Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

(Tiểu luận) môn kỹ năng làm việc nhóm chủ đề tìm hiểu bản sắc dân tộc tày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.3 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
----oOo----

MƠN KỸ NĂNG LÀM VIỆC NHĨM
CHỦ ĐỀ: TÌM HIỂU BẢN SẮC DÂN TỘC TÀY

NHÓM : 1
LỚP MHP:422000357510
GVHD: NGUYỄN KHÁNH HỒNG

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2022

0

0

Tieu luan


1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................


.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

0


0

Tieu luan


2
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Họ và tên
Nguyễn Thị Loan Anh
Trần Tiến Anh
Nguyễn Thị Lan Chinh
Lê Minh Chung
Nguyễn Lê Việt Cường
Nguyễn Vũ Hải Đăng
Nguyễn Ngọc Hồng Đoan
Nguyễn Thị Hân
La Thị Ngọc Hiền

Nội dung

Soạn PowerPoint
Tìm hình ảnh
Soạn PowerPoint
Tìm hình ảnh
Tìm hình ảnh
Tìm nội dung

Tìm nội dung

Tìm hình ảnh
Soạn Word + nội dung

Mức độ hồn thành
10/10
10/10
10/10
10/10
10/10
10/10
10/10
7/10
10/10

LỜI MỞ ĐẦU
Khảo cứu nhiều dịng họ người Tày ở Cao Bằng cho thấy, nhiều dòng họ người Tày
tại đây có nguồn gốc khác nhau, có thể là người Tày cổ trước đây còn gọi là người
Thổ (cư dân bản địa đã sinh sống từ lâu đời), có thể là Tày lưu quan (từ nơi khác
đến làm quan và ở lại) cũng có thể là người Kinh từ miền xi lên, người Hoa từ
Trung Quốc sang,….Điều đó chứng tỏ rằng, người Tày ngày nay có nhiều nguồn
gốc hồ hợp, cụ thể như: dòng họ Bế đều khai là dân tộc Tày, nhưng cụ tổ là người

Thanh Hoá lên Cao Bằng dạy chữ Nho rồi bén duyên với con gái dân tộc Tày và ở
rể tại Cao Bằng. Theo phong tục tập quán của người Tày, người chồng đến ăn
nghiệp bên vợ, con cái sinh ra phải mang họ vợ và họ của người chồng thường chỉ
còn một chữ đệm giữa họ và tên, con cái được xác định là người dân tộc Tày. Gia
phả các dòng họ Thân dân tộc Tày ở xã Bình Long, huyện Hồ An ghi lại, họ vốn là
người Nam Định, Hải Dương, Bắc Giang…
Ngôn ngữ của dân tộc Tày là tiếng Tày. Tiếng Tày có vị trí quan trọng và được sử
dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày của cư dân bản xứ. Song để biểu thị các
khái niệm xã hội, chính trị, pháp lý, khoa học…thì tiếng Tày phải vay mượn từ
tiếng Hán và đặc biệt từ tiếng phổ thông là tiếng Việt. Sự vay mượn được hình
thành trong thực tiễn đời sống nên phù hợp với quy luật, điều đó đã làm cho tiếng
Tày trở nên phong phú, có sức sống mãnh liệt, bền bỉ trở thành công cụ giao tiếp
trong cộng đồng cư dân người Tày xưa và nay.
Ngày nay truyền thống văn hóa dân gian ln được bảo tồn, khai thác và phát huy
trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, cùng với các tộc người khác trong tỉnh
3

0

0

Tieu luan


người Tày góp phần to lớn của mình trong cơng cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
phát triển quê hương Yên Bái ngày một giàu đẹp.

MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH ẢNH
LỜI NĨI ĐẦU
MỤC LỤC
I. NGUỒN GỐC LỊCH SỬ, SỐ LƯỢNG VÀ ĐỊA BÀN CƯ TRÚ
II. VĂN HOÁ VẬT CHẤT
1)Nhà ở
a) Cấu trúc của ngơi nhà
b)Những tập qn, tín ngưỡng liên quan đến dựng nhà mới
2)Trang phục
3) Văn hoá ẩm thực
4)Làng bản
5)Tập quán hôn nhân
6)Sinh đẻ
7)Nghi lễ tang ma
8)Quan niệm, tín ngưỡng
9)Văn hố dân gian
10)Lễ hội tranh đầu pháo.......................................................................................11
11)Phong tục tập quán
12)Nghề nghiệp
13)Những kiêng kỵ khi đến các bản làng dân tộc................................................16
14)Mục lục hình ảnh

Tài liệu tham khảo

0

0

Tieu luan



4
I. NGUỒN GỐC LỊCH SỬ, SỐ LƯỢNG VÀ ĐỊA BÀN CƯ TRÚ
- Nguồn gốc lịch sử:
Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất
trước Công Nguyên.
- Tên gọi khác: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao
- Cư trú: ở Việt Nam dân tộc Tày cư trú tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai,
Thái Nguyên... Tại tỉnh Thái Nguyên dân tộc Tày cư trú ở tất cả các huyện, thàn
- Số lượng:
Ở Thái Nguyên, năm 1999, dân tộc Tày có khồng 106.238 người, đứng thứ
hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm 10,15%) hiện đang có mặt ở tất cả các huyện,
thị xã, thành phố trong tỉnh, tập trung đơng nhất ở huyện Định Hố (41,1%) tiếp đến
là huyện Phú Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%)... và ít nhất là thị xã Sơng Cơng
(0,39%).
Dân tộc Tày tính đến năm 2009 tồn tỉnh có 123.197 người phân bố ở tất cả
các huyện, thành, thị xã tồn tỉnh. Tập trung đơng nhất ở huyện Định Hoá là 46.004
người, chiếm 37,3% số lượng dân tộc Tày toàn tỉnh; tiếp đến là Phú Lương: 20.863
người, chiếm 16,9%; TP Thái Nguyên: 19.312 người chiếm 15,7%; huyện Đại Từ:
15.654 người chiếm 12,7%; huyện Võ Nhai: 14.583, chiếm 11,8%... ít nhất là thị xã
Sơng Cơng: 889 người, chiếm 0,7%.
II. VĂN HOÁ VẬT CHẤT
1. Nhà ở:
a) Cấu trúc của ngơi nhà:
- Nhà sàn: Là loại nhà có từ lâu đời của người Tày. Trước đây, do còn nhiều
rừng nên họ chỉ dựng nhà bằng các loại nguyên vật liệu được lấy từ rừng như tre,
gỗ, lá cọ... Cách đây vài chục năm loại hình nhà sàn cột chơn là loại hình phổ biến.
Chỉ từ sau năm 1960, khi thành lập HTX nơng nghiệp, người ta mới có điều kiện
làm loại nhà sàn cột kê trên đá tảng. Phần sàn dùng cho người ở, phần gác để sấy
khô, cất giữ một số lương thực, thực phẩm và gầm sàn dùng để nhốt gia súc, gia

