Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tiểu luận cao học môn xã hội học trong lãnh đạo, quản lý vai trò của dư luận xã hội trong công tác lãnh đạo, quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.33 KB, 11 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Dư luận xã hội - với tư cách một hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của
đời sống xã hội, ln đóng vai trị quan trọng trong việc bảo vệ những giá trị
chung của xã hội cũng như lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Đối với
đại đa số nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc ln ở vị trí hàng đầu. Mỗi khi các
giá trị của quốc gia, dân tộc bị xâm hại thì dư luận xã hội lập tức xuất hiện với
thái độ lên án, phản đối gay gắt; đồng thời dư luận xã hội cũng có tác dụng
tuyên truyền trong các tầng lớp xã hội những giá trị pháp luật và các tư tưởng
tiến bộ, nhân văn.
Trong quản lý xã hội đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải hiểu biết sâu
sắc nhu cầu và lợi ích của quần chúng trong sản xuất cũng như trong đời sống.
Nghiên cứu dư luận xã hội là mợt trong những hình thức tốt nhất để thu thập
những thông tin phản ánh tâm tư nguyện vọng cũng như suy nghĩ và cảm xúc
của các tầng lớp xã hội. Dư luận xã hội giúp ta nắm bắt kịp thời thực trạng tư
tưởng của các nhóm xã hội khác nhau, cũng như những diễn biến của thực trạng
này trong từng thời kỳ. Đây cũng là những nguồn thông tin vô cùng quý giá giúp
ta khắc phục bệnh quan liêu xa rời thực tiễn, xa rời quần chúng, khắc phục bệnh
chủ quan duy ý chí trong lãnh đạo quản lý xã hội. Vì các thơng tin này cịn là
những tín hiệu phản hồi từ phía xã hội, từ phía quần chúng đối với việc thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội từ đó có cơ sở điều chỉnh, bổ sung các chủ
trương biện pháp cho phù hợp hơn.
Xuất phát từ ý nghĩa và vai trò quan trọng của dư luận xã hội, tơi chọn nội
dung “Vai trị của dư luận xã hội trong công tác lãnh đạo, quản lý”, làm bài thu
hoạch môn Xã hội học trong lãnh đạo, quản lý.


2

PHẦN NỘI DUNG
1. Khái niệm
Dư luận xã hội là một hiện tượng đời sống xã hội quen thuộc mà mỗi cá


nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng ngày, thường phải
quan tâm và tính tốn đến. Phần đông các nhà nghiên cứu định nghĩa DLXH là
sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng xã hội đối với các
vấn đề mà họ quan tâm. Có thể liệt kê ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về dư
luận xã hội nhưng khái niệm về dư luận xã hội sau đây tương đối phù hợp với
thực tiễn Việt Nam hiện nay: “Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến cá
nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự, có liên quan đến lợi
ích, các mối quan tâm của công chúng”.
Một số lưu ý:
- Dư luận xã hội như là sản phẩm của ý thức xã hội thể hiện trên các mặt
nhận thức, cảm xúc, ý chí (đơi khi cả trong hành động). Mỗi luồng ý kiến là một
tập hợp các ý kiến cá nhân giống nhau; Dư luận xã hội có thể bao gồm nhiều
luồng ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau; Luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt
đại đa số, đa số, nhiều ý kiến) hoặc hẹp (một số ý kiến).
- Khách thể của dư luận xã hội là những sự kiện, hiện tượng khác nhau
trong đời sống xã hội và gắn với lợi ích của các nhóm xã hội. Chỉ có những sự
kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội có tính thời sự, liên quan đến lợi ích, các mối
quan tâm hiện có của nhiều người mới có khả năng tạo ra dư luận xã hội.
- Chủ thể của dư luận xã hội là các tầng lớp nhân dân, những người có
liên quan hoặc có mối quan tâm đến các sự kiện hiện tượng nói trên.
- Phương thức thể hiện của dư luận xã hội tồn tại dưới nhiều hình thức:
cơng khai hoặc ngấm ngầm khơng cơng khai. Xét về khía cạnh nhận thức, dư
luận không tuân theo qui tắc nghiêm ngặt của nhận thức chân lý, trong dư luận
ln có cái đúng và cái sai.


