Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

(Tiểu luận) tổng quan về nợ công của việt nam từ năm 2010 2020 và đề xuất giải pháp quản lý nợ công trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.06 KB, 27 trang )

TỔNG LIÊN ĐỒN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TƠN ĐỨC THẮNG

BÁO CÁO NHĨM MƠN KINH TẾ VĨ MƠ

TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM TỪ
NĂM 2010-2020 VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN
LÝ NỢ CÔNG TRONG THỜI GIAN TỚI
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Trần Mạnh Kiên
Lớp: Kinh tế vi mơ (Ca 3, Thứ 3)
Nhóm: 05
Danh sách sinh viên thực hiện:
1. Đoàn Viết Bảo
2. Huy Hoàng
3. Thanh Mai
4. Lâm Mậu Phi
5. Nguyễn Lê Minh Thư
6. Phạm Nhu

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10 NĂM 2022

0

0

Tieu luan


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG CỦA
VIỆT NAM
I. Nợ công


1. Tổng quan về nợ công
Nợ công (Public debt) hay cịn gọi là nợ chính phủ hoặc nợ quốc gia là tổng
giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương
đi vay. Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách. Nói
cách khác, nợ cơng là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để
dễ hình dung quy mơ của nợ công, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng
bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Ví dụ: Nếu thu nhập của gia đình bạn là 10 triệu đồng/1 tháng và chi tiêu 1
tháng là 15 triệu đồng (chi tiêu vượt mức lương) thì cần phải vay thêm 5 triệu
đồng phục vụ chi tiêu. Cứ như vậy, mỗi tháng nợ thêm 5 triệu đồng. Con số này
sẽ ngày càng tăng lên, càng ngày người đi vay càng khó xoay sở các khoản vay
và lãi vay. Tình trạng nợ công của Việt Nam cũng tương tự như ví dụ trên.
2. Trần nợ cơng
Trần nợ cơng là tỷ lệ phần trăm tối đa của chỉ tiêu an toàn nợ cơng.
Mức an tồn nợ cơng là mức vay trong khả năng và kế hoạch của chính phủ
và mức an tồn này nói lên sự Chính phủ có đang trong ngưỡng an toàn trong
các khoản nợ. Khi vượt qua ngưỡng an tồn này thì khả năng lớn xảy ra tình
trạng khủng hoảng nợ công.
3. Khủng hoảng nợ công
Khủng hoảng nợ cơng là các vấn đề về tài chính và kinh tế xảy ra do các
quốc gia mất khả năng trả các khoản nợ của Chính phủ hoặc các khoản nợ do
Chính phủ bảo lãnh.

0

0

Tieu luan



Và thời điểm khủng hoảng nợ công bùng nổ khi khoản nợ của chính phủ đã ở
mức khơng an tồn so với quy mô nền kinh tế đồng thời kinh tế đạt ở mức tăng
trưởng thấp.
Ta thấy được rằng khả năng trả nợ của Chính phủ có mối liên hệ chặt chẽ với
mức tăng trưởng kinh tế của nhà nước. Trong trường hợp mức tăng trưởng ở
mức cao và ổn định, nguồn thu của ngân sách nhà nước được đảm bảo theo đó là
các khả năng thanh tốn các khoản nợ.
Khi xảy ra khủng hoảng nợ cơng, chính phủ sẽ phải chịu sức ép nặng nề từ
các chủ thể cho vay tiền về lãi phát sinh.
4. Phân loại nợ công
+ Nợ cơng gồm 3 loại đó là Nợ chính phủ, Nợ được chính phủ bảo lãnh và Nợ
chính quyền địa phương
+ Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, ngoài
nước, được ký kết và phát hành nhân danh Nhà nước, Chính phủ. Nợ chính phủ
bao gồm:
·

Nợ do Chính phủ phát hành cơng cụ nợ;

·

Nợ do Chính phủ ký kết thỏa thuận vay trong nước, nước ngoài;

·

Nợ của ngân sách trung ương vay từ quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước,

ngân quỹ nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngồi ngân sách.
+ Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ do doanh nghiệp, ngân hàng
chính sách của Nhà nước vay được Chính phủ bảo lãnh. Nợ được chính phủ bảo

lãnh bao gồm:
·

Nợ của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh.

·

Nợ của ngân hàng chính sách của Nhà nước được Chính phủ bảo lãnh.

+ Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ phát sinh do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh vay. Nợ chính quyền địa phương bao gồm:
·

Nợ do phát hành trái phiếu chính quyền địa phương;

·

Nợ do vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài;

0

0

Tieu luan


·

Nợ của ngân sách địa phương vay từ ngân hàng chính sách của Nhà nước,


quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh, ngân quỹ nhà nước và vay khác theo quy định của
pháp luật về ngân sách nhà nước.
5 . Các hình thức vay nợ của chính phủ
Có 2 hình thức vay nợ cơng:
+ Phát hành trái phiếu chính phủ
Trái phiếu Chính phủ là một chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài chính
phát hành dưới sự chấp thuận của nhà nước, có thời hạn, mệnh giá và lãi suất.
Mục đích của trái phiếu Chính phủ là huy động nguồn vốn để phát triển cơ sở
hạ tầng và tài trợ cho việc chi tiêu Chính phủ. Nó bao gồm cam kết trả lãi định
kỳ (được gọi là thanh toán lãi suất theo mệnh giá) và thanh toán khoản vay gốc
vào ngày đáo hạn.
Chính phủ có thể phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá
nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là khơng có rủi ro tín
dụng vì chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc
lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các
ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng
nội tệ vì chính phủ có thể khơng có đủ ngoại tệ để thanh tốn và ngồi ra cịn có
rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Khi trái phiếu hết hạn, bạn sẽ quay trở lại khoản đầu tư ban đầu. Ngày nhận
lại khoản đầu tư ban đầu được gọi là ngày đáo hạn. Các trái phiếu khác nhau sẽ
có ngày đáo hạn khác nhau – thời hạn từ 1 năm đến 30 năm.
+ Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể
chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế)... Hình thức này thường được
chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng
vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ khơng cao.

0

0


Tieu luan


Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách
mà khơng cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện
pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát.
6. Cách tính nợ công ở Việt Nam
Do quy mô của nền kinh tế ở các nước có sự khác nhau nên gánh nặng của nợ
cơng quốc gia thường được tính dựa trên phần trăm (%) trong Tổng sản phẩm
quốc nội (GDP).
Số liệu của nợ công thường được diễn đạt theo rất nhiều cách khác nhau. Nó
có thể phân chia thành nợ của Chính phủ hoặc là nợ chung của Chính phủ và các
cấp chính quyền.
Nợ cơng có thể được phân chia dưới dạng những chủ nợ trong ngồi nước, cụ
thể là nợ cơng từ những nhà đầu tư trong nước hoặc là nợ cơng từ những nhà
đầu tư nước ngồi.
Cuối cùng, nợ cơng có thể được xác định theo dạng tổng nợ của Chính phủ,
tức là tổng nợ tài chính của Chính phủ, hoặc nợ rịng Chính phủ, tức là tổng nợ
tài chính trừ đi phần tổng tài sản tài chính do Chính phủ nắm giữ.

II. Vai trị của nợ cơng đối với Việt Nam
1. Vì sao 1 quốc gia lại có nợ công?
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; Khi chi tiêu của chính
phủ vượt quá thuế, phí và lệ phí được thu, chính phủ phải đi vay (trong nước
hoặc quốc tế) để bù đắp thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này phải được hoàn
trả cả gốc và lãi khi đến nơi. Về lâu dài, nhà nước sẽ phải tăng thuế để bù đắp
khoản này.
Ở các nước đang phát triển, trong điều kiện khu vực kinh tế tư nhân cịn nhỏ,
khơng đủ năng lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thì kinh tế nhà nước có vai

trị đặc biệt quan trọng. Để đạt được tốc độ phát triển nhanh, chính phủ các nước
đang phát triển thường sử dụng chính sách tài khố mở rộng, tăng chi tiêu chính
phủ, giảm thuế sẽ kích thích tổng cầu tăng, đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy tăng

0

0

Tieu luan


trưởng kinh tế. Tuy nhiên, thực hiện chính sách tài khoá mở rộng đồng nghĩa với
việc gia tăng thâm hụt ngân sách, chính phủ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt.
2. Sự tác động của nợ cơng
+ Tích cực:
Đối với các nước đang phát triển, nền kinh tế còn đang gặp nhiều khó khăn,
việc được vay khoản tiền để duy trì và phát triển kinh tế là điều rất tuyệt vời.
Khi chính phủ của 1 quốc gia nào đó chấp nhận vay tiền tức là đã xác định được
những lợi ích của khoản vay đó đối với sự phát triển của đất nước.
Nợ cơng có tác dụng làm gia tăng nguồn lực của nhà nước. Nợ công giúp
quốc gia đó tạo điều kiện tăng cường nguồn vốn phát triển cơ sở hạ tầng và tăng
khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Và nếu quốc gia đi vay nợ cơng có được
chính sách huy động nợ cơng một cách hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước
được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó giúp gia tăng năng lực sản xuất
của nền kinh tế.
Việc huy động nợ quốc gia sẽ giúp sử dụng nguồn tài chính chưa được khai
thác trong dân một cách hiệu quả.Hhiện nay trong dân vẫn còn rất nhiều tiền nếu
nhà nước muốn dùng số tiền này để xây dựng và phát triển đất nước. Quốc gia
sẽ nhận được sự ủng hộ và chấp thuận của đa số người dân thơng qua các khoản
vay cho nhà nước của người đó.