cầm, chất củi, để nông cụ, cối giã và đan lát.
Người Tày khơng tính quy mơ ngơi nhà bằng số gian mà tính bằng cột chính, chẳng
hạn loại nhà 8 cột, 10 cột, 12 cột... Mặt bằng nhà có dạng hình chữ nhật hay dạng
gần hình vng, trong đó dạng gần hình vng là phổ biến. Ngay cả một số gia đình
người Sán Chay, Nùng ở Phú Lương và Định Hoá cũng chịu ảnh hưởng kiểu nhà
của người Tày.
Đối với loại nhà sàn có cấu trúc dạng vì kèo ba cột như trước đây thì mỗi vì
kèo được bố trí ba cột, hai chiếc xà ngang và một bộ vì kèo. Với loại nhà này xung
quanh thường được bưng bằng ván, bằng phên hay liếp tre còn mái lợp bằng lá cọ.
Đây là loại nhà cổ nhất nhưng hiện nay khơng cịn thấy phổ biến nữa.
5

0

0

Tieu luan


Khoảng 20 năm trở lại đây, nhất là sau đổi mới rất nhiều gia đình người Tày ở Thái
Nguyên bắt đầu chuyển từ nhà sàn xuống ở nhà nền đất. Nguyên nhân chủ yếu là do
hiện nay thiếu nguyên liệu gỗ để làm nhà, rừng khơng cịn nhiều để khai thác nữa.
Cấu trúc nhà nền đất của người Tày ở đây có đặc điểm là hầu hết các ngơi nhà
đều được xây dựng khá cao.
b) Những tập quán, tín ngưỡng liên quan đến dựng nhà mới.
- Trước hết: phải xem hướng làm nhà. Tránh làm nhà ở cạnh sơng vì theo quan
niệm của họ nước sông suối động chạm đến tổ tiên, khơng có tài lộc. Tránh để mặt
nhà nhìn thẳng vào tảng đá vì như vậy khó giữ gìn của cải, làm ăn ít gặp may mắn.
Kỵ phía trước nhà có ngọn núi nào đó có hướng đâm thẳng vào nhà bởi đó là hướng
sát chủ, dễ bị chết oan.

- Kiêng kỵ khi làm nhà: Ngày và tháng khởi công đào đắp nền nhà cũng như
việc khởi công lấy nguyên vật liệu, ngày dựng nhà và ngày làm lễ vào nhà mới chọn
những ngày không xung khắc với tuổi của chủ nhà. Không chọn ngày khởi công
đào đắp nền nhà vào ngày hoả hay ngày có tiếng sấm đầu năm, ngày trùng với ngày
chết của cha mẹ bởi vì những ngày đó là ngày xấu khơng mang lại sự may mắn cho
các công việc làm nhà tiếp theo. Trong ngày đầu nhất thiết phải đốn lấy cột nóc.
Tuyệt đối không lấy những cây bị gãy ngọn, cây bị sét đánh để làm nhà vì họ cho
rằng những cây đó bị thần, ma làm hỏng lấy về làm nhà sẽ bị tai hoạ.
Sau khi nền nhà làm xong để nguyên một thời gian cho đất chặt lại chắc chắn
mới tiến hành các công đoạn dựng nhà. Ngày khởi công xây dựng nhà mới gia chủ
cũng phải tiến hành làm lễ cúng gia tiên và thổ thần.
- Nghi thức vào nhà mới: Ở đây người Tày làm đơn giản: chọn một nam ở họ
nội và một nữ ở họ ngoại. Những người này phải đạt tiêu chuẩn là uy tín, nhà khơng
có tang, gia đình hồ thuận, có cả con trai lẫn con gái, am hiểu phong tục. Trước hết
mỗi người cầm một bó đuốc đi vào nhà, nam đi trước nữ đi sau, khi đến bếp họ
chụm hai bó đuốc vào nhóm lửa và lên tiếng chúc gia đình may mắn, làm ăn phát
đạt, theo sau người nhóm bếp là anh em mang thóc, ống nước, ống mẻ và bình vôi
vào nhà mới. Bếp lửa cháy suốt ba ngày ba đêm khơng tắt.
Những tập qn, tín ngưỡng liên quan đến ăn ở trong ngôi nhà
Một trong những đặc điểm thể hiện rõ nét tập quán sinh hoạt trong nhà ở của
ngời Tày là cách bố trí giường ngủ. Nếu trong nhà chỉ có một đơi vợ chồng cùng
với các con cịn nhỏ thì chỉ đặt một chiếc giường ngủ ở trong buồng cạnh bếp sưởi.
Khi các con trai và con gái đến tuổi trưởng thành thì đặt thêm những chiếc giường
khác tại những vị trí đã được qui định. Trường hợp trong nhà có con trai lấy vợ thì
sẽ làm thêm một buồng ngủ, đối diện với buồng ngủ của con gái. Các con trai đã
trưởng thành được bố trí ngủ ở gian giữa hay ở gian bên cạnh nhưng thường là chỗ
gần với bàn thờ tổ tiên. Cùng với những qui định về chỗ ngủ, trong nhà cịn có
những qui định khá nghiêm ngặt. Thường ngày, bố chồng không được đi vào các
buồng ngủ của các cô dâu, không đến chỗ ngủ của các cô con gái đã lớn tuổi; cô dâu
không được vào buồng ngủ của bố chồng, anh em trai chồng đã có vợ. Bàn thờ gia

tiên được coi là chốn linh thiêng, kiêng sản phụ đi qua, không được treo những thứ
6