3

- Dư luận xã hội có các thuộc tính sau:
+ Khuynh hướng: Thái độ của dư luận xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện

tượng, q trình xã hội có thể khái quát theo các khuynh hướng nhất định: tán
thành, phản đối hay băn khoăn, lưỡng lự, chưa rõ thái độ. Cũng có thể phân chia
dư luận theo các khuynh hướng như tích cực, tiêu cực; tiến bộ, lạc hậu, “cấp
tiến”, “bảo thủ”....
+ Cường độ: Thể hiện “sức căng” của mỗi khuynh hướng. Ví dụ, khuynh
hướng phản đối có thể biểu hiện ở các sức căng khác nhau: phản đối gay gắt;
phản đối, nhưng không gay gắt….
+ Sự thống nhất và xung đột của dư luận xã hội: Theo các nhà xã hội học,
đồ thị phân bố dư luận xã hội hình chữ U (có hai luồng ý kiến chính, trái ngược
nhau, tỷ lệ ủng hộ mỗi luồng ý kiến này ngang bằng hoặc xấp xỉ nhau) biểu thị
sự xung đột, hình chữ L (trong số các luồng ý kiến, nổi lên một luồng ý kiến
được đa số ủng hộ) biểu thị sự thống nhất cao.
+ Tính bền vững: Một số tác giả thường khẳng định dư luận xã hội có tính
dễ biến đổi. Tuy nhiên khẳng định này mới chỉ đúng một phần. Có những dư
luận xã hội chỉ qua một đêm là thay đổi, nhưng cũng có những dư luận hàng
chục năm không thay đổi.
+ Sự tiềm ẩn: Dư luận xã hội về những vấn đề của cuộc sống xã hội có thể
ở trạng thái tiềm ẩn, khơng bộc lộ bằng lời.
- Cơ sở nhận thức và cơ sở xã hội của dư luận xã hội:
+ Cơ sở nhận thức của dư luận xã hội: Nội dung và sắc thái của dư luận
xã hội được quy định trước hết bởi trình độ hiểu biết của cơng chúng, nhóm xã
hội. Sự hiểu biết nhiều hay ít, sâu sắc hay khơng sâu sắc của cơng chúng, nhóm
xã hội đối với vấn đề, hiện tượng, sự kiện quyết định sự đánh giá đúng hay sai
của cơng chúng, nhóm xã hội đối với vấn đề, sự kiện, hiện tượng đó. Một trong
những yếu tố nhận thức có ảnh hưởng khá phổ biến đến sự phán xét của dư luận


4

xã hội, đó là khn mẫu tư duy xã hội. Khuôn mẫu tư duy xã hội là những quan

niệm, suy lý, phán xét khái quát, giản đơn, hữu hạn nhưng có tính phổ biến và
tương đối bền vững trong một cộng đồng xã hội.
+ Cơ sở xã hội của dư luận xã hội: Các yếu tố xã hội, trước hết là lợi ích
nhóm, tầng lớp, giai cấp, quốc gia, dân tộc có mối liên hệ chặt chẽ với nội dung
và sắc thái của dư luận xã hội. Trong một nhà nước mạnh, chính quyền và nhân
dân gắn bó với nhau, lợi ích quốc gia, dân tộc thường được coi trọng hơn các lợi
ích khác (cá nhân, nhóm, tầng lớp, giai cấp); trước các sự kiện, hiện tượng, vấn
đề xã hội, người ta thường lấy lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng làm
cơ sở để đưa ra sự nhận xét, đánh giá, bày tỏ thái độ của mình. Trong một nhà
nước yếu, dân chủ không được coi trọng, pháp luật, kỷ cương bị buông lỏng,
chủ nghĩa cá nhân phát triển, người ta thường nhân danh lợi ích quốc gia, dân
tộc, cộng đồng để đưa ra ý kiến này, ý kiến kia, nhưng nếu phân tích kỹ thì
khơng phải như vậy, lợi ích cá nhân, cục bộ mới chính là căn cứ của các ý kiến
đó. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều lợi ích
khác nhau. Về bản chất, các lợi ích này là thống nhất với nhau. Tuy nhiên, ngoài
các lợi ích cá nhân, đặc thù hợp lý của các cá nhân, tầng lớp, giai cấp, nhóm xã
hội (các lợi ích gắn liền với lợi ích quốc gia, dân tộc), các cá nhân, tầng lớp, giai
cấp, nhóm xã hội có thể chạy theo các lợi ích cá nhân, đặc thù cực đoan, có lợi
cho mình nhưng đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc nói chung, của các cá
nhân, tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội khác nói riêng.
2. Vai trị của dư luận xã hội trong cơng tác lãnh đạo, quản lý
Dư luận xã hội được xem như là một trong những nhiệm vụ quan trọng
thuộc lĩnh vực công tác tuyên huấn của Đảng Cộng sản các nước. Trong điều
kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thập kỷ 70, 80 của thế kỷ 20, nghiên cứu dư
luận xã hội cho phép hoàn thành một loạt những nhiệm vụ quan trọng về lãnh
đạo xã hội: Trong hoạt động kinh tế và xã hội của Đảng và Nhà nước, nó giúp
phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh đang tác động tới những bộ phận nhất


5


định của xã hội và do đó có thể áp dụng những biện pháp đúng lúc để giải quyết
vấn đề. Trong lĩnh vực tư tưởng, việc nắm bắt dư luận xã hội cho phép hiểu biết
sự phát triển của ý thức giác ngộ của quần chúng và rút ra những kết luận về
hiệu quả công tác tư tưởng do Đảng tiến hành. Nói về vai trị của dư luận xã hội
trong hoạt động quản lý, V.I. Lênin chỉ rõ: “chúng ta chỉ có thể lãnh đạo tốt nếu
chúng ta biết thể hiện chính xác những gì mà nhân dân lo nghĩ” . Như vậy, dù
muốn hay không muốn, phần lớn các chính trị gia, các nhà nghiên cứu triết học
đều nhận thấy vai trò hết sức quan trọng của dư luận xã hội trong việc quản lý,
điều hành xã hội.
Trong các tài liệu về công tác xây dựng Đảng của các Đảng Cộng sản
Liên Xô, Cu Ba… công tác dư luận xã hội được xem như là một phương tiện để
thu thập thơng tin và nhận biết chính xác nhất thực trạng của một hiện tượng
nhất định đồng thời nó cho phép các nhà làm công tác tư tưởng đi sâu tìm hiểu
những mặt cụ thể của một vấn đề bất kỳ lúc nào. Công tác nghiên cứu dư luận
xã hội chủ yếu được thực hiện thông qua việc lấy thông tin định kỳ từ các đảng
viên, thông tin viên dư luận… tổng hợp thành các báo cáo dư luận xã hội; thơng
qua các cuộc thăm dị, điều tra, khảo sát lấy ý kiến dư luận xã hội các tầng lớp
nhân dân.
Ở Mỹ và các nước phương Tây, dư luận xã hội đã được quan tâm đến từ
khá sớm và được xem như một công cụ lãnh đạo của giai cấp tư sản. Cùng với
sự phát triển của nền dân chủ tư sản, hiện tượng dư luận xã hội được quan tâm
nhiều ở các nước châu Âu từ cuối thế kỷ 19 và trở thành trung tâm của sự chú ý
vào cuối thế kỷ 20. Dư luận xã hội được xem như một ngