đây là điểm tưởng như không mới, song, thật sự là một việc vô
cùng quan trọng trong điều kiện xã hội hiện nay, nhằm thực hiện mục tiêu xây
dựng con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
17
Xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII không chỉ là nhiệm
vụ của riêng ngành văn hóa, mà là của tất cả các cấp, các ngành và của toàn
xã hội. Chúng ta phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc và triển khai nghiêm túc
những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, từ đó hướng các hoạt động văn
hóa, giáo dục, đào tạo cũng như hoạt động kinh tế, chính trị vào việc xây
dựng con người, làm cho yếu tố con người thực sự trở thành nhân tố quyết
định sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
18
PHẦN III. KẾT LUẬN
Để xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước, trước hết là xây dựng hệ giá trị Việt Nam, chuẩn giá trị Việt Nam.
Bởi lẽ bất cứ thời đại nào có hệ giá trị riêng có. Trước đây, ta đã có hệ giá trị
văn hóa nơng nghiệp - nơng thơn gắn với văn hóa làng xã và những giá trị đó
đã ủ ấm tinh thần dân tộc trong những dặm trường lịch sử. Tuy nhiên, hệ giá
trị văn hóa khơng bất biến mà cần có sự điều chỉnh phù hợp với mỗi giai đoạn
phát triển.
Để đất nước vững vàng trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập trong một thế giới phẳng, chúng ta cần xác lập một hệ giá trị mới:
Hệ giá trị văn hóa cơng nghiệp - đô thị - hội nhập. Định hướng phát triển văn
hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa có thể nhìn nhận là một bước chuyển về tư duy. Sau nhiều năm
đổi mới, chúng ta đã xác định trọng tâm của xây dựng văn hóa là xây dựng
con người với các đặc tính cơ bản như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo… Và để xây dựng văn hóa con người cần xây
dựng một hệ giá trị thích hợp để phát huy được những điểm mạnh và hạn chế
thói hư tật xấu của người Việt. Cùng với đó là chuẩn bị các yếu tố cần thiết để
chắt lọc thẩm thấu tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời loại bỏ các
"dị tật" ngoại lai.
Đổi mới vừa là yêu cầu, vừa là địi hỏi. 30 năm đổi mới, văn hóa Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn trên nhiều lĩnh vực và chúng ta cũng đã
có những bước chuyển lớn về tư duy văn hóa… Thế nhưng đổi mới văn hóa
vẫn chưa tồn diện. Nghị quyết của Đảng về văn hóa chưa thấm sâu vào đời
sống xã hội, nguy cơ mới hiện hữu cùng với những thói xấu đang "ăn mịn"
các giá trị nhân văn truyền thống, tạo ra các "khuyết tật xã hội", tác động tiêu
cực đến tiến trình phát triển của đất nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ…
Thiếu nền tảng vững chắc, đất nước không thể phát triển. Do vậy, xây dựng
hệ giá trị Việt Nam, xây dựng con người Việt Nam gắn với xây dựng mơi
trường văn hóa lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội phải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội , 1998.
2. Nghị quyết Đại hội khóa IX, X, XI, XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội .
3. Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên): Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001).
4. Tập bài giảng Bồi dưỡng kiến thức quản lý ngành Văn hóa - Thơng
tin, Trường Cán bộ quản lý Văn hóa - thơng tin, tập I, Hà Nội, 1999.
5. Dự thảo Chiến lược phát triển Văn hóa - Thơng tin đến năm 2001, Bộ
Văn hóa - thơng tin, Hà Nội, 2000.
20