0

0

Tieu luan


được gọi là uế tạp như quần áo, đặc biệt là đồ mặc của sản phụ, tã lót của trẻ sơ
sinh...
2. Trang phục:
Y phục nữ: Bộ y phục cổ truyền của phụ nữ Tày ở Thái Nguyên gồm khăn, áo,
dây lưng và váy.
- Khăn: Thường màu chàm hoặc đen, làm tự loại vải tự dệt hoặc bằng vải láng
hoặc nhung đen. Khăn thường có hai loại, một loại đội đầu hình tam giác cân. Loại
thứ hai được dùng để vấn tóc, được cắt theo dạng hình chữ nhật có kích cỡ to nhỏ,
dài ngắn tuỳ theo bộ tóc của người sử dụng. Loại khăn này thường được làm bằng
nhung đen hoặc xanh chàm, khơng thêu hoa văn trang trí.
Áo cổ truyền thường được may bằng vải nhuộm chàm hoặc từ vải láng, phin đen
khơng trang trí, dài đến tận bắp chân, ống tay hẹp. Cổ áo to nhỏ tuỳ người sử dụng.
Khi mặc cài cúc ở bên nách phải. Ngoài chiếc áo dài một số người còn mặc bên
trong một chiếc áo ngắn khác với màu áo dài, được may như kiểu áo của người
Kinh.
- Váy và quần: Trước kia các cụ bà Tày mặc váy, nhưng hiện nay hầu hết phụ nữ
Tày ở Thái Nguyên đều mặc quần. Những chiếc quần họ mặc thường ngày cũng
như mặc trong nghi lễ đều có màu chàm đen. Hiện nay, do người Tày khơng cịn
trồng bơng dệt vải nữa nên quần mặc hàng ngày của họ chủ yếu được may khâu từ
vải chéo đen hoặc hoặc vải lụa hay láng đen. Khi mặc quần và áo được giữ chặt

bằng cách buộc dây lưng.
- Thắt lưng cổ truyền của người phụ nữ Tày là một tấm vải màu chàm hoặc màu
đen. Khi mặc váy hoặc quần hoặc quần và áo xong thì người ta mới quấn dây thắt
lưng nhiều vòng quanh eo sau đó buộc vắt ra phía sau.
- Giày: Thường ngày phụ nữ người Tày ít đi giày, chủ yếu đi dép, thậm chí đi chân
đất, mỗi khi lên sàn đều phải rửa chân. Chỉ trong những ngày lễ tết hoặc những
ngày trời lạnh họ mới đi giày vải. Ngày nay, trong những ngày lễ hoặc tết phụ nữ
thường đi giày nhung đen.
Y phục nam:
Từ lâu người đàn ông Tày ở Thái Nguyên đã mặc bộ y phục giống như người
Kinh, đầu cắt tóc ngắn, chân đi giầy hoặc dép, đội mũ nồi hoặc mũ lưỡi chai.
- Đồ trang sức: Không phong phú như những dân tộc khác. Trước đây người
Tày thích dùng đồ trang sức bằng bạc như hoa tai, vòng cổ, vịng tay, xà tích. Nam
giới đeo nhẫn bạc, các cụ ơng đeo vịng tay bạc, thanh niên có một thời bịt răng
vàng.
3. Văn hoá ẩm thực
Nguồn lương thực của người Tày ở Thái Nguyên khá phong phú chủ yếu là từ
các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi. Trước đây người Tày ăn xơi nếp là chính, cơm
tẻ được ăn ít hơn, khoai, sắn, đậu, bí... thường được dùng để nấu độn với gạo hoặc
dùng để chăn nuôi gia súc.
7

0

0

Tieu luan


Nguồn thực phẩm: chủ yếu là gà, lợn, vịt, ngan và dê, các loại rau trồng trên nương.

Ngồi ra cịn săn bắt hái lượm thêm để cải thiện đời sống.
- Các món ăn
Người Tày biết chế biến khá nhiều món ăn. Có món được kế thừa từ đời ơng
cha, có món tiếp thu từ việc giao lưu văn hố với các dân tộc anh em: cơm, xôi nếp,
cơm lam, cơm tẻ, các loại cháo, ngơ bung... các món giàu chất đạm và béo như xào,
rán, canh từ thịt...
Mỗi ngày người Tày ăn hai bữa chính: trưa, tối và hai bữa phụ là sáng và nửa
chiều. Tuỳ theo tập quán từng nới mà hai bữa phụ có thể là hai hay một bữa. Trong
một gia đình thường người ta ngồi ăn cùng mâm, phần đông là bố chồng và con dâu
không ngồi chung mâm. Khi nhà có khách thường chia thành nhiều mâm để ăn
uống, tuy nhiên hiện nay trong một nhà cũng đã có hiện tượng chia thành nhiều
mâm ăn uống.
- Uống, hút và ăn trầu.
Đồ uống thường chia thành hai loại: đồ uống thông thường: nước lã, nước chè,
nước lá và đồ uống có chất kích thích như rượu, nước hoa quả, thuốc nam.
Đàn ơng có thói quen hút thuốc lào, thuốc lá tự gieo trồng. Hiện nay người dân
ở Võ Nhai vẫn trồng cây thuốc lá nhưng họ không hút thuốc lá tự cuốn mà họ
chuyển sang hút thuốc lào hoặc thuốc lá bán bao.
Đến nay một số phụ nữ Tày ở Thái Nguyên vẫn ăn trầu, riêng lớp trẻ đã bỏ tập
quán này. Thành phần của trầu gồm trầu không, vôi, thuốc lào và vỏ cây.
- Phương tiện vận chuyển
Phổ biến nhất là gánh, dùng ngựa thồ, trâu bị kéo. Những bản ở ven sơng và
suối lớn thì dùng bè, mảng. Hiện nay ngồi các phương tiện trên cịn có xe đạp, xe
máy, cơng nơng.
4. Làng bản
Tổ chức mường của người Tày đã bị giải thể từ lâu, các hình thức tổ chức như
châu, tổng, xã được hình thành sớm, nhưng hiện nay đơn vị xã hội cơ sở của người
Tày hiện nay vẫn là bản. Người Tày ở Thái Nguyên thường tụ cư giữa vùng giáp
ranh giữa rừng và ruộng. Các bản của người Tày thường dựa lưng vào núi, hướng
xuống thung lũng. Mỗi bản thường có địa vực cư trú riêng. Quy mơ bản của người