Ngồi các vấn đề trên, nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngồi và tổ
chức tài chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế,
ngoại giao quan trọng của các nước phát triển muốn tác động đến các quốc gia
nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương.
+ Tiêu cực:
Nợ chính phủ tăng sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là đối với các
khoản tài trợ nước ngồi. Khi kỷ luật tài chính của nhà nước lỏng lẻo và khơng
có cơ chế giám sát chặt chẽ. Các quy định chặt chẽ về sử dụng và quản lý nợ
chính phủ dẫn đến tình trạng tham nhũng tràn lan. Tình trạng này dẫn đến thất

0

0

Tieu luan


thoát nguồn lực, giảm hiệu quả đầu tư tư nhân và quan trọng nhất là giảm nguồn
thu cho ngân sách
Để bù đắp thâm hụt ngân sách, về cơ bản, nhà nước phải đi vay nợ. Các
khoản vay này phải trả cả gốc và lãi khi đáo hạn, và sau đó chính phủ phải đánh
thuế cao hơn để bù đắp. Vì vậy, cuối cùng, nợ công được xem như một sự lựa
chọn về thời điểm đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác.
Nợ về cơ bản là một cách đánh thuế dần dần và được hầu hết các chính phủ sử
dụng để tài trợ cho chi tiêu ngân sách.
Nhìn chung, trang trải thâm hụt ngân sách bằng vay trong nước hay vay nước
ngồi đều có những ảnh hưởng bất lợi tới môi trường kinh tế vĩ mô. Ở các nước
đang phát triển, thâm hụt ngân sách thường được tài trợ bằng một giải pháp hỗn
hợp giữa vay trong nước và vay nước ngoài. Trong trường hợp thâm hụt ngân
sách được tài trợ bằng vốn vay trong nước, khi đó một phần nguồn lực tài chính

của nền kinh tế sẽ được chuyển dịch từ khu vực tư nhân sang khu vực nhà nước
thông qua kênh trái phiếu chính phủ. Việc huy động này sẽ tác động đến thị
trường vốn nói chung, làm tăng cầu tín dụng, đẩy lãi suất lên cao. Lãi suất tăng
đến lượt nó làm tăng chi phí đầu tư, giảm nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, có thể
dẫn đến “hiệu ứng kéo lùi đầu tư” (crowding-out effect).
Trong trường hợp thâm hụt được tài trợ bằng vay nước ngoài, tác động kéo lùi
đầu tư có thể được hạn chế. Việc sử dụng một phần vốn vay nước ngoài để tài
trợ cho thâm hụt ngân sách có thể làm giảm bớt căng thẳng trên thị trường tín
dụng trong nước, qua đó giảm bớt các yếu tố bất ổn trong nền kinh tế. Tuy
nhiên, vay nước ngồi lại có những tác động khác nguy hại đến nền kinh tế.
Trong trung và dài hạn, việc chính phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và
lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao, làm giảm giá đồng nội tệ, tăng chi phí nhập
khẩu máy móc thiết bị và nguyên liệu (thường chiếm tỷ trọng lớn ở các nước
đang phát triển), tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ lạm
phát. Tỷ giá tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm

0

0

Tieu luan


tăng nguy cơ vỡ nợ, nếu như quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách
nhà nước.

CHƯƠNG 2: TÌNH TRẠNG NỢ CƠNG Ở VIỆT NAM
2010-2020
LỜI MỞ ĐẦU: Việt Nam mở cửa kinh tế được 25 năm và đã đạt được những
bước phát triển vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm, GDP của Việt Nam đã tăng

lên gấp 3 lần, từ 32,7 tỷ USD năm 2001 lên 102 tỷ USD năm 2010 (Biểu đồ 4).
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mơ nền kinh
tế của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ
yếu. Do đó, hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng
và nợ cơng nói chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ
về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức
đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền kinh tế hơn nữa.

I. So sánh trước năm 2010
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nợ cơng của Việt Nam năm 2001 mới là
11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp

xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ cơng đã tăng lên 55,2 tỷ USD,

0

0

Tieu luan


tương đương 54,3% GDP. Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001 đến 2010, quy
mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần.
Đến cuối năm 2015, tổng nợ công của Việt Nam là 125 tỷ USD, tương
đương 61% GDP, bình quân mỗi người dân nợ công gánh số nợ công là 1.384
USD, tương đương 30 triệu, ngang với Trung Quốc, Philipin và Malaysia. Tốc
độ tăng trưởng nợ công so với GDP là 12,2%/năm cho giai đoạn từ 2010 - 2015.
Đây là một vấn đề đáng lo ngại vì Việt Nam nằm trong những quốc gia có tỷ lệ
nợ trên GDP tăng nhanh nhất (tăng trên 10%/năm) cho dù có thành tích tăng

trưởng kinh tế ấn tượng. Nếu xu hướng này vẫn tiếp diễn trong những năm tời,
Việt Nam sẽ phải đối mặt với những quan ngại nghiêm trọng về bền vững tài
khóa.

