Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

9 điểm Chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân? phân tích để chứng minh: “Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.95 KB, 20 trang )

MỤC LỤC


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước kiểu mới, Nhà nước
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [1, Điều
2].VKSND là một bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước, được Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình: “Thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp”. Trong đó, kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng
chính của VKS, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thực hiện các biện pháp nhằm đảm
bảo quyền con người nói chung và quyền bình đẳng của cơng dân nói riêng trước pháp luật.
Từ lí do trên, em xin lựa chọn đề tài số 03: Anh/chị phân tích chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014? Từ đó hãy phân tích để chứng minh: “Viện kiểm sát nhân dân là
một thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước” làm bài tiểu luận học kì mơn Lý luận chung
về viện kiểm sát và công tác kiểm sát cho mình.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨC NĂNG KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1. Khái niệm
Để hiểu về chức năng KSHĐTP, trước hết ta cần làm rõ một số các khái niệm sau:
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiếp
nhận và giải quyết thông tin về tội phạm; trong quá trình giải quyết VAHS; trong việc giải
quyết các VAHC, VVDS, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động; việc THAHS,
THADS, THAHC, thi hành tạm giữ, tạm giam; việc xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tịa án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong HĐTP; các HĐTP
khác theo quy định của pháp luật [10, tr.38].
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp
của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong HĐTP, được thực hiện ngay
từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt


quá trình giải quyết VAHS; trong việc giải quyết VAHC, VVDS, HNGĐ, kinh doanh,
thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong HĐTP; các
HĐTP khác theo quy định của pháp luật [4, khoản 1 Điều 4].
Từ hai khái niệm trên, đồng thời căn cứ vào quy định của Hiến pháp, BLTTHS và
2


các văn bản pháp luật, em xin rút ra khái niệm “chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp” như
sau: Chức năng KSHĐTP là hoạt động của VKS để kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp
luật của các cơ quan tiến hành tố tụng khác, tố chức, cá nhân trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án ở các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại,
lao động nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và áp dụng thống nhất.
2. Đối tượng
Các HĐTP là đối tượng của hoạt động kiểm sát của VKSND, bao gồm: hoạt động
TTHS, TTDS, TTHC; hoạt động THAHS, THADS, THAHC; hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong HĐTP và hoạt động tương trợ tư pháp.
3. Phạm vi
KSHĐTP được VKS thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo
về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết VAHS; trong quá trình giải
quyết VAHC, VVDS, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong HĐTP; các HĐTP khác theo quy định của pháp luật.[11, tr.11].
4. Mục đích
Mục đích của KSHĐTP là nhằm bảo vệ các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong HĐTP đúng quy định của pháp luật; các quyền của tổ chức, cá nhân
được tôn trọng và bảo vệ; bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật được thi
hành nghiêm chỉnh; mọi VPPL trong HĐTP được phát hiện, xử lý theo quy định của pháp
luật [10, tr.40].
II. QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 2014 VỀ
CHỨC NĂNG KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN

DÂN
1. Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Trong quá trình giải quyết VAHS, việc tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm là giai
đoạn khởi đầu và đích đến là xác định có hay khơng dấu hiệu của tội phạm. Song hành với
chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
là chức năng THQCT của VKS. THQCT đảm bảo về mặt nội dung, cịn kiểm sát đảm bảo
về mặt hình thức. Từ đó, cơng tác việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo sẽ đảm bảo mọi
HVPT được phát hiện kịp thời, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

3


Đối tượng của kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố [10, tr.72].
Nội dung và trình tự của hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố là: (i) Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật về trình tự, thủ tục
trong việc tiếp nhận, phân loại tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT; (ii) Kiểm sát chặt chẽ về tính hợp pháp
của các quyết định, hành vi của chủ thể được giao nhiệm vụ tiến hành giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố; kiểm sát về thời hạn giải quyết tin báo tố giác về tội
phạm; (iii) Kiểm sát chặt chẽ về mặt hình thức, nội dung kết quả giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm, kiến nghị khởi tố để từ đó có quan điểm thống nhất hoặc khơng thống nhất với
kết quả giải quyết của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT [11, tr.
14].
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của VKS trong hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thể hiện như sau:
(1) Tiếp nhận đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do các cơ quan,
tổ chức, cá nhân chuyển đến và chuyển ngay cho CQĐT có thẩm quyền giải quyết.
(2) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số HĐĐT. CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT có trách
nhiệm thơng báo đầy đủ, kịp thời tố giác, tin báo đã tiếp nhận cho VKSND.
(3) Trực tiếp kiểm sát việc kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ và kết quả giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số HĐĐT phải có trách nhiệm thơng báo đầy đủ, kịp thời kết quả xác minh, giải quyết
cho VKS.
(4) Khi phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo khơng đầy đủ, VPPL thì
VKS u cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT thực hiện các
hoạt động sau đây: Tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết định giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố đầy đủ, đúng pháp luật; Cung cấp tài liệu về VPPL trong việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;….
(5) Yêu cầu thay đổi điều tra viên, cán bộ điều tra.
(6) Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo.
(6) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của BLTTHS [2, Điều 160].
4


2. Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Hoạt động khởi tố, điều tra VAHS là bước tiếp theo của q trình tố tụng, trong đó
cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp TTHS do BLTTHS năm 2015 quy định để
chứng minh HVPT đã xảy ra do ai thực hiện, làm rõ động cơ, mục đích, nguyên nhân và
điều kiện phạm tội,… nhằm đảm bảo cho việc điều tra được tiến hành đúng theo quy định
của pháp luật. Kiểm sát hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi VAHS được
khởi tố và kết thúc khi VKS quyết định truy tố hoặc khơng truy tố người phạm tội ra tịa,
hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.
Trong giai đoạn này, VKS có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT trong quá trình điều tra vụ án,
cụ thể: (i) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập HSVA của
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT; (ii) Kiểm sát hoạt động TTHS
của người TGTT; yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người

TGTT VPPL; (iii) Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; (iv) Yêu cầu CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong khởi tố, điều tra khi cần thiết; (v) Yêu cầu Thủ trưởng thay
đổi ĐTV, CBĐT; xử lý nghiêm ĐTV, CBĐT vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng; (vi)
Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm [11,12].
2.1. Kiểm sát việc khởi tố/không khởi tố vụ án hình sự
Kể từ khi ra quyết định khởi tố/khơng khởi tố VAHS, trong thời hạn 24 giờ, các cơ
quan có quyền khởi tố (CQĐT, BĐBP, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Cơ quan khác
của CAND, QĐND được giao nhiệm vụ tiến hành một số HĐĐT và HĐXX) và có quyền
khơng khởi tố (các cơ quan kể trên, trừ HĐXX) phải gửi quyết định khởi tố tới VKS để
kiểm sát việc khởi tố. Trường hợp quyết định khởi tố/không khởi tố VAHS của các cơ quan
trên (trừ HĐXX) không có căn cứ thì VKS có quyền quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố
đó. Nếu quyết định khởi tố của HĐXX khơng có căn cứ thì VKS kháng nghị lên Tòa cấp
trên.
2.2. Kiểm sát đối với các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án
Nhiệm vụ cụ thể của VKS được thể hiện ở nhiều quy định khác nhau. Trong quá
trình kiểm sát HĐĐT, việc lập HSVA của CQĐT, VKS có nhiệm vụ và quyền hạn: yêu cầu
CQĐT khắc phục các VPPL trong hoạt động điều tra; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần

5


thiết về VPPL của ĐTV; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh ĐTV đã VPPL
trong khi tiến hành điều tra,...
2.3. Kiến nghị với các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật
Để bảo đảm cho các kiến nghị của VKS có hiệu lực và hiệu quả, BLTTHS quy
định:
Những quyết định, yêu cầu của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải
được

cơ quan, tổ chức và công dân nghiêm chỉnh chấp hành [2, Điều 168].
2.4. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra
Mặc dù các quy định của BLTTHS 2015 đã giải quyết khá cụ thể những vấn đề liên
quan đến việc phân định thẩm quyền điều tra, nhưng trong thực tế thì việc nhầm lẫn, tranh
chấp về thẩm quyền điều tra vẫn thường xảy ra. Bởi vậy, VKS với tư cách là KSHĐTP
trong giai đoạn điều tra đồng thời giữ vai trò trung gian xử lý, ra quyết định cuối cùng giải
quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra được quy định trong từng điều luật cụ thể.
3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố
Người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố có thể là bị can; người bào chữa; bị
hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm
chứng; người giám định; người định giá tài sản,…
Đối tượng của việc kiểm sát tuân theo pháp luật của người TGTT trong giai đoạn
truy tố là hoạt động TTHS của người tham gia TTHS trong giai đoạn này. Mục tiêu là đảm
bảo hoạt động TTHS của người TGTT trong giai đoạn truy tố được thực hiện đúng theo quy
định của pháp luật; VPPL của người TGTT được phát hiện, xử lý nghiêm minh [10, tr.76].
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người
TGTT trong giai đoạn truy tố là: (i) Kiểm sát hoạt động TTHS của người TGTT; (ii) Yêu
cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người TGTT có
hành vi VPPL; (iii) Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội
phạm; (iv) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
4. Kiểm sát xét xử vụ án hình sự
Theo nguyên tắc hoạt động xét xử của tòa án được tiến hành một cách “độc lập và
tuân theo pháp luật” [5, Điều 9] nên trong quá trình kiểm sát hoạt động xét xử, VKS không
được trực tiếp can thiệp vào công việc xét xử của Tòa án mà thực hiện chức năng kiểm sát
6