Tày nhỏ, mỗi bản thường chỉ có khoảng 30 đến trên dưới 60 hộ. Mỗi bản thường có
nhiều chịm xóm nhỏ, phân bố tương đối biệt lập, đều hướng ra cánh đồng hoặc con
đường cái chạy qua.
Trong mỗi bản có những họ là gốc Tày cổ, có những họ là gốc Kinh bị Tày
hóa.
Xưa kia dưới chế độ thực dân nửa phong kiến các bản Tày thường nằm dưới
thiết chế quan phương như châu, tổng, xã, bản. Đôi khi những thôn bản lớn cũng
được cấu trúc thành một xã trong bộ máy nhà nước với người đứng đầu là lý trưởng.
Với những thơn bản nhỏ, chính quyền phong kiến thường ghép những vài thôn bản
8

0

0

Tieu luan


thành một xã đứng đầu là trưởng bản. Hiện tại mỗi xóm bản đều có một trưởng xóm
bản.
5. Tập quán hôn nhân:
Chế độ hôn nhân của người Tày trước đây xây dựng trên chế độ tư hữu về tài
sản, mang tính chất mua bán mơn đăng hậu đối. Người con trai bỏ tiền mua hiện vật
và người con gái về. Ngun tắc là cùng thờ tổ tiên thì khơng được lấy nhau nhưng
con chị em gái có thể lấy nhau được. Hơn nhân người Tày mang tính phụ quyền
cao.

Hình 1: Tái hiện nghi lễ Đám cưới của người
Tày qua ngôn ngữ Then
Tình yêu nam nữ được thể hiện qua các dịp hội hè hàng năm như Lồng Tồng (lễ

xuống đồng), các buổi chợ phiên, những ngày cưới của bạn bè...thể hiện qua những
bài hát đối đáp như lượn, phong slư... Trước cách mạng tháng 8 ở Thái Nguyên còn
tồn tại tục “trộm vợ” khi bố mẹ khước từ tình yêu của đôi trai gái, hay tục “ngủ
chết” phản kháng bố mẹ phản đối tình yêu của con.
Tồn tại chế độ một vợ một chồng từ lâu đời. Hiện tượng ngoại tình, hoang thai, ly
dị cũng rất ít xảy ra. Chồng chết, người phụ nữ phải ở lại chăm sóc bố mẹ chồng
một thời gian, sau 3 năm có thể đi lấy chồng. Người đàn ông được phép lấy vợ mới
sau khi tang vợ được 3 năm.
Nghi lễ cưới hỏi:
9

0

0

Tieu luan


Uớm hỏi, lễ nộp đồ thách cưới, lễ báo cưới và lễ cưới chính thức. Đặc biệt trong lễ
cưới chính thức, nhà trai nhất thiết phải có lễ vật là một số tấm vải cho mẹ đẻ của
vợ để trả công nuôi dưỡng, gọi là “vải ướt khô” khoảng 48 vuông kèm theo môt
hoặc hai đồng bạc trắng.
6. Sinh đẻ:
Khi người vợ có thai, người chồng kiêng chọc tiết lợn, kiêng đi viếng đám ma. Phụ
nữ Tày đẻ ngồi hoặc nằm trong buồng. Khi đứa trẻ ra đời dùng dao cắt rốn, cho
nhau đứa trẻ vào ống nứa dấu ở trong rừng khơng cho người lạ nhìn thấy. Sau khi
sinh người mẹ được chăm sóc và kiêng kỵ chu đáo, quá trình ở cữ người phụ nữ chỉ
ở trong buồng, kiêng tắm gội, không gần bếp lửa, nơi thờ cúng linh thiêng đặc biệt
là bàn thờ tổ tiên. Sản phụ chỉ được ra ngoài khi con so được 3 tháng, con rạ một
tháng. Khi đứa trẻ ra đời trước cửa nhà treo một cành lá xanh để báo cho người lạ

biết không được vào nhà.
7. Nghi lễ tang ma:
Gồm
nhiều
bước
phức
tạp
Sau khi tắt thở người chết được tắm rửa, mặc quần áo mới, liệm 7 lớp (nam), 9 lớp
(nữ). Thi hài được đặt ở gian giữa. Thày tào làm lễ nhập quan, làm lễ cúng dâng đèn
cho người chết biết đường đi. Kể từ lễ nhập quan, con cháu phải ăn chay, các chân
dường tháo rời khỏi mộng, vợ chồng phải cách ly, con trai khơng được cắt tóc.
Trước mỗi bữa ăn gia đình phải có mâm cơm để ở dưới chân quan tài mời linh hồn
người chết về ăn. Thầy tào thực hiện một số nghi lễ cúng phức tạp như: triệu tướng,
phá ngục, khai quan, rửa tội, tống phỉ... sau đó đưa người chết ra đồng lên rừng
chơn. Sau 3 năm người Tày làm lễ hết tang, linh hồn người chết được nhập vào bàn
thờ tổ tiên.