II. Thực trạng hiện nay
Theo Luật Quản lý nợ công của Việt Nam năm 1999, nợ công bao gồm:
nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo

báo cáo của Bộ Tài chính, cơ cấu nợ cơng của Chính phủ tính đến ngày
31/12/2010 như sau: nợ chính phủ chiếm 80%, nợ được Chính phủ bảo lãnh
chiếm 19% và nợ

0

0

Tieu luan


chính quyền địa phương chiếm 1%. Trong cơ cấu nợ cơng tính đến ngày
31/12/2010, nợ trong nước chiếm 42% và nợ nước ngoài chiếm 58%. Trong cơ
cấu nợ nước ngoài, nợ song phương chiếm 46,66%, nợ đa phương chiếm
44,59%, còn lại các khoản nợ tín dụng thương mại, tín dụng tư nhân và trái
phiếu... (Hình 1). Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, nợ cơng ở
Việt Nam có xu hướng tăng lên rất nhanh. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, nợ
cơng Việt Nam năm 2007 chiếm khoảng 33,8% GDP, năm 2008 chiếm 36,2%
GDP, năm 2009 chiếm 41,9% GDP, năm 2010 chiếm 52,6% GDP và năm 2011
chiếm 58,7% GDP. Còn theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công
Việt Nam tăng từ 31,7% GDP năm 2001 lên 42,2% GDP năm 2005, đạt 52,7%
GDP năm 2010. Tính trong giai đoạn 2007-2011, nợ cơng Việt Nam đã tăng

khoảng 25%, đạt mức tăng trung bình 5%/năm. Tính theo tốc độ tăng trung bình,
đến năm 2019, dự báo nợ công Việt Nam sẽ đạt mức 100% GDP. Nợ công tăng
cao khiến thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở mức lớn, dừng ở mức -5,8%
GDP năm 2010 theo đánh giá của Bộ Tài chính, và ở mức -6% năm 2010 theo
đánh giá của IMF (Bảng 1).

0

0

Tieu luan


Nếu so sánh với một số nước đang gặp khủng hoảng nợ công ở châu Âu
như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hoặc Mỹ thì tình hình nợ công của Việt
Nam hiện nay vẫn được đánh giá là khá an tồn. Vào thời điểm cơng bố khủng
hoảng cuối năm 2009, nợ công ở Hy Lạp đạt mức 115% GDP, còn ở các nước
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha nợ công đều khoảng 100% GDP, thâm hụt ngân sách
của các nước này đều gấp 3-4 lần cho phép.. Đối với Việt Nam, các tổ chức xếp
hạng quốc tế mặc dù duy trì mức tín nhiệm nợ cơng là B+ nhưng họ đều cho
rằng nợ công Việt Nam năm 2011 là khoảng 58,4% GDP (theo đánh giá của
IMF) và mức nợ công này đã cao hơn rất nhiều so với mức trung bình 37% đối
với hạng B. Trong khu vực châu Á, Việt Nam là nước có tỷ lệ nợ công/GDP cao

hơn nhiều so với TrungQuốc, Indonesia, Campuchia, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái
Lan, Philippines (Hình 2).

III. Những rủi ro tiềm ẩn của nợ công và quản lý nợ
công ở Việt Nam
1. Rủi ro trong chi tiêu công

Trong nhiều năm qua, tình hình chi tiêu cơng ở Việt Nam khơng đạt hiệu
quả cao. Vấn đề chi tiêu không đúng chế độ, sử dụng tài chính khơng đúng mục

0

0

Tieu luan


tiêu, khơng đúng nguồn, tình trạng bội chi, lãng phí và thất thoát diễn ra khá phổ
biến. Số liệu của Kiểm tốn Nhà nước năm 2008 cơng bố số tài sản mua sai chế
độ, sử dụng sai mục đích của 8 bộ ngành lên đến 95 tỷ đồng. Kiểm toán Nhà
nước cũng thống kê những thất thoát tiền của trong chi tiêu công ở hầu hết các
dự án lên tới con số 783,8 tỷ đồng năm 2008. Trong chi tiêu thường xuyên, số
tiền chi không đúng chế độ, không thuộc nhiệm vụ chi ở 16/29 tỉnh được kiểm
toán vượt quá con số quy định là 800 tỷ đồng. Theo số liệu của Bộ Tài chính,
tổng chi ngân sách nhà nước năm 2008 tăng 22,3% so với năm 2007 và bằng
118,9% so với dự tốn. Trong đó, chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên vượt
mức dự toán tương ứng ở mức 118,3% và 113,3%. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, trong 9 tháng đầu năm 2011, vốn đầu tư thực hiện từ Ngân sách Nhà
nước là 131.364 tỷ đồng, tăng gần 24% so với cùng kỳ năm trước. Việc cắt giảm
đầu tư cơng đơi khi cịn khơng hiệu quả. Nhiều dự án trọng điểm đang đầu tư lại
bị dừng đột ngột, chẳng hạn như xây dựng bệnh viện cấp vùng ở Tiền Giang để
giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. Trong khi đó, một số khoản mục đầu tư
cần cắt giảm như mua sắm thiết bị, máy móc, xe cộ… vẫn chưa được cắt giảm
nghiêm ngặt. Trong điều kiện thế giới đang gặp khủng hoảng, mức chi công tăng
cao như trên cho thấy kỷ luật đầu tư cơng hiện nay của Việt Nam cịn lỏng lẻo.
2. Rủi ro trong trả nợ công
Như đã đề cập, nợ công của Việt Nam hiện nay gồm nợ trong nước và nợ

nước ngoài. Nợ trong nước chủ yếu là trái phiếu chính phủ mà hệ thống ngân
hàng thương mại mua, cịn nợ nước ngoài phần lớn là nợ song phương và nợ đa
phương, trong đó nợ nước ngồi của doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh chiếm
một tỷ trọng rất lớn. Cả nợ trong nước và nợ nước ngoài ở Việt Nam đều rất
đáng lo ngại. Đối với vấn đề nợ trong nước, hiện nay hệ thống ngân hàng Việt
Nam đang gặp rất nhiều vấn đề về tính thanh khoản và nợ xấu. Nghĩa vụ trả nợ
nội địa trong 3 năm tới được ước tính trên số lượng trái phiếu chính phủ đã phát
hành và sẽ đáo hạn trong vòng 3 năm tới, ước khoảng 215.000 tỷ đồng, tương
đương 20% dự tốn thu ngân sách nhà nước của thời điểm đó (2014). Nếu trong

0

0

Tieu luan


trường hợp xấu (chẳng hạn có biến động bất lợi về tỷ giá hoặc bong bóng bất
động sản bị vỡ), hệ thống ngân hàng Việt Nam có khả năng chao đảo và có nguy
cơ sụp đổ, lúc đó Chính phủ không thể đủ dự trữ ngoại tệ và dự trữ nợ để cứu
giúp các ngân hàng, làm cho nền kinh tế dễ có nguy cơ sụp đổ. Nợ trong nước

thơng qua trái phiếu ngân hàng sẽ chỉ khiến khủng hoảng của khu vực này là
tiền đề cho khủng hoảng ở khu vực kia. Đối với vấn đề nợ nước ngoài, khả năng
thanh toán nợ của Việt Nam được Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đánh giá
theo các chỉ tiêu: (i) quy mô của khoản nợ so với GDP; (ii) quy mô khoản nợ so
với tổng thu ngân sách nhà nước và so với tổng giá trị xuất khẩu. Tính trong
GDP, nợ nước ngồi của Việt Nam tăng từ 31,4 % năm 2006 lên 42,2% năm
2010 và nợ nước ngồi của khu vực cơng tăng từ 26,7% năm 2006 lên 31,1%
GDP năm 2010. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ so với thu ngân sách

nhà nước duy trì ở mức 3,5- 3,6%/năm, nghĩa vụ trả nợ trung và dài hạn so với
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ duy trì ở mức 3,3-4,2%/năm trong giai đoạn
2006-2010. Tính tốn thơng qua các chỉ tiêu trên, có thể thấy khả năng thanh
toán nợ của Việt Nam đang giảm dần. Cụ thể, nếu xét theo chỉ tiêu quy mô của
khoản nợ so với GDP thì khả năng thanh tốn nợ của Việt Nam đang giảm rất
nhanh kể từ năm 2008. So với tổng thu ngân sách nhà nước, năm 2010, tổng nợ
công gấp gần hai lần (chưa bao gồm nghĩa vụ trả nợ dựphòng cho các doanh
nghiệp nhà nước). Còn tỷ lệ nợ cơng nước ngồi với tổng giá trị xuất khẩu được
tính xấp xỉ khoảng 44%.

0

0

Tieu luan


Trong cơ cấu vay nợ nước ngồi của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo
lãnh chiếm một tỷlệ tương đối lớn và có xu hướng tăng mạnh. Nợ được Chính
phủ bảo lãnh phần lớn là nợ nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước. Trong
điều kiện doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả như hiện nay, nghĩa vụ
trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp đều dồn lên vai Nhà nước.
Tính thanh khoản nợ cơng của Việt Nam hiện nay vẫn được đánh giá là
khá tốt vì các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp chiếm tới 80% (nghĩa vụ trả nợ
đến năm 2013 chiếm khoảng 10% dự trữ ngoại hối quốc gia và nợ nước ngoài
chiếm 20% dự trữ ngoại hối hiện nay). Mặc dù vậy, nợ cơng của Việt Nam vẫn
có thể xảy ra những rủi ro về tính thanh khoản, khi thời hạn trả nợ bị xáo trộn
(khoản nợ từ trung hạn và dài hạn có thể chuyển thành ngắn hạn - trong trường
hợp các chủ nợ gặp khó khăn hay khủng hoảng kinh tế trong nước). Đặc biệt, rủi
ro về tính thanh khoản của những khoản nợ nước ngồi ngắn hạn là Tính thanh