của mình bằng việc kháng nghị các bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án
theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Để kháng nghị có chất lượng và đúng
theo quy định của pháp luật, trước hết VKS phải phát hiện ra những sai lầm, vi phạm trong

bản án, quyết định của Tịa án thơng qua việc tham gia phiên tịa sơ thẩm hoặc nghiên cứu
bản sao bản án quyết định mà Tòa án cấp sơ thẩm gửi tới theo quy định của pháp luật.
Đối tượng của việc KSXX VAHS: là hoạt động xét xử của Tòa án (HĐXX); hoạt
động của người TGTT tại phiên tòa và nội dung bản án, quyết định của Tòa án [10, tr.77].
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi KSXX hình sự gồm: (i) Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc xét xử các VAHS của TAND; (ii) Kiểm sát bản án, quyết định của
TAND; kháng nghị bản án, quyết định của TAND có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng; (iii) Kiểm sát hoạt động TTHS của người TGTT, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền xử lý nghiêm người tham gia tố tụng VPPL; (iv) Yêu cầu TAND cùng cấp,
cấp dưới chuyển HSVA để xem xét, quyết định việc kháng nghị;...[4, Điều 19].
4.1. Kiểm sát hoạt động xét xử của TAND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS
Ngoài chức năng THQCT, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, VKS đồng thời thực
hiện chức năng KSXX sơ thẩm. Theo đó, KSV phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Tòa án về thẩm quyền xét xử; về việc chuyển vụ án; về thời gian chuẩn bị xét xử; về việc
đưa ra các quyết định: Quyết định áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết
định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án [11, tr.21].Tại phiên
tịa sơ thẩm, KSV kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên tòa của HĐXX, thư
ký TAND và những người TGTT từ khi bắt đầu phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Sau khi kết thúc phiên tòa, hoạt động kiểm sát thực hiện thông qua việc kiểm tra biên bản
phiên tòa, kiểm tra bản án, quyết định của TAND, việc giao nhận bản án, quyết định của
TAND cho bị cáo và VKS cùng cấp.
4.2. Kiểm sát hoạt động xét xử của TAND trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
VAHS
VKS tiến hành kiểm sát việc ra các quyết định của Tòa án trong giai đoạn trước khi
mở phiên tòa (ví dụ như việc giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cho bị
cáo, người đại diện theo pháp luật của bị cáo…); thành phần của HĐXX tuân thủ quy định
của pháp luật và việc áp dụng các quy định của pháp luật (không thuộc trường hợp phải từ
chối tiến hành tố tụng) trong quá trình tiến hành tố tụng. Hoạt động kiểm sát tại phiên tòa
xét xử phúc thẩm VAHS được tiến hành tương tự việc kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm. Sau
7



khi kết thúc phiên tòa phúc thẩm VAHS, bản án, quyết định của HĐXX có hiệu lực ngay
sau khi tuyên án. Do đó, VKS phải kiểm sát chặt chẽ các quyết định của HĐXX như quyết
định trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa; kiểm tra các văn bản tố tụng khác như biên bản
phiên tòa phúc thẩm, bản án…để đảm bảo việc lập đúng trình tự, thẩm quyền [11, tr. 22].
5. Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự
Đối tượng của việc kiểm sát tạm giữ, tạm giam, THAHS là hoạt động quản lý, thi
hành tạm giữ, tạm giam, THAHS của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
5.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
Khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn sau: (i) Kiểm
sát tại trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ; (ii) Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam;
(iii) Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ BĐBP tự
kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho VKS,...(iv) Quyết định trả tự do
ngay cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam khơng có căn cứ và trái pháp luật; (v) Kháng
nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam; (vi)
Khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố VAHS khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong
quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (vii) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy
định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật TCVKSND và BLTTHS [6, Điều 42].
5.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc thi hành án hình
sự
Phạm vi của cơng tác kiểm sát THAHS bắt đầu từ khi bản án, quyết định về hình sự
của Tịa án có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay
theo quy định của pháp luật và kết thúc khi người bị kết án được xóa án tích (bao gồm cả
công tác kiểm sát việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù) [11, tr.26].
Khi kiểm sát THAHS, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn sau: (i) Yêu cầu TAND ra
quyết định THAHS; yêu cầu TAND, cơ quan THAHS, cơ quan, tổ chức khác tự kiểm tra
việc THAHS và thông báo kết quả cho VKS; (ii) Trực tiếp kiểm sát việc THAHS; kiểm sát
hồ sơ thi THAHS; (iii) Quyết định trả tự do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù
khơng có căn cứ và trái pháp luật; (iv) Đề nghị miễn, hỗn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành

án; tham gia việc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút
ngắn thời gian thử thách; (v) Kháng nghị hành vi, quyết định có vi VPPL của cơ quan,
người có thẩm quyền trong việc THAHS; (vi) Kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
chấm dứt, khắc phục VPPL trong THAHS; (vii) Khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố VAHS
8


khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong THAHS theo quy định của pháp luật; (viii)
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật về THAHS [8, Điều 167].
6. Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Đối tượng của công tác kiểm sát việc giải quyết các VAHC, VVDS, HNGĐ, kinh
doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật là hoạt động
tiếp nhận, thụ lý giải quyết các VAHC, VVDS, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật của Tòa án; bản án, quyết định của Tịa án
trong
q trình giải quyết vụ án, vụ việc đó và hoạt động tố tụng của người TGTT.
Trong hoạt động này, VKS kiểm sát việc thụ lý lập HSVA. Nếu phát hiện những sai
sót, nghi vấn trong quá trình thụ lý lập hồ sơ, VKS có thể tự mình xác minh vấn đề hoặc u
cầu Tịa án làm sáng tỏ vấn đề khởi tố vụ án; tham gia phiên tòa và phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong q trình xét xử của Tịa án
cũng như đối với người TGTT; kiểm sát các bản án và quyết định mà Tòa án đã tuyên; yêu
cầu Tòa án áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật; yêu
cầu Tòa án cùng cấp hoặc dưới cấp chuyển HSVA để VKS xem xét quyết định việc kháng
nghị. Ngồi ra, VKS có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
các bản án, quyết định của Tòa án; kiến nghị với Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới khắc phục
những VPPL trong việc giải quyết những vụ án đó; khởi tố về hình sự nếu có dấu hiệu phạm
tội [12, tr. 23].
7. Kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
Đối tượng của cơng tác kiểm sát THADS, THAHC là hoạt động cấp, chuyển giao,

giải thích, đính chính bản án, quyết định và hoạt động xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án
đối với khoản thu nộp ngân sách của Tòa án; hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án,
chấp hành viên; hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án.
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát THADS, THAHC như sau: (i) Kiểm
sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết định của Tịa án; (ii) Trực tiếp
kiểm sát việc thi hành án của cơ quan THADS, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân
có liên quan; (iii) Tham gia phiên họp, phát biểu quan điểm của VKS về việc miễn, giảm
nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước; (iv) Yêu cầu/kiến nghị Tòa
án, cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
9


hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc thi hành án; (v) Kháng nghị quyết định của Tòa án, Thủ
trưởng, chấp hành viên cơ quan THADS theo quy định của pháp luật;…[10, tr.84].
8. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan
có thẩm quyền; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền
8.1. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các
cơ quan có thẩm quyền
Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong HĐTP của các cơ quan có thẩm quyền
là hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực TTHS, TTDS, TTHC, thủ tục
phá sản, THAHS, THADS, THAHC, thi hành tạm giữ, tạm giam, xem xét áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tòa và việc khác mà pháp luật quy định là HĐTP [9, khoản 1
Điều 3].
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo HĐTP của
các cơ quan có thẩm quyền là: (i) Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
HĐTP; (ii) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội
dung tố cáo; Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về HĐTP của cấp mình và cấp dưới;
(iv) Ban
hành kết luận kiểm sát, thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
8.2. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc

thẩm quyền
Đối tượng của công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
của VKS là các khiếu nại, tố cáo trong HĐTP thuộc thẩm quyền của VKS, có mục tiêu là
giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong HĐTP thuộc thẩm quyền của VKS theo quy định của pháp
luật.
Các khiếu nại, tố cáo mà VKS có thẩm quyền kiểm sát được quy định tại khoản 1,2
Điều 29 Luật TCVKSND năm 2014. Khi thực hiện công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong HĐTP thuộc thẩm quyền, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn sau: (i) Tiếp nhận, phân loại,
thụ lý, kiểm tra, xác minh khiếu nại, tố cáo; (ii) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân giải trình,
cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan; (iii) Áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt
hại có
thể xảy ra ; (iv) Ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo;…

10


9. Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp
Đối tượng của công tác kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp là hoạt động của cơ
quan, người tiến hành và người tham gia hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự,
dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Mục tiêu của cơng tác này là nhằm
đảm bảo hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự, dẫn độ, chuyển giao người đang
chấp hành hình phạt tù thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Khi kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp, VKS có nhiệm vụ quyền hạn sau: (i)
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người tiến hành và người tham gia hoạt động
tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt
tù; (ii) Tham gia phiên họp của Tòa án về việc dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành
hình phạt tù và phát biểu quan điểm của VKSND; (iii) Kháng nghị quyết định có vi phạm
pháp luật của Tòa án về việc dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù;…[4,
Điều 33].