Hình 2: Đám tang người Tày ở Bắc Cạn
8. Quan niệm, tín ngưỡng:
Người Tày quan niệm vũ trụ có 3 thế giới lớn: Trời, đất và nước. Ở thế giới
tầng trời mỗi ngày dài bằng một năm. Theo quan niệm của đồng bào con người ở
mặt đất sống gần gũi với con người ở tầng trời hơn là với người ở thế giới nước. Có
thể du ngoạn đưa hồn người trần theo chim én lên thăm cảnh tiên.
Từ mặt đất cũng có đường xuống dưới nước, nhưng muốn xuống phải có người
ở dưới nước ban phép hoặc mách bảo bí quyết.
Ngồi ra, người Tày còn phân biệt hai thế giới là thế giới thực của con người
và thế giới vơ hình của thần thánh, ma quỷ hay còn gọi là xứ người, xứ ma. Cõi
người có kẻ tốt người xấu và cõi ma cũng vậy. Các ma lành là tổ tiên, thổ công, ma
10


0

0

Tieu luan


bếp, ma chuồng, thần nông, mẹ hoa. Ma dữ là ma chết bất đắc kỳ tử, ma chết yểu
thường gây hoạ. Các ma lành đơi khi cũng gây khó khăn cản trở cho con người nên
phải cúng.
Ma thuật: Trước đây trong dân gian người Tày cho rằng co những người nhờ tu
luyện hoặc do khả năng đặc biệt nào đó mà có thể điều khiển các loại ma hoặc tự
mình có ma lực. Đó là “bùa”, ma thuật. Theo đồng bào muốn yểm bùa được phải
học và không phải ai cũng có thể làm được.
Thể xác và linh hồn: Người Tày ở Thái Nguyên cho rằng con người có hai
phần là phần xác và phần hồn. Phần xác có hình khối, có thể nhìn thấy bằng các
giác quan. Phần hồn là phần vơ hình con người khơng nhìn thấy được. Phần hồn của
nam có 7 khoắn (vía theo cách gọi của người Kinh), nữ có 9 khoắn. Các khoẳn
thường liền với xác, khi người chết các khoắn lìa hẳn khỏi xác và biến thành phỉ.
- Thờ cúng: Người Tày thờ cúng ma tổ tiên. Ban thờ đặt ở gian giữa, có số bát
hương hoặc ống hương tuỳ theo gia cảnh và sự thờ cúng của từng nhà. Mùng một
ngày rằm trước đây cũng không được thắp hương hoa quả. Những ngày lễ tết cúng
những thức ăn quý hiếm. Người Tày ở Thái Nguyên chỉ đặt lên bàn thờ thịt gà,
ngan, ngỗng khơng đặt thịt trâu, bị, ngựa, chó lên ban thờ. Ngồi thờ tổ tiên cịn thờ
ma bếp, ma chuồng, ma thương. Mỗi bản đều có miếu thờ thổ cơng ở đầu dẫn lối
vào bản.
9. Văn hoá dân gian:
- Trong đời sống người Tày Thái Nguyên loại văn học truyền miệng chiếm vị
trí quan trọng nhất. Các thể loại như:thần thoại, cổ tích, truyện cười trong đó yếu tố
thần được phản ánh đậm nét qua hình tượng “pụt” (Bụt).Người Tày có một nền văn

nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ, ca, các truyện cổ tích, truyện cười
dân gian, múa nhạc...
- Dân ca Tày bao gồm: lượn, có lượn cọi, lượng Slương, phong slư (thơ), thơ lẩu và
hát then.
+ Hát then: Hiện nay, Then là một tài sản tinh thần quan trọng của bộ phận dân
cư người Tày Thái Ngun.

Hình 3: Đặc sắc nghệ thuật hát
Then, đàn Tính của người Tày ở Cao Bằng
11

0

0

Tieu luan


Then là loại hình nghệ thuật tổng hợp có văn học, âm nhạc, múa, mỹ thuật. Then
chứa đựng trong bản thân nó nhiều yếu tố của tơn giáo ngun thủy. Then được chia
làm nhiều loại: Then Cầu an, tổ chức vào đầu năm để cầu sự yên bình may mắn cho
một năm mới; Then Chữa bệnh, tổ chức khi nhà có người ốm; Then Cầu mùa là một
nghi lễ nhằm cầu xin các vị thần thiên nhiên cho mưa thuận gió hịa, cho mùa màng
tươi tốt, ngồi ra cịn Then chúc tụng, Then cấp sắc.
Chuẩn bị cho một đám Then khơng chỉ cơng phu về mặt lễ vật mà cịn rất kỹ lưỡng
về mặt lễ nghi và nghệ thuật. Trong ba ngày ba đêm số lượng những điệu hát, điệu
múa phục vụ một đám lẩu then rất lớn. Mỗi đêm hát Then là một hành trình xuất
phát từ các cửa Thổ cơng, Thành hồng để đến Ngọc hồng Thượng đế, xuống đến
Long cung Thủy phủ để cầu xin những điều tối hệ trọng. Tùy từng hoàn cảnh cụ thể
mỗi đám then có một đường then (trình tự then) riêng biệt trong lời then gọi đó là

