Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.86 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VKS VÀ CÔNG TÁC KIỂM
SÁT
ĐỀ TÀI: “Hãy phân tích chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát
nhân dân theo quy định của luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014?
Từ đó hãy phân tích để chứng minh: “Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế kiểm
soát quyền lực nhà nước”.

1


MỤC LỤC
A.

MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1

B.

NỘI DUNG.......................................................................................................... 2
I. Lý luận chung về chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp và hoạt động kiểm soát
quyền lực nhà nước...............................................................................................2
1.

Lý luận chung về chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp.............................2

2.

Lý luận chung về kiểm soát quyền lực nhà nước..........................................3

II. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân theo quy
định của luật tổ chức VKSND năm 2014 và chứng minh nhận định đề bài.............4


1.

Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân theo
quy định của luật tổ chức VKSND năm 2014...............................................4

2.

Chứng minh: “VKSND là một thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước”...11

III. Kiến nghị hoàn thiện chức năng kiểm sát HĐTP và vai trị của VKSND.........15
1.

Kiến nghị hồn thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp......................15

2.

Kiến nghị nâng cao vai trò của VKSND.....................................................15

C.

KẾT LUẬN........................................................................................................16

D.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................17

2


A. MỞ ĐẦU

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, thì việc củng cố và
hồn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức Nhà nước là vô cùng
cần thiết. Việc này đảm bảo cho các cơ quan, tổ chức sẽ thực hiện đúng chức trách, nhiệm
vụ công vụ được giao, quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định. Đồng thời là cơ sở để tạo
ra tính cơng bằng, minh bạch; góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy xã hội ngày càng phát
triển, vươn lên. Có thể nói, trong bộ máy nhà nước hiện nay thì Viện Kiểm sát Nhân dân là
cơ quan được giao vai trị vơ cùng quan trọng. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân cùng với
các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ cơng lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
hội, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc [1]. Để thực hiện tốt các các yếu tố trên thì Hiến pháp năm 2013 quy định rõ về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát như sau: “Thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp”. Trong đó, kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức
năng chính của VKS, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thực hiện các biện pháp nhằm
đảm bảo quyền con người nói chung và quyền bình đẳng của cơng dân nói riêng trước pháp
luật. Trước ý nghĩa trên thì một câu hỏi đặt ra là: Hiện nay thì pháp luật Việt Nam nói chung
và Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân nói riêng đã có quy định như thế nào về chức năng
Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát Nhân dân?
Trước vấn đề cần quan tâm, em xin chọn đề tài “Anh/Chị hãy phân tích chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân theo quy định của luật tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân năm 2014? Từ đó hãy phân tích để chứng minh: “Viện kiểm sát nhân
dân là một thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước” làm bài tiểu luận kết thúc học phần của
mình.

1


B. NỘI DUNG

I. Lý luận chung về chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp và hoạt động kiểm soát
quyền lực nhà nước
1. Lý luận chung về chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp
1.1.

Khái niệm về chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp

Hiện nay, kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng hết sức quan trọng trong hoạt động
công vụ của Viện kiểm sát nhân dân. Bởi việc kiểm sát hoạt động tư pháp là cơ sở cần thiết
góp phần bảo vệ pháp luật, hướng tới xây dựng xã hội tốt đẹp vươn lên. Để hiểu rõ thế nào là
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thì cần làm rõ thế nào là “Hoạt động tư pháp” và
“Kiểm sát hoạt động tư pháp”? Theo đó, Hoạt động tư pháp được hiểu là hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án do các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án thực hiện trong
khn khổ pháp luật tố tụng quy định nhằm bảo vệ các quyền lợi của Nhà nước, của các tổ
chức xã hội và của cơng dân… Bên cạnh đó, Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình
sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật [2].
Từ hai khái niệm trên có thể thấy rằng: Chức năng KSHĐTP là chức năng của VKS
nhằm mục đích kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng khác, tố chức, cá nhân trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án ở các lĩnh
vực hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động nhằm đảm bảo cho pháp
luật được thực hiện nghiêm chỉnh và áp dụng thống nhất.
1.2.

Đối tượng, phạm vi và vai trò của kiểm sát hoạt động tư pháp


Về đối tượng: đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp chính là các quyết định và
hành vi của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng tư pháp.
Việc xác định đúng đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp để phát hiện, kiểm tra tính hợp
pháp, tính có căn cứ của các quyết định và hành vi đó có ý nghĩa quan trọng nhằm thực
hiện được

2


mục đích của cơng tác kiểm sát và thực hiện có hiệu quả các quyền năng pháp lý của Viện
Kiểm sát nhân dân, hướng tới mục tiêu bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân [3].
Về phạm vi: phạm vi được xác định ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong
việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp;
các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Về vai trị: Kiểm sát hoạt động tư pháp có tác dụng trong việc phòng ngừa và ngăn
chặn mọi hành vi lạm dụng quyền lực công trong hoạt động tư pháp, nhằm phát hiện vi
phạm, kịp thời xử lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức [4].
2. Lý luận chung về kiểm soát quyền lực nhà nước
2.1.

Khái niệm về kiểm sốt quyền lực nhà nước

Trước hết, có thể thấy rằng: Kiểm sốt quyền lực nhà nước là tồn bộ hoạt động xem
xét, theo dõi, đánh giá để ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi, những việc làm
sai trái của các chủ thể (gồm cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước) trong tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước bảo đảm cho quyền lực nhà nước được sử dụng và thực hiện

theo Hiến pháp và pháp luật.
Các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm các cơ quan trong bộ máy của
nhà nước như: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tịa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia, Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân các cấp; và các thiết chế bên ngoài như: Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc, Các tổ chức xã hội, nghề nghiệp…
2.2.

Vai trị của kiểm sốt quyền lực nhà nước

Việc kiểm sốt quyền lực hà nước có một số vai trị sau đây:
Thứ nhất, kiểm sốt quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy
quyền là nhân dân đối với người được ủy quyền là Nhà nước. Việc kiểm soát quyền lực nhà
nước để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, mâu thuẫn chồng chéo hoặc trùng lắp trong quá
3


trình thực thi quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước, làm cho hiệu lực và hiệu quả
thực thi quyền lực nhà nước bị hạn chế.
Thứ hai, kiểm sốt quyền lực nhà nước cịn là tất yếu để thực thi quyền lực đạt hiệu
quả. Bởi quyền lực nhà nước nếu không được tổ chức thành hệ thống, tuân theo những
nguyên tắc, cơ chế, quy trình nhất định và được thực thi bởi những con người cụ thể thì
quyền lực khơng phát huy được vai trị của mình.
Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các chủ thể nhằm đảm bảo cho tổ chức và
hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp nhàng, ăn khớp và thông suốt. Đồng thời là cơ sở để
đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, bản chất của Nhà nước pháp
quyền XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng.
II. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân theo quy
định của luật tổ chức VKSND năm 2014 và chứng minh nhận định đề bài
1. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân theo quy

định của luật tổ chức VKSND năm 2014
Kiểm sát hoạt động tư pháp là một công việc quan trọng trong thực tiễn tổ chức và
hoạt động của nhà nước. Ở nước ta, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định cụ thể
thẩm quyền, phạm vi và thủ tục kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo đó, Viện kiểm sát là cơ
quan có thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hiện nay, nội dung của kiểm sát hoạt
động tư pháp được Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định tại Khoản 2,
Điều 6 bao gồm 09 công tác cụ thể, chia thành 02 nhóm: Nhóm 1 - Kiểm sát hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực hình sự, bao gồm các khâu cơng tác kiểm sát từ (1) đến (5) (điểm a, b, c,
d, đ khoản 2 Điều 6) và nhóm 2 - Kiểm sát hoạt động tư pháp ngồi lĩnh vực hình sự bao
gồm các khâu công tác từ (6) đến (9) (điểm e, g, h, i khoản 2 Điều 6) [5]. Nội dung cụ thể
như sau:
1.1 Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Trước hết, việc Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã được quy định cụ thể tại Điều 13 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 2014. Theo đó, việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
là giai đoạn khởi đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự để hướng tới xác định có hay
không dấu hiệu của tội phạm. Như vậy, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về
4


tội phạm, kiến nghị khởi tố là một trong những nội dung đầu tiên trong hoạt động kiểm sát
hoạt động tư pháp của VKS nhằm bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố được thực hiện đúng quy định của pháp luật; Đồng thời đảm bảo
mọi hành vi phạm tội được phát hiện kịp thời, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
VKSND kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát một cách liên tục, cụ thể và trực tiếp đối với
những hoạt động tố tụng của các chủ thể có thẩm quyền trong q trình kiểm tra, xác minh
các nguồn tin về tội phạm [6]. Cụ thể là việc Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật về
trình tự, thủ tục trong việc tiếp nhận, phân loại tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố
của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT; Kiểm sát chặt chẽ về tính

hợp pháp của các quyết định, hành vi của chủ thể được giao nhiệm vụ tiến hành giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố; kiểm sát về thời hạn giải quyết tin báo tố giác
về tội phạm; Kiểm sát chặt chẽ về mặt hình thức, nội dung kết quả giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm, kiến nghị khởi tố để từ đó có quan điểm thống nhất hoặc không thống nhất với
kết quả giải quyết của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT [7].
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong hoạt động kiểm sát ở giai đoạn này như sau:
Tiếp nhận đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do các cơ quan, tổ chức,
cá nhân chuyển đến và chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết; Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; Trực tiếp kiểm sát; kiểm
sát việc kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ và kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra; Khi phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định;
Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; Thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
1.2 Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Hoạt động khởi tố, điều tra là các giai đọan tiếp theo của việc giải quyết vụ án hình
sự. Có thể thấy, kiểm sát hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi vụ án hình sự
5


được

6


khởi tố và kết thúc khi VKS quyết định truy tố hoặc khơng truy tố người phạm tội ra tịa,
hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS. Cụ thể như sau:

Trong giai đoạn khởi tố: Sau việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, các cơ quan có
thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Đồng thời phải gửi quyết
định này tới VKS để kiểm sát việc khởi tố. VKS sẽ kiểm sát thông qua việc xem xét tính có
căn cứ hay khơng và tiến hành hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn,
hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
trái pháp luật.
Trong giai đoạn điều tra: Kiểm sát điều tra là một trong số các nhiệm vụ và quyền
hạn của Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều này có nghĩa là
hoạt động điều tra là hoạt động tư pháp, Cơ quan điều tra là cơ quan tư pháp, Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên là các chức danh tư pháp và mọi hoạt động
theo Luật Tố tụng Hình sự của cơ quan và các chức danh này phải chịu sự kiểm sát của
VKSND [8]. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra vụ án
hình sự được quy định cụ thể tại Điều 15, Luật tổ chức VKSND năm 2014 như việc: Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Kiểm sát hoạt động tố
tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; Giải quyết tranh
chấp về thẩm quyền điều tra; Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết; …
1.3 Kiểm sát việc truy tố:
Việc VKSND tham gia kiểm sát vào hoạt động truy tố nhằm đảm bảo hoạt động
TTHS của người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố được thực hiện đúng theo quy định
của pháp luật; Vi phạm pháp luật của người tham gia tố tụng được phát hiện, xử lý nghiêm
minh. Theo đó, VKS khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong
giai đoạn truy tố được thể hiện ở các nhiệm vụ: Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của
người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý
7



nghiêm minh
người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện

8


pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Bộ luật TTHS.
1.4 Kiểm sát xét xử vụ án hình sự
Kiểm sát xét xử là việc VKS áp dụng các biện pháp mà pháp luật quy định để phát
hiện các vi phạm pháp luật; và kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu các cơ quan tư pháp, tổ chức,
đơn vị và cá nhân có liên quan khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp [9].
Kiểm sát xét xử vụ án hình sự của VKS có một số nội dung sau đây:
Về đối tượng: khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự thì đương nhiên VKS phải kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đối với Tòa án, thẩm phán, hội đồng xét xử, trong các giai đoạn giải
quyết vụ án hình sự. Ngồi ra cịn kiểm sát việc tn theo pháp luật của những người tham
gia tố tụng và các chủ thể ảnh hưởng đến việc xét xử của Tòa án.
Về phạm vi: hoạt động kiểm sát xét xử được bắt đầu cùng với bắt đầu của giai đoạn
xét xử, kết thúc khi Tịa án đã hồn thành việc xét xử và thời hạn để VKS kháng nghị, kiến
nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật đã hết.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS: được quy định cụ thể tại Điều 19 Luật tổ chức
VKSND năm 2014 bao gồm các nội dung: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét
xử các vụ án hình sự của Tịa án; Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; Kiểm sát hoạt
động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; Yêu cầu Tòa án
cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị,…
Kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm: Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV
kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên tòa của HĐXX, thư ký TAND và
những người tham gia tố tụng từ khi bắt đầu phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa. Sau

khi kết thúc phiên tịa, hoạt động kiểm sát thực hiện thơng qua việc kiểm tra biên bản phiên
tòa, kiểm tra bản án, quyết định của TAND, việc giao nhận bản án, quyết định của TAND
cho bị cáo và VKS cùng cấp... Bên cạnh đó, tại phiên tịa xét xử phúc thẩm VAHS việc kiểm
sát được tiến hành tương tự việc kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm. Sau khi kết thúc phiên tòa
phúc thẩm VAHS, bản án, quyết định của HĐXX có hiệu lực ngay sau khi tuyên án. Do đó,
VKS phải kiểm sát chặt chẽ các quyết định của HĐXX như quyết định trả tự do cho bị cáo
ngay tại phiên tòa; kiểm tra các
9


văn bản tố tụng khác như biên bản phiên tòa phúc thẩm, bản án…để đảm bảo việc lập đúng
trình tự, thẩm quyền [10].
1.5 Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự
Trong thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và THAHS, VKSND kịp
thời kiểm sát nắm bắt tình hình chấp hành pháp luật trong các nhà tạm giữ, trại tạm giam và
cơ quan THAHS nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật trong việc bắt tạm giữ,
tạm giam và THAHS [11]. Việc kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự của VKS
được quy định cụ thể tại Mục 6 của Luật tổ chức VKSND năm 2014 như sau:
Về kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam: Theo đó thì Viện kiểm sát nhân dân sẽ kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam.
Khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây: Trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam; hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về
việc tạm giữ, tạm giam; Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam; Quyết định trả tự do ngay cho
người bị tạm giữ, tạm giam khơng có căn cứ và trái pháp luật; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo quy định
pháp luật,…
Về kiểm sát việc thi hành án hình sự: Cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân sẽ kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Tịa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao
một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan trong việc thi hành án hình sự. Bên cạnh đó, tại Điều 25 Luật tổ chức VKSND năm

2014 cũng đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc
thi hành án hình sự như sau: Yêu cầu Tịa án ra quyết định thi hành án hình sự; u cầu Tịa
án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án
hình sự tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thơng báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân
dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án hình sự; Quyết định trả tự do
ngay cho người đang chấp hành án phạt tù khơng có căn cứ và trái pháp luật; Kháng nghị
hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi
hành án hình sự;…
1.6 Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
10


Đối tượng kiểm sát: các VAHC, VVDS, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật là hoạt động tiếp nhận, thụ lý giải quyết các

11


12

VAHC, VVDS, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật của Tòa án; bản án, quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, vụ
việc đó và hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng.
Nội dung: Để thực hiện nhiệm vụ này VKSND tham gia các hoạt đông chủ yếu sau
đây: Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án,
vụ việc; Thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định; Tham gia phiên
tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án, vụ
việc theo quy định của pháp luật; Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; Kiểm sát hoạt
động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; Kháng nghị, kiến nghị bản án,
quyết định của Tịa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện hoạt động tố tụng; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc
giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
1.7 Kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
Đối tượng kiểm sát: hoạt động cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết
định và hoạt động xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách của
Tòa án; hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án, chấp hành viên; hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án.
Nội dung: Để thực hiện nhiệm vụ này VKSND tham gia các hoạt đông chủ yếu sau
đây: Kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết định của Tịa án;
Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới,
Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan; Kiểm sát hồ sơ về thi hành án;
Tham gia phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc xét miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước; Kiểm sát hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án;…
1.8 Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ
quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp thuộc thẩm quyền


13

Đối tượng kiểm sát: hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực TTHS,
TTDS, TTHC, thủ tục phá sản, THAHS, THADS, THAHC, thi hành tạm giữ, tạm giam,
xem xét áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tịa và việc khác mà pháp luật quy
định là HĐTP. Hay các khiếu nại, tố cáo trong HĐTP thuộc thẩm quyền của VKS, có mục
tiêu là giải quyết khiếu nại, tố cáo trong HĐTP thuộc thẩm quyền của VKS theo quy định
của pháp luật.