khoản nợ công của Việt Nam hiện nay vẫn được đánh giá là khá tốt vì các khoản
vay dài hạn với lãi suất thấp chiếm tới 80% (nghĩa vụ trả nợ đến năm 2013
chiếm khoảng 10%
dự trữ ngoại hối quốc
gia và nợ nước ngoài
chiếm 20% dự trữ
ngoại hối hiện nay).
Mặc dù vậy, nợ cơng
của Việt Nam vẫn có
thể xảy ra những rủi
ro

về

tính

thanh

khoản, khi thời hạn trả nợ bị xáo trộn (khoản nợ từ trung hạn và dài hạn có thể
chuyển thành ngắn hạn - trong trường hợp các chủ nợ gặp khó khăn hay khủng
hoảng kinh tế trong nước). Đặc biệt, rủi ro về tính thanh khoản của những khoản
nợ nước ngoài ngắn hạn là điều rất đáng lo ngại khi tỷ lệ dự trữ ngoại hối của
Việt Nam trên tổng dư nợ ngắn hạn đã và đang sụt giảm với tốc độ rất nhanh, từ

0

0

Tieu luan



mức 100 lần năm 2007 xuống còn 28 lần năm 2008, còn 3 lần năm 2009 và chỉ
còn gấp khoảng gần 2 lần năm 2010.
3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ công hiện nay ở Việt Nam
Nợ công hiện nay ở Việt Nam có thể xuất phát từ một số nguyên nhân chủ
yếu sau đây:
Thứ nhất, mở rộng đầu tư công một cách ồ ạt nhưng không hiệu quả dẫn
đến nợ công tăng mạnh. Trong nhiều năm qua, Nhà nước đầu tư rất lớn cho các
cơng trình cơng cộng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, cảng biển, sân bay, đặc khu kinh
tế... Các chuyên gia cho rằng, với tình hình tỉnh nào cũng lập kế hoạch xây dựng
cảng biển, đệ trình kế hoạch làm sân bay, tỉnh nào cũng xin làm đặc khu kinh tế,
thì đầu tư cơng dàn trải và lãng phí là điều tất yếu xảy ra. Theo Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, mỗi năm Việt Nam cần khoảng 25 tỷ USD để đầu tư cho cơ sở hạ tầng,
trong khi đó vốn huy động được hàng năm từ các nguồn của Nhà nước cũng như
của tư nhân chưa đến 16 tỷ USD, phần còn lại là phải vay nợ nước ngoài. Chi
tiêu và đầu tư nợ công kém hiệu quả đang đem lại những rủi ro đáng báo động
cho nền kinh tế. Nó khiến mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở mức rất
cao trong khu vực, đồng thời khiến hiệu quả đầu tư trên một đồng vốn luôn ở
mức thấp. Nếu giai đoạn 2000-2005 bỏ ra gần 5 đồng có thể tạo ra 1 đồng tăng
thêm của GDP, đến giai đoạn 2006-2010 phải bỏ ra 7,4 đồng mới tạo ra 1 đồng
tăng thêm của GDP. Trong nhiều năm gần đây, Việt Nam đang gặp phải vấn đề
thâm hụt kép: thâm hụt ngân sách và chi tiêu công đều ở mức cao. Tuy chưa đủ
điều kiện để xảy ra một cuộc khủng hoảng nợ công như một số nước châu Âu và
Mỹ như thời gian qua, bởi Việt Nam vẫn là một trong những nền kinh tế có tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng một khi tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm
vì nhiều lý do khác nhau thì Chính phủ buộc phải lựa chọn các gói kích thích
kinh tế khiến nợ công ngày càng tăng mạnh hơn.
Với mức nợ công của Chính phủ như hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng đầu
tư cơng tiếp tục có xu hướng đi vay nước ngồi với lãi suất cao, khiến nợ cơng
của Việt Nam càng tăng nhanh, gây khả năng dễ bị tổn thương đối với nền kinh


0

0

Tieu luan


tế vĩ mô. Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ
nước ngồi của Chính phủ tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm vào
năm 2009 và năm 2010 đạt 2,1%/năm. Với thực trạng này, chi phí trả lãi đang
trở thành gánh nặng ngày càng gia tăng của Chính phủ. Trong khi nợ nước ngồi
của khu vực cơng tăng cao những năm gần đây, thì tỷ lệ dự trữ ngoại hối so với
tổng dư nợ ngắn hạn lại có xu hướng giảm mạnh. Điều này cho thấy việc trả nợ
nước ngoài ở Việt Nam tuy vẫn ở trong mức độ an tồn, nhưng có nguy cơ mất
an toàn trong nhiều năm tới khi Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung
bình, khơng còn được hưởng ưu đãi từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) trong khi vay nợ từ các ngân hàng thương mại nước ngồi gặp rất nhiều
khó khăn.
Thứ hai, chính sách kích cầu của Chính phủ trong những năm qua đã
khiến bội chi ngân sách của Việt Nam tăng cao và Chính phủ buộc phải vay nợ
để bù đắp ngân sách, dẫn đến nợ công tăng cao. Năm 2008, Chính phủ chi 1 tỷ
USD để kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đến năm 2009, Chính phủ lại tung hai gói
kích cầu với tổng trị giá 9 tỷ USD. Nhờ các gói kích cầu này, nền kinh tế Việt
Nam đã có nhiều thay đổi tích cực trong khủng hoảng, nhưng đó cũng là một
trong những nguyên nhân khiến nợ công gia tăng. Ngân sách nhà nước vốn đã
rất căng thẳng vì nguồn thu từ thuế giảm trong những năm khủng khoảng kinh tế
toàn cầu, cùng với giá dầu thế giới giảm khiến doanh thu của Chính phủ bị ảnh
hưởng, cho nên việc tung ra các gói kích cầu trên đã ảnh hưởng mạnh đến tài
chính cơng.

Thứ ba, nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày càng lớn. Mặc dù
trong cơ cấu nợ công của Việt Nam hiện nay chưa tính đến nợ của khu vực
doanh nghiệp nhà nước, nhưng trong cơ cấu nợ của doanh nghiệp do Chính phủ
bảo lãnh hầu hết là các khoản vay ngắn hạn, vì vậy trong trường hợp doanh
nghiệp khơng có khả năng trả nợ, Chính phủ sẽ là người phải trả nợ thay cho
doanh nghiệp.

0

0

Tieu luan


Hơn thế, nhiều chun gia cho rằng, việc khơng tính nợ của doanh nghiệp
nhà nước trong cơ cấu nợ công của Việt Nam là điều khó lường trước được rủi
ro, có khả năng đưa Việt Nam rơi vào cái bẫy khủng hoảng nợ cơng nếu khơng
kiểm sốt tốt nợ của doanh nghiệp nhà nước. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung ương, đầu tư của 22/100 doanh nghiệp nhà nước lớn năm
2010 tương đương 17 tỷ USD (17% GDP), và nếu tính cả 100 doanh nghiệp nhà
nước thì quy mơ đầu tư của khu vực doanh nghiệp này là rất lớn, trong đó phần
lớn là đi vay. Theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội vào ngày 1/11/2010, nợ
của 81/91 doanh nghiệp nhà nước (chưa tính Vinashin) trong năm 2009 là
813.435 tỷ đồng, tương đương 49% GDP. Nếu tính cả nợ của Vinashin, nợ của
khu vực doanh nghiệp nhà nước vào cuối năm 2009 tương đương 54,2% GDP.
Rõ ràng nợ của cả doanh nghiệp nhà nước và Chính phủ đều tăng rất nhanh
trong một thời gian rất ngắn, trong đó mức tăng nợ của khu vực doanh nghiệp
nhà nước thật sự đáng lo ngại. Nếu nhìn vào con số tuyệt đối, sau khi trừ đi các
khoản nợ nước ngồi và với những tính tốn thận trọng nhất thì trong năm 2009,
khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm khơng dưới 60% trong tổng tín dụng nợ

nội địa tăng thêm của toàn nền kinh tế. Đây là bằng chứng cho thấy các doanh
nghiệp nhà nước là đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất từ chương trình hỗ trợ
lãi suất và kích cầu của Chính phủ năm 2009. Với mức nợ của doanh nghiệp nhà
nước lớn như trên, Chính phủ khơng nên loại nợ của doanh nghiệp nhà nước ra
khỏi nợ công của Việt Nam bởi nếu doanh nghiệp nhà nước khơng trả được nợ
thì ngân sách sẽ phải gánh.
Những thành tựu đạt được trong công tác quản lý nợ công
Trong giai đoạn 2010 - 2021, việc quản lý nợ công ở nước ta đã cơ bản
đáp ứng được các mục tiêu đề ra và đạt được một số kết quả quan trọng, cụ thể
như sau:
Chỉ tiêu

Nợ công so
với GDP

Nợ chính
phủ so với GDP

0

0

Tieu luan

Nợ nước
ngồi của quốc gia


so với GDP
201

0
201
1
201
2
201
3
201
4
201
5
201
6
201
7
201
8
201
9
202
0
202

56,3

44,6

42,2

54,9


43,2

41,5

50,8

39,4

37,4

54,5

42,6

37,4

58,0

42,6

37,4

61,0

49,2

42,0

63,6


52,6

44,7

62,5

51,8

45,2

58,4

50,0

46,0

56,1

49,2

45,8

56,8

50,8

47,9

43,7


39,5

39,0

0

0

Tieu luan


1

%

Tầm nhìn
2030

%
60,0

%
50,0

45,0

Thứ nhất, các chỉ tiêu an tồn nợ cơng được kiểm soát chặt chẽ, nằm
trong giới hạn trần nợ được Quốc hội phê chuẩn và giảm dần qua các năm gần
đây (Bảng 1).

Đến cuối năm 2020, các chỉ tiêu nợ cơng, nợ Chính phủ so với GDP có xu
hướng tăng trở lại trước chính sách nới lỏng tài khóa để hỗ trợ nền kinh tế phục
hồi sau đại dịch Covid-19, tuy nhiên vẫn đảm bảo duy trì trong giới hạn nợ được
Quốc hội cho phép.
Thứ hai, huy động được khối lượng vốn lớn cho ngân sách nhà nước
(NSNN) và cho đầu tư phát triển, góp phần thực hiện thành công kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm. Hầu hết vốn vay nợ công được sử
dụng trực tiếp cho các dự án đầu tư phát triển và trả nợ các khoản vay phát sinh
trong giai đoạn trước cho đầu tư cơng, góp phần hồn thiện hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội đồng bộ, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ
mô trong những năm qua.
Thứ ba, thực hiện thanh toán trả nợ đầy đủ, đúng hạn, đảm bảo nghĩa vụ
nợ đã cam kết với chủ nợ, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia. Nghĩa vụ
trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN duy trì trong giới hạn được
Quốc hội cho phép, bình quân giai đoạn 2010 - 2020 là khoảng 19,2% (so với
mức trần không quá 25%).
Thứ tư, khuôn khổ pháp lý, chính sách về quản lý nợ cơng, nợ Chính phủ
đã từng bước được hồn thiện, hiệu quả quản lý nhà nước về nợ cơng được nâng
cao trong tình hình mới theo hướng chặt chẽ, hiệu quả hơn theo Nghị quyết số
07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị. Luật Quản lý nợ công số
20/2017/QH14 được Quốc hội thông qua nhằm thể chế hóa chủ trương của

0

0

Tieu luan


Đảng, Nhà nước về quản lý nợ cơng an tồn, bền vững, hiệu quả. Các văn bản

quy phạm pháp luật hướng dẫn luật như Nghị định của Chính phủ, các thơng tư
hướng dẫn của Bộ Tài chính đã kịp thời được ban hành, góp phần tạo hành lang
pháp lý trong công tác quản lý nhà nước về nợ công, phù hợp với thơng lệ quốc
tế.
Thứ năm, những năm qua, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính tập trung
thực hiện các giải pháp để phát triển thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) theo
hướng bền vững, gắn phát hành TPCP với tái cơ cấu danh mục TPCP theo
hướng kéo dài kỳ hạn, giảm áp lực trả nợ ngắn hạn và chi phí vay vốn. Cả năm
2020 kỳ hạn phát hành bình quân khoảng 13-13,5 năm, tăng khoảng 1,9 lần so
với năm 2015 (6,9 năm); thời gian đáo hạn bình quân (ATM) danh mục TPCP
đạt khoảng 7,6-7,8 năm, cao hơn nhiều so với giai đoạn trước (năm 2011 là 1,84
năm và 2015 là 4,44 năm).
Trong khi kỳ hạn bình quân TPCP đạt mức cao kỷ lục thì lãi suất phát
hành bình quân TPCP liên tục giảm cho thấy hiệu quả của công tác phát hành
TPCP. Trong giai đoạn 2016-2020, mặt bằng lãi suất đã giảm từ mức 6,5%8,0%/năm đối với các kỳ hạn từ 5 năm đến 30 năm thời điểm đầu năm 2016
xuống còn khoảng từ 1,2%-3,3%/năm (thời điểm cuối tháng 10/2020), trong đó
kỳ hạn 5 năm đến 30 năm có lãi suất thấp nhất từ trước đến nay. Việc lãi suất
phát hành TPCP giảm đã tạo điều kiện cho Chính phủ tăng vay nợ tại thị trường
trong nước, giảm vay nợ nước ngồi, qua đó góp phần tái cơ cấu nợ công theo
hướng bền vững.
Thứ sáu, thành quả củng cố tài khóa và kiềm chế nợ cơng tạo dư địa dự
phịng chính sách để ứng phó với rủi ro vĩ mơ, góp phần cải thiện hệ số tín
nhiệm quốc gia. Cùng với nỗ lực nâng cao chất lượng quan hệ hợp tác với các tổ
chức xếp hạng tín nhiệm (XHTN), những thành tựu kinh tế - xã hội nước ta đạt
được được ghi nhận và phản ánh thông qua hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt
Nam từng bước được cải thiện. Việc nâng bậc XHTN quốc gia là thơng điệp có

0

0


Tieu luan



×