12 cửa ải, 12 cung. Trình tự tên gọi các cung, các cửa ải có thể khác nhau nhưng có
một số cửa đường Then nào cũng có đó là các cửa: Thổ Cơng, Tổ tiên, Tổ sư, Khảm
hải, Dả dỉn, chợ Tam Quang, Cửa hạn, Tam bảo và Ngọc hoàng. Về mặt nội dung,
12 cửa Then là những lớp diễn xướng, thần thoại, truyền thuyết, những lớp truyện
kể về phong tục, tập quán, cuộc sống của người Tày. Về mặt nghệ thuật Then hấp
dẫn người nghe bằng cách dẫn chuyện khéo léo tả cảnh, tả người sinh động. Về mặt
nghệ thuật trình diễn Then hấp dẫn ở nghệ thuật tổng hợp giữa tính thiêng của nghi
lễ với lời hát, điệu múa và âm nhạc. Sự huyền bí của nghi lễ sự bay bổng của lời ca,
sự náo nhiệt của âm nhạc và vũ điệu, sự giao hòa giữa người diễn và người xem tạo
nên sự thăng hoa kỳ lạ cho Then.
Then Tày không chỉ được hát trong các hoạt động nghi lễ với mục đích tín ngưỡng
mà cịn tồn tại trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Tày với mục đích giải
trí. Người hành nghề Then chuyên nghiệp người Tày gọi là Then sluc (nghĩa là then
chín) bắt buộc phải thờ Tổ sư Then, phải làm Lễ Cấp sắc, làm Then với mục đích
tín ngưỡng theo những đường Then cố định của buổi lễ, trong những khung cảnh
nghi lễ. Với những người yêu thích Then người Tày gọi là Then đíp (then sống) họ
có thể hát Then bất cứ lúc nào. Người làm Then sống có thể ứng khẩu hoặc mượn
làn điệu Then để sáng tác lời mới.
- Nhạc cụ: đàn tính, kèn, sáo, nhị, chũm choẹ, trống, thanh la...
10. Lễ hội tranh đầu pháo
Hình 4: Lễ hội Tranh đầu pháo Quảng Uyên (Cao Bằng)

12

0

0

Tieu luan



Vào ngày 2 tháng 2 âm lịch hàng năm tại huyện Quảng Uyên, lễ hội pháo hoa được
cộng đồng các dân tộc vùng Quảng Uyên và lân cận cùng nô nức chảy hội. Hội
pháp hoa thể hiện tinh thần thượng võ, lôi cuốn các chàng trai khỏe mạnh từ các địa
phương đến tham gia cướp đầu pháo với hy vọng giành được may mắn về cho
người thân, địa phương mình. Đến với lễ hội pháo hoa của vùng đồng bào dân tộc
Nùng, du khách sẽ được hịa mình vào khơng gian văn hóa vẫn cịn mang đậm giá
trị truyền thống thể hiện trên hoa văn trang phục người dân tộc, tham gia trải
nghiệm quay lợn và thưởng thức các món xôi cẩm, ngũ sắc của vùng quê nơi đây.
Hội Lồng Tồng (Hội xuống đồng)

Hình 5: Đặc sắc lễ hội Lồng Tồng

Thường tổ chức ở những bãi đất trống, rộng hoặc trên cánh đồng vừa thu hoạch.
Thời gian thưởng tổ chức vào sau tết, sau vụ mùa bội thu, bà con dân tộc thường tổ
chức các trò chơi dân gian: tung còn, rước rồng, múa kỳ lân, sư tử, tranh đầu pháo
thăng thiên, hát sli lượn và có các ơng tào, bà then đọc lời cầu nguyện…
Hội Thanh Minh
Được tổ chức tại xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên. Hội do dân tộc Nùng An khởi
xướng và được tổ chức vào ngày thanh minh hàng năm có ý nghĩa cầu mùa cho bản,
cầu phúc cho lứa đôi. Được tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch, là ngày cả
nhà hoặc cả họ đi sửa sang lại phần mộ của tổ tiên. Tảo mộ thể hiện lịng tưởng nhớ
biết ơn cơng đức của người đã mất. Vì vậy, con cháu dù ở xa đều thu xếp để về tảo
mộ tổ tiên.

0

0

Tieu luan



13

Hình 6: Nét đẹp Tết Thanh minh của
người Tày, Nùng Cao Bằng

Tết Đắp Nọi

Hình 7: Tết Đắp Nọi của người Tày

Theo tiếng Tày có nghĩa là tết Nguyên đán nhỏ. Đồng bào ăn tết vào cuối tháng
giêng âm lịch. Đây chính là cái tết tiễn đưa tháng giêng.
Tết Đoan Ngọ

Hình 8: Rộn ràng đón Tết Đoan Ngọ cùng đồng bào Tày

0

0

Tieu luan


14
Tổ chức vào mùng 5 tháng 5 âm lịch, còn gọi là tết giết sâu bọ. Rượu nếp, bánh gio
là những món ăn tiêu biểu, đặc biệt là các loại hoa quả đầu mùa. Cúng tổ tiên bằng
xôi ngũ sắc (người Tày Định Hóa): 5 màu của xơi là tượng trưng cho ngũ hành.
Màu vàng là màu của Thổ, màu xanh là màu của Mộc, đỏ là màu của Hỏa, trắng là
màu của Kim, tím thẫm là màu của Thủy.

Tết Rằm tháng bảy

Hình 9:Tục đón Rằm tháng
Bảy của người Tày, Hà Giang

Được tổ chức vào 15 tháng 7 âm lịch, là cái tết lớn thứ hai trong năm. Ngồi mục
đích cúng tổ tiên, người Tày, Nùng còn coi đây là dịp cúng các vong hồn người
không ai thờ cúng đề hồn khỏi quấy rầy, xui khiến nên những điều không hay. Tết
rằm tháng 7 cũng là dịp để các đôi vợ chồng cùng con cái về thắp hương và về thăm
bên ngoại (tiếng dân tộc gọi là Pây tái). Lễ vật sang bên ngoại thường là một đến
hai con vịt, rượu, bánh dợm, bánh gai, hoa quả...
Tết Nguyên đán;

Hình 10: Tái hiện Tết Nguyên Đán của
người Tày, Lạng Sơn
Tết 10/10: Tết lúa mới.

0

0

Tieu luan


15

Hình 11: Độc đáo Tết cơm mới của người Tày
* Ngồi ra cịn có các hoạt động múa sư tử, múa vơ, kéo co... Đặc biệt, đêm về,
nam nữ thanh niên thi hát lượn đối đáp suốt canh dài...


11. Phong tục tập quán
Độc đáo cây hoa báo hiếu của người Tày, Nùng
Cây hoa báo hiếu là một biểu tượng thiêng liêng, ý nghĩa trong cuộc sống tâm linh
của người Tày, Nùng ở Cao Bằng. Khi trong gia đình có người mất, con cháu sẽ làm
cây hoa báo hiếu để tưởng nhớ và thể hiện tình cảm với người đã khuất. Đây là một
trong những phong tục độc đáo mà dân tộc Tày, Nùng ở Cao Bằng vẫn gìn giữ đến
ngày nay.
Cây hoa báo hiếu thường được làm thủ công bằng tay với các nguyên liệu có sẵn
trong tự nhiên: tre, dây thép, dây chỉ, giấy màu và bột hồ thủ cơng. Một cây hoa báo
hiếu gồm có ba tầng tượng trưng cho vịng đời của con người, đó là sinh ra, lớn lên
và chết đi. Tầng một là mâm đế chân hoa, được làm chắc chắn bằng một miếng gỗ
vuông tầm 25 - 30cm, và người Tày, Nùng quan niệm đây là tầng biểu thị cho
nguồn cội, gốc rễ. Tầng hai là thân hoa với nhiều bông hoa giấy, chim muông màu
sắc sặc sỡ kết thành từng dây treo xung quanh. Đây là tầng tái hiện cuộc sống sung
túc, hòa hợp khi còn sống của mỗi người. Tầng trên cùng thường được dán giấy đỏ,
cắt vẽ hình mặt trời và mặt trăng, thể hiện khát vọng sống của mỗi con người. Cây
hoa báo hiếu là cách mỗi người biểu đạt tình cảm riêng đối với người đã khuất. Tùy
vào từng vùng miền mà những họa tiết trên thân cây hoa sẽ được biến tấu để phù
hợp với tín ngưỡng và phong tục.
Lễ cấp sắc
Lễ cấp sắc cho Then của người Tày, tỉnh Lạng Sơn ln có sức hấp dẫn khơng chỉ
đối với đồng bào dân tộc Tày, vốn chiếm gần 36% dân số tỉnh này mà còn là phong
tục thu hút sự quan tâm của những dân tộc anh em khác trên vùng cao các tỉnh phía
Bắc.
Nhiều năm nay, vào dịp Tết đến, Xuân về cũng là dịp diễn ra Lễ cấp sắc, vùng đất
này lại trở nên nhộn nhịp khác thường bởi khách du lịch trong và ngoài nước đến
đây chiêm ngưỡng và thưởng thức một phong tục đẹp, đậm đà bản sắc của dân tộc.
Tục cấp sắc cho Then đã lưu truyền trong đời sống người Tày qua nhiều thế hệ và
có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, gắn kết


0

0

Tieu luan


16
cộng đồng, cũng như góp phần cho vườn hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam thêm rực rỡ sắc màu.
Để một người hành nghề Then được chứng nhận đủ khả năng tiến hành nghi lễ cúng
bái, cầu an trong đời sống tâm linh của cộng đồng thì nghi thức cấp sắc lần đầu là
một trong những nghi lễ chính của đại lễ mở hào quang cho người làm Then.
Để tiến tới Lễ cấp sắc theo đúng như phong tục, tập quán, nhà làm Then hoặc cả họ
hàng phải chọn ngày lành tháng tốt, thống nhất nghi lễ với thầy Tào (người có
quyền uy cao hơn người làm Then), phân công các công việc cần thiết cho buổi lễ.
Bản thân người thụ Lễ hành nghề Then phải giữ gìn sạch sẽ, kiêng cữ nhiều điều,
bảo vệ sức khỏe tốt từ 2-3 tuần lễ.
12. Nghề nghiệp
Kinh tế chính của người Tày ở Yên Bái là nền kinh tế nông nghiệp, đồng bào làm
ruộng nước kết hợp với săn bắt và chăn nuôi. Với truyền thống lâu đời cùng với sự
cần cù, sáng tạo trong lao động và tiếp thu khoa học kỹ thuật mới rất nhanh nên
nông nghiệp của người Tày phát triển tương đối cao. Cùng với việc thâm canh tốt 2
vụ lúa, đưa giống mới vào sản xuất, tăng vụ ngô đông, đồng bào Tày phát triển
mạnh chăn ni gia súc, gia cầm; tích cực phát triển nghề rừng và trồng mới các
loại cây công nghiệp như: chè, quế, sắn.
Nghề thủ công truyền thống như trồng bông dệt vải đã phát triển từ rất sớm, nghề
nuôi tằm để lấy tơ dệt dây dao Slaicha cũng có mặt trong văn hoá của người Tày nơi
đây từ lâu. Hoa văn dệt trên vải thổ cẩm phong phú, đa dạng, riêng dây dao gồm hai
mươi bảy hình tượng, mỗi hình gắn với một truyện dân gian có nội dung giáo dục

tình người sâu sắc. Nghề làm giấy dó, nghề đan lát, nghề mộc, nghề rèn, nghề đục
đá phát triển khá cao.
13. Những kiêng kỵ khi đến các bản làng dân tộc
Người dân bản làng ở vùng núi tây bắc rất thân thiện, cởi mở nhưng có nhiều phong
tục cần kiêng kỵ. Nếu hiểu được những phong tục, tập quán của họ, chuyến đi của
bạn càng thêm thú vị.
Trang phục
Khi vào thăm bản làng dân tộc ở vùng núi phía Bắc, bạn khơng nên mặc loại lanh
trắng chưa nhuộm vì người dân tộc cho đó là màu sắc của tang lễ.
Thăm bản làng
Với những người dân tộc Tày cũng phải chú ý những điều tương tự. Vào ngày cúng
tế, họ thường buộc chùm lá xanh ở trên cột cao hoặc đan phên mắt cáo, buộc vào đó
những xương hàm lợn, trâu bò để người lạ biết mà tránh.

0

0

Tieu luan


17
Nếu vơ tình lạc vào mà cầm nón, che ơ, đeo ba lô... bạn sẽ bị phạt bằng cách nộp đủ
số lễ vật để làm lại lễ cúng làng. Để cầu mong được miễn phạt hoặc giảm, bạn phải
bỏ mũ, ba lô... xuống.
Bạn không được huýt sáo khi dạo chơi ở bản bởi những người dân tộc quan niệm
việc huýt sáo là gọi ma quỷ về.
Gặp những đứa trẻ con trong bản làng, đừng nên xoa đầu, hôn đầu trẻ bởi việc đó
được cho là sẽ làm cho trẻ hoảng sợ, dễ bị đau ốm.
Vào nhà người dân

Trước khi đến nhà người dân, việc đầu tiên phải quan sát xem ở trước cửa nhà, ở
đầu cầu thang có cắm hoặc treo một cành lá xanh, một cành gai, tấm phên đan hình
mắt cáo hay khơng. Nếu thấy những dấu hiệu đó, đừng nên bước chân vào nhà vì đó
là dấu hiệu kiêng kỵ không muốn người lạ vào.
Nếu nhà sàn mà nhà lại có hai cầu thang thì cần quan sát xem đi cầu thang nào. Nếu
đi cùng chủ nhà hoặc có cán bộ cơ sở đi cùng thì nên để cho chủ nhà hoặc cán bộ cơ
sở lên trước.
Thường thì gian giữa là gian thờ cúng, khách khơng được phép ngồi. Với người dân
tộc Mông, ghế đầu bàn dành cho cha mẹ, dù cho cha mẹ đã khuất, khách cũng
khơng được ngồi vào chiếc ghế đó, khơng quay lưng vào nơi thờ. Bạn nên theo
hướng dẫn của gia chủ.
Bếp lửa vừa là nơi nấu nướng vừa là nơi tiếp khách của đồng bào dân tộc, đồng thời
là nơi thiêng liêng thờ vua bếp, thần lửa. Bạn không đặt chân lên hoặc làm xê địch
hịn đá kê làm kiềng, vì theo quan niệm của một số dân tộc, các hòn đá này là nơi
trú ngụ của thần lửa.
Không nướng cơm đồ (xơi) vì nếu cơm đã đồ mà đem nướng, người ta cho rằng
năm đó sẽ xảy ra mất mùa.
Trong ngôi nhà đồng bào dân tộc, cửa và cây cột chính là vị trí linh thiêng thờ thần
cửa, thần cột cái. Vì vậy khơng nên ngồi bậu cửa hoặc treo mũ nón và tựa lưng vào

0

0

Tieu luan


18
cột cái. Nếu chủ nhà chưa mời không nên ngồi ngay vào đệm vì thường dành cho bề
trên và khách quý.

Chào hỏi
Bạn nên chủ động chào hỏi chủ nhà bằng thái độ chân thành. Khi chia tay có thể bắt
tay, khơng cần nói lời tạm biệt nhưng hãy nhớ ln nở nụ cười thân thiện
Khi ngủ
Bạn cần phải lưu ý chỗ ngủ theo sự chỉ dẫn của gia chủ. Không nằm để chân về phía
bàn thờ. Người Tày kiêng khơng mắc màn màu trắng trong nhà.
Không ngủ dậy quá muộn, khơng đắp ngược chăn.
Trong ăn uống của gia đình, người Tày cũng có những kiêng kỵ, chẳng hạn: Người
đẻ kiêng kỵ các loại thịt trâu, bị, ngựa, cá khơng vảy, cá chép có ria và các loại thịt
thú rừng. Trẻ em kiêng ăn quả cật gà (mác lừm) vì họ cho rằng ăn quả cật sẽ dốt nát,
hay quên; kiêng ăn chân gà vì nếu ăn vào thì viết chữ sẽ xấu như gà bới; kiêng ăn
móng vì nếu ăn thì khơng đi qua cầu được; kiêng chan canh ốc vì sợ trịn như con
ốc. Trẻ em và phụ nữ khơng nói chuyện khi ăn vì sợ mất vệ sinh và không ý tứ.
Trong bữa cơm thường ngày của gia đình người Tày thì khi sới cơm xong phải được
đậy vung để giữ cơm nóng. Đơi đũa cả để trong nồi, quay ra phía sau tuyệt đối
khơng được quay vào mâm hay quay vào phía người đang ngồi ăn vì như thế sẽ làm
cho người ăn bị ngẹn hay đau bụng. Khi ăn, không ai được gõ đũa hay gõ đũa cả vì
như thế là gọi ma….

14 )Mục Lục Hình Ảnh

Hình 1: Tái hiện nghi lễ Đám cưới của người Tày qua ngơn ngữ Then............8
Hình 2: Đám tang người Tày ở Bắc Cạn....................................................9
Hình 3: Đặc sắc nghệ thuật hát Then, đàn Tính của người Tày ở Cao Bằng..10
Hình 4: Lễ hội Tranh đầu pháo Quảng Uyên (Cao Bằng).................................11
Hình 5: Đặc sắc lễ hội Lồng Tồng.....................................................................12
Hình 6: Nét đẹp Tết Thanh minh của người Tày, Nùng Cao Bằng...............13

0


0

Tieu luan


19
Hình 7: Tết Đắp Nọi của người Tày..............................................................................................13
Hình 8: Rộn ràng đón Tết Đoan Ngọ cùng đồng bào Tày................................13
Hình 9:Tục đón Rằm tháng Bảy của người Tày, Hà Giang .........................14
Hình 10: Tái hiện Tết Nguyên Đán của người Tày, Lạng Sơn.......................14
Hình 11: Độc đáo Tết cơm mới của người Tày..............................................15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />inheritRedirect=true
2. />
0

0

Tieu luan



×