Nội dung: Để thực hiện nhiệm vụ này VKSND tham gia các hoạt đông chủ yếu sau
đây: Trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo HĐTP của các cơ quan có thẩm quyền là: Trực
tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong HĐTP; Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo; Kiểm tra việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo về HĐTP của cấp mình và cấp dưới; Ban hành kết luận kiểm sát, thực hiện quyền
kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Trong HĐTP thuộc thẩm quyền, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Tiếp nhận, phân
loại, thụ lý, kiểm tra, xác minh khiếu nại, tố cáo; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân giải
trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan; Áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn
thiệt hại có thể xảy ra; Ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo;…
1.9 Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp
Đối tượng kiểm sát: các hoạt động của cơ quan, người tiến hành và người tham gia
hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành
hình phạt tù. Mục tiêu của công tác này là nhằm đảm bảo hoạt động tương trợ tư pháp về
hình sự, dân sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật.
Nội dung: Để thực hiện nhiệm vụ này VKSND tham gia các hoạt đông chủ yếu sau
đây: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người tiến hành và người tham gia hoạt
động tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình
phạt tù; Tham gia phiên họp của Tòa án về việc dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành
hình phạt tù và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân; Kháng nghị quyết định có
vi phạm pháp luật của Tịa án về việc dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt
tù; Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt
động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật.


2. Chứng minh: “VKSND là một thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước”
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, VKSND chính là một thiết chế kiểm sốt quyền
lực nhà nước [12]. Với vai trị là chủ thể kiểm sốt quyền lực nhà nước, VKSND thông qua
chức năng, nhiệm vụ của mình thực hiện việc kiểm sốt quyền lực đối với các cơ quan nhà

nước khác, cụ thể như sau:
2.1 VKSND có quyền kiểm sốt việc thực hiện quyền lực nhà nước đối với các cơ
quan tư pháp
Hiện nay, Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định VKSND
là thiết chế độc lập, chuyên trách trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước
trong lĩnh vực tư pháp với chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Có thể thấy, thơng qua chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp và một số hoạt động
khác thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sốt việc thực hiện quyền lực nhà nước đối
với các cơ quan tư pháp. Cụ thể như sau:
Về nội dung, mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp: Các nội dung này đã được
quy định cụ thể trong luật tổ chức VKSND năm 2014. Cụ thể ở đây, VKS đã kiểm sát tính
hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp,
được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành
chính, vụ việc dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác
theo quy định của pháp luật [13]. Với mục đích cao nhất của các quy định này là nhằm đảm
bảo cho các hoạt động trên được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Từ đây có thể thấy rằng, trách nhiệm của VKSND luôn gắn liền với việc thực hiện
hoạt động tư pháp. Hay nói cách khác, ở đâu có hoạt động tư pháp thì ở đó có trách nhiệm
kiểm sát của VKSND. Có thể thấy, đây chính là một hình thức kiểm sốt quyền lực của VKS
đối với các cơ quan tư pháp nhằm mục đích đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp
được thực hiện một cách đứng đắn, phù hợp và phòng ngừa những sai phạm có thể xảy ra.
Về hệ thống các công tác của VKSND: Hiện nay, hệ thống các công tác nhằm thực
hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND đã được quy định trong Luật tổ
chức VKSND năm 2014. Như đã phân tích ở trên thì có thể thấy cơng tác kiểm sát của
14


VKSND


15


gồm: kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử; kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành
án hình sự; kiểm sát giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân gia đình, kinh
doanh, thương mại,… Ngồi ra, việc thực hiện cơng tác kiểm sát của Viện Kiểm sát đối với
các cơ quan tư pháp khác ở các giai đoạn khác nhau có thể sử dụng hình thức trực tiếp hoặc
gián tiếp. Việc đưa ra các quy định về hệ thống các công tác của VKS như trên nhằm đảm
bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ diễn ra hiệu quả. Đồng thời, giúp KSV có những cách thức
kiểm sát phù hợp đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.
Về việc thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền kháng nghị của VKSND:
Đây chính là các quyền mà pháp luật trao cho VKSND trong quá trình thực hiện chức năng
Kiểm sát hoạt động tư pháp. Các quyền này đã được quy định cụ thể trong Luật tổ chức
VKSND năm 2014. Việc đặt ra những quyền này của VKS nhằm tăng cường vai trò của
Viện kiểm sát, đảm bảo cho các hoạt động công vụ được diễn ra một cách hiệu quả. Mặt
khác, nhằm phát hiện những vi phạm để bảo đảm cho hoạt đông tư pháp được thực hiện
nghiêm minh, công bằng, bảo vệ quyền con người, các quyền và lợi ích của tổ chức, cá
nhân; góp phần quan trọng trong việc khẳng định và nâng cao vị thế của ngành Kiểm sát
trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Hơn hết, việc quy định các quyền trên cho VKSND đã
giúp cho VKS tăng cường quyền kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước đối với các cơ
quan tư pháp khác.
Về cơ chế trách nhiệm: Cơ chế trách nhiệm của VKSND và của cán bộ, công chức,
viên chức, nhân viên VKSND được quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 2014 bao
gồm trách nhiệm báo với cơ quan, người có thẩm quyền; trách nhiệm bồi thường, bồi hồn
khi có thiệt hại xảy ra. Theo đó thì VKS phải thực hiện các trách nhiệm trên với các cơ quan
có thẩm quyền. Đồng thời các cơ quan tư pháp khác cũng có nhiệm vụ thực hiện các trách
nhiệm trên đối với VKSND theo luật định. Cụ thể tại Điều 31 của Luật tổ chức VKSND năm
2014 quy định: “Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Quốc

hội công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; Định kỳ 06 tháng và hằng
năm, Tịa án nhân dân tối cao, Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng, Bộ Tư pháp thơng báo bằng
văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp.” Hay quy định về bồi thường, bồi hoàn thiệt hại gây ra khi thực hiện
16


nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của pháp luật tại Khoản 2 Điều 59 của luật này.

17


Về bộ máy và đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ: hiện nay, Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 đã quy định về cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ cụ thể của VKSND các cấp. Việc quy
định một cách rõ ràng nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và chức năng đề ra. Đồng thời, để
nâng cao chất lượng của đội ngũ KSV, những quy định về việc đổi mới tiêu chuẩn bổ nhiệm
áp dụng hình thức thi tuyển các ngạch KSV trừ KSV Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tiến
hành xét tuyển để chọn người đủ điều kiện thi tuyển quy định tại các Điều 77, 78, 79, 80, 86,
87 cũng nhằm tăng cường năng lực kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.
2.2 VKSND kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp bằng cơ quan điều tra– công
cụ pháp lý hữu hiệu chuyên trách điều tra các tội xâm phạm HĐTP.
Hiện nay, Điều 20 luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định về thẩm quyền của Cơ
quan điều tra VKSND tối cao và Cơ quan điều tra của VKS quân sự trung ương như sau:
“Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự
trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức
vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ,
công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án,
người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp”. Với quy định này thì Cơ quan điều tra
của VKSND được coi là công cụ pháp lý mà nhà nước giao cho VKSND nhằm đấu tranh với

các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp, bảo vệ tính đúng đắn của hoạt động tư pháp và trật
tự pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Ngồi ra cịn góp phần vào phòng chống tội phạm về
tham nhũng, chức vụ xảy ta trong hoạt động tư pháp
Từ những nội dung trên có thể thấy, Cơ quan điều tra của VKSND chính là yếu tố
bảo đảm cho việc thực hiện chức năng của VKSND có hiệu lực, hiệu quả trên thực tế. Đồng
thời, cũng là công cụ pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước đối với các
cơ quan tư pháp, làm trong sạch đội ngũ cán bộ tư pháp, tránh việc vi phạm hay làm sai lệch
tiêu cực.
2.3 VKSND kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 có rất nhiều Điều, khoản quy định về nhiệm vụ giải
quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo về hoạt động tư pháp của VKSND. Đây là
sự ghi nhận một cách đầy đủ vai trò, trách nhiệm của VKSND trước Đảng, trước Nhân dân
về việc bảo đảm tính đúng đắn của các hoạt động tư pháp trên phạm vi cả nước. Có thể thấy,
18



×