III. CHỨNG MINH NHẬN ĐỊNH: “VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN LÀ MỘT THIẾT
CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC”
1. Khái quát chung về kiếm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá để
ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi, những việc làm sai trái của các chủ thể
(gồm cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước) trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà
nước bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng và thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật
[20]. Về nguyên tắc, ở đâu có quyền lực nhà nước thì ở đó cần phải có giám sát, kiểm sốt
việc thực hiện quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam, khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã
ghi nhận rằng: “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”. Bởi vậy, việc thiết lập cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà
nước là cần thiết, nhằm ngăn chặn khả năng lạm quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước được
sử dụng đúng mục đích. Sự phân cơng và kiểm sốt quyền lực được thể hiện ngay trong việc
phân định phạm vi quyền lực đối với từng cơ quan nhà nước: Quốc hội được trao quyền lập
pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và TAND thực hiện quyền tư pháp [1, Điều 69,
94, 102].

11


2. Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước [13]
Luật TCVKSND năm 2014 được ban hành đã thể hiện được vai trò của VKSND
trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong mối quan hệ phân cơng, phối hợp, kiểm sốt
quyền lực, việc thực hiện chức năng của VKSND cho thấy, VKSND vừa là chủ thể kiểm
soát quyền lực nhà nước, vừa chịu sự kiểm sốt từ phía các cơ quan nhà nước khác. Với vai
trị là chủ thể kiểm sốt quyền lực nhà nước, VKSND thơng qua chức năng, nhiệm vụ của
mình thực hiện việc kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan nhà nước khác, cụ thể như sau:
2.1. Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sốt việc thực hiện quyền lực nhà
nước đối với các cơ quan tư pháp

Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Cụ thể hóa điều này, Luật TCVKSND năm
2014 cũng đã khẳng định rõ chức năng KSHĐTP của VKS ngay tại Điều 2 của Luật này.
Như vậy, với chức năng quan trọng được Đảng và Nhà nước giao cho, VKS chính là một
thiết chế độc lập, chuyên trách trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước
trong lĩnh vực tư pháp. Luật TCVKSND năm 2014 đã có những quy định cụ thể về hệ thống
nhiệm vụ thể hiện quyền năng chế ước của VKS, cụ thể như sau:
2.2.1. Về đối tượng, nội dung, phạm vi, mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp
Đây là điểm tiến bộ của Luật TCVKS năm 2014 so với Luật TCVKSND năm 2002
khi lần đầu tiên quy định trực tiếp về đối tượng, nội dung, phạm vi, mục đích của KSHĐTP.
Theo Điều 4 Luật TCVKSND năm 2014:
- Về đối tượng: VKS kiểm sát hoạt động TTHS, TTDS, TTHC; hoạt động THAHS,
THADS, THAHC; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong HĐTP và hoạt động tương trợ tư pháp.
- Về nội dung: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư
pháp,
được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi
tố và trong suốt quá trình giải quyết VAHS; trong việc giải quyết VAHC, VVDS, HNGĐ,
kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật (khoản 1).
- Về phạm vi: KSHĐTP được VKS thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết VAHS; trong
12


quá trình giải quyết VAHC, VVDS, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong HĐTP; các HĐTP khác theo quy định của luật.
- Về mục đích: VKSND kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm: Việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết VAHS, VAHC,

VVDS, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động, việc thi hành án; việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong HĐTP; các HĐTP khác thực hiện đúng quy định của pháp luật,…(khoản
2).
Với quy định này thì dù bất kỳ ở đâu và khi nào có HĐTP thì ở đó VKS sẽ thực
hiện
chức năng kiểm sát. Đây là một hình thức kiểm sốt quyền lực đối với các cơ quan tư pháp
mà VKS làm chủ thể kiểm soát nhằm bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp được
thực hiện một cách đứng đắn, nghiêm chỉnh, hạn chế việc lạm quyền từ phía các cơ quan
này.
2.2.2. Về hệ thống công tác
Luật TCVKSND năm 2014 đã xác định hệ thống công tác nhằm thực hiện chức
năng KSHĐTP của VKS, đó là: kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 13); kiểm sát điều tra VAHS (Điều 15); kiểm sát HĐTP
trong giai đoạn truy tố (Điều 17); kiểm sát xét xử VAHS (Điều 19); kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, THAHS (mục 6 chương II); kiểm sát giải quyết VAHC, VVDS, HNGĐ, kinh
doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát
THADS, THAHC (mục 7 chương II). Trong từng lĩnh vực công tác cụ thể, Luật TCVKSND
năm 2014 đã chỉ rõ phương thức kiểm sát như kiểm sát trực tiếp hoặc kiểm sát gián tiếp qua
bản án, quyết định, hồ sơ, đồng thời quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền cơ bản
của VKSND phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực cơng tác.
Ví dụ như khi kiểm sát THADS, THAHC, VKS có quyền “Trực tiếp kiểm sát việc
thi hành án của cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và
cá nhân có liên quan” (4, khoản 2 Điều 28), hoặc có quyền kiểm sát gián tiếp thơng qua “hồ
sơ về thi hành án” (4, khoản 3 Điều 28). Việc pháp luật quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS trong từng lĩnh vực công tác sẽ giúp KSV có những cách thức kiểm sát phù
hợp
đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong HĐTP.
2.2.3. Về việc thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKSND
13



Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu là quyền năng pháp lý của VKS được quy định
trong Luật TCVKSND năm 2014. VKS thực hiện các quyền này nhằm phát hiện những vi
phạm để bảo đảm cho HĐTP được thực hiện nghiêm minh, công bằng, bảo vệ quyền con
người, các quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân; góp phần quan trọng trong việc khẳng
định và nâng cao vị thế của ngành Kiểm sát trong hệ thống các cơ quan tư pháp [22].
Theo đó, quyền kháng nghị được VKS thực hiện khi phát hiện hành vi, bản án,
quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong HĐTP có VPPL nghiêm trọng, xâm
phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước thì VKSND phải kháng nghị.
Khi nhận được kháng nghị của VKS, cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng
nghị của VKS theo quy định của pháp luật.
Quyền kiến nghị được VKS thực hiện khi phát hiện hành vi, quyết định của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong HĐTP có VPPL ít nghiêm trọng, khơng thuộc trường hợp
kháng nghị nêu trên thì VKS phải kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục VPPL
và xử lý nghiêm minh người VPPL. Khi nhận được kiến nghị của VKS, cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị theo quy định của pháp
luật.
Quyền yêu cầu của VKS là một trong số các quyền năng quan trọng, thể hiện sự
chủ động trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát và là một trong những
căn cứ để VKS thực hiện các quyền tiếp theo như quyền kiến nghị, kháng nghị, ví dụ như:
u cầu Tịa án chuyển hồ sơ; Yêu cầu Tòa án cung cấp tài liệu về việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo,…
Thực tiễn hơn cho thấy hiệu quả thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị
của VKS còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Nguyên nhân là do: (1) Cơ sở pháp lý chưa đẩy đủ
để bảo đảm cho các quyền này phát huy hiệu quả như căn cứ thực hiện quyền kiến nghị,
quyền kháng nghị chưa được phân định rành mạch; (2) Sai phạm trong HĐTP đã được phát
hiện nhưng chưa có chế tài nên việc khắc phục và giải quyết vấn đề chưa triệt để; (3) Trách
nhiệm
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân bị yêu cầu, kiến nghị chưa được quy định rõ ràng, chặt
chẽ.

2.2.4. Về bộ máy ngành Kiểm sát và đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ

14


Để thực hiện hiệu quả chức năng KSHĐTP, ngành Kiểm sát đã xây dựng nên một
bộ máy tổ chức đảm bảo phù hợp với chức năng của từng cấp kiểm sát, cụ thể tại Điều 41
Luật
TCVKSND năm 2014 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao THQCT, KSHĐTP, góp
phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao THQCT, KSHĐTP đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân cấp cao. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp
THQCT, KSHĐTP trong phạm vi địa phương mình”.
Đồng thời, để nâng cao chất lượng của đội ngũ KSV, những quy định về việc đổi
mới tiêu chuẩn bổ nhiệm áp dụng hình thức thi tuyển các ngạch KSV trừ KSV Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, tiến hành xét tuyển để chọn người đủ điều kiện thi tuyển quy định tại các
Điều 77, 78, 79, 80, 86, 87 cũng nhằm tăng cường năng lực KSHĐTP của VKSND.
2.2.5. Về trách nhiệm của cán bộ, công chức ngành Kiểm sát
Gắn liền với nhiệm vụ, quyền hạn là trách nhiệm KSV trong việc thực hiện
KSHĐTP. Đó là trách nhiệm báo với cơ quan, người có thẩm quyền; trách nhiệm bồi
thường, bồi hồn khi có thiệt hại xảy ra. Điều 31 quy định về Trách nhiệm báo cáo công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
“1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Quốc hội
cơng tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.
2. Định kỳ 06 tháng và hằng năm, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Cơng an, Bộ Quốc
phịng, Bộ Tư pháp thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp”.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 59 Luật này cũng quy định về trách nhiệm của cán bộ, công
chức, viên chức và người lao động khác của VKSND bồi thường, bồi hoàn thiệt hại gây ra
khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.

2.2. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp bằng Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Để bảo đảm hoạt động THQCT và KSHĐTP hiệu lực và hiệu quả, góp phần bảo
đảm cho nền tư pháp trong sạch, nghiêm minh và tuân thủ pháp luật, Điều 20 Luật
TCVKSND năm 2014, Điều 163 BLTTHS năm 2015 và Điều 30 Luật Tổ chức cơ quan điều
tra hình sự năm 2015 đã giao cho CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao, CQĐT Viện kiểm
sát quân sự trung ương điều tra các tội xâm phạm HĐTP, tội tham nhũng, chức vụ xảy ra
15


trong HĐTP mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, TAND, VKSND, cơ
quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành HĐTP. So với quy định trước đây, thẩm
quyền điều tra của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay đã được mở rộng tăng
thêm (từ 14 tội danh lên 38 tội danh quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của
BLHS năm 2015). Theo đó, đối tượng, phạm vi thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT Viện
kiểm sát nhân dân tối cao tăng lên nhiều, đến cấp xã, phường, thị trấn và những người tiến
hành các HĐTP phạm tội
thuộc hai chương nêu trên (giám định viên, luật sư…). [19].
Như vậy, xét trên phương diện phòng ngừa tội phạm, CQĐT Viện kiểm sát nhân
dân tối cao thực sự là công cụ pháp lý mà Nhà nước giao cho VKSND để có thể đấu tranh
đến cùng với các hành vi xâm phạm HĐTP, là cơ chế hữu hiệu để kiểm soát quyền lực nhà
nước.
2.3. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt
động tư pháp
Nếu như trước đây, Luật TCVKSND năm 2002 chỉ quy định ngắn gọn tại Điều 4,
thì Luật TCVKSND năm 2014 đã tăng số Điều luật nội dung về nhiệm vụ giải quyết và
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về HĐTP của VKSND. Đây khơng những là việc
pháp điển hóa các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKSND trong thực hiện công
tác này từ rất nhiều các điều luật, bộ luật về tố tụng tư pháp hiện nay, mà còn là sự ghi nhận
chính thức và đầy đủ nhất vai trò, trách nhiệm của VKSND trước Đảng, Nhà nước và nhân

dân về việc bảo đảm tính đúng đắn của các HĐTP trên phạm vi cả nước.
Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp đã diễn ra trước đó
cũng chính sự kiểm tra lại q trình kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Có thể nói,
đây cũng là hình thức kiểm sốt quyền lực của VKSND đối với các cơ quan tư pháp, tuy
nhiên, nó tương đối đặc biệt khác với các hình thức kiểm sốt quyền lực nhà nước khác, đó
là chủ thể kiểm soát quyền lực và thực hiện việc kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan
nhà nước khác, nhưng cũng vừa tự mình kiểm sốt mình khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn.
Như vậy, vai trị này khơng thể thiếu ở một thiết chế chuyên trách kiểm sát trong HĐTP như
VKS.
2.4. Viện kiểm sát thực hiện cơ chế tự kiểm soát nội bộ (kiểm soát bên trong)
Bên cạnh việc kiểm soát thực hiện quyền lực đối với các cơ quan nhà nước, VKS
cũng thực hiện cơ chế tự kiểm soát nội bộ (cơ chế kiểm soát bên trong), thể hiện như sau:
16


Thứ nhất, cơ chế tự kiểm soát trong nội bộ hệ trong ngành trước hết thể được thể
hiện qua nguyên tắc đặc thù về tổ chức và hoạt động của VKSND - nguyên tắc tập trung,
thống nhất lãnh đạo trong Ngành (4, Điều 7). Theo đó, tất cả các VKSND từ trên xuống
dưới tạo thành một hệ thống thống nhất. VKSND cấp dưới chịu sự chỉ lãnh đạo của
VKSND cấp trên. Mọi hoạt động của VKSND, dù ở cấp nào đều đặt dưới sự lãnh đạo của
Viện trưởng. Viện trưởng VKSND phải chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của
VKS do mình lãnh đạo trước Viện trưởng VKSNDTC. Viện trưởng VKSNDTC chịu trách
nhiệm cá nhân
về hoạt động của toàn ngành trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Thứ hai, cơ chế tự kiểm soát nội bộ VKS được bảo đảm bởi chế độ thanh tra, kiểm
tra trong ngành kiểm sát. Tính đến nay, đã có 48 VKSND tỉnh, thành phố được thành lập
Thanh tra với tư cách là một đơn vị nghiệp vụ độc lập do Viện trưởng VKSND cấp tỉnh trực
tiếp chỉ đạo. Trong hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của ngành Kiểm sát thì Thanh tra
là “cánh tay” của Viện trưởng trong tổng thể hoạt động quản lý. Ở VKSND tối cao, Thanh
tra giúp cho Viện trưởng nắm chắc được đầy đủ các thơng tin về tình hình hoạt động của

tồn ngành, kết hợp với các kênh thơng tin khác từ các đầu mối nghiệp vụ của VKSND tối
cao, VKSND các địa phương để Viện trưởng thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo toàn
ngành [18].
Thứ ba, cơ chế tự kiểm sốt nội bộ cịn được bảo đảm bởi ý thức về trách nhiệm
của cán bộ, công chức và viên chức và nhân viên của VKSND khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình. Theo đó, Luật TCVKSND năm 2014 đã quy định rõ ràng, đầy đủ hơn
trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên của VKSND (Điều 59), những
việc KSV không được làm (Điều 84); đặc biệt đã làm rõ mối quan hệ giữa tính độc lập tuân
theo pháp luật của KSV khi thực hiện nhiệm vụ với sự chỉ đạo của Viện trưởng để làm rõ
trách nhiệm của KSV và của Viện trưởng trong trường hợp có xung đột quan điểm (khoản 1
Điều 83).
Như vậy, với phân tích trên, có thể khẳng định VKSND là một thiết chế kiểm soát
quyền lực nhà nước rất quan trọng trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam . Thông qua chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND trở thành chủ thể kiểm soát
quyền lực đối với các cơ quan khác trong lĩnh vực tư pháp; đồng thời, VKSND cũng là chủ
thể chịu sự kiểm soát từ các cơ quan khác, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân.

17


C. KẾT LUẬN
Với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin
tưởng giao cho, trong những năm qua, VKSND đã hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, bảo vệ
quyền con người, quyền cơng dân, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Trong thời gian tới, chức năng KSHĐTP cần tiếp tục được mở rộng về đối
tượng, phạm vi kiểm sát; các phương thức KSHĐTP do luật quy định cần được áp dụng đầy
đủ, linh hoạt trong từng lĩnh vực công tác; các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị cần
được quy định cụ thể hơn, có cơ chế hiệu quả để đảm bảo thực hiện. Là một sinh viên Kiểm
sát với mong muốn trở thành KSV giỏi trong tương lại, việc nghiên cứu giúp bản thân em
có cái nhìn tồn diện hơn về chức năng KSHĐTP, từ đó tích lũy và trang bị thêm những

kiến thức cần thiết cho bản thân mình để phục vụ cơng việc sau này./.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].

Hiến Pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

[2].

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3].

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.

[4].

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

[5].

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[6].

Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.


[7].

Luật Cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

[8].

Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

[9].

Thơng



liên

tịch

số

01/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP-BTC-

BNN&PTNT ngày 05/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tịa án dân dân
tối

cao - Bộ cơng an – Bộ quốc phòng - Bộ tư pháp – Bộ tài chính - Bộ nơng nghiệp và
phát triển nơng thơn về Quy định phối hợp trong việc báo cáo, thông báo về công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.

[10]. TS. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên): Giáo trình Lý luận chung về viện kiểm sát và cơng

tác kiểm sát, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Nxb. Tư Pháp, năm 2019.
[11]. Ngô Xuân Minh: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa
học

xã hội, Đắk Lắk, năm 2019.

[12]. Đỗ Thị Quỳnh Thu: Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân ở Hải Phòng hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, năm 2014.
[13]. Ths. Lê Ngọc Duy: Viện kiểm sát nhân dân – một trong những thiết chế kiểm sốt
quyền lực nhà nước, Tạp chí khoa học Kiểm sát số 03/2015.
[14]. Ths. Lê Ngọc Duy: Về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà
nước Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Kiểm sát số 14/2019.
[15]. TS. Lê Ngọc Duy: Một số vấn đề lý luận về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
của

Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát số 10/2021.

[16]. Tạp chí Kiểm sát: Hội nghị triển khai công tác kiểm sát năm 2020 của ngành Kiểm
sát

nhân dân, ngày 27/12/2019, 8547.html, truy cập 3/7/2021.

[17]. Cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Báo cáo công tác của Viện
19


trưởng VKSND tối cao tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, ngày 26/10/2020,
/>

truong-vksnd-toi-

cao-tai-d2-t8547.html, truy cập ngày 3/7/2021.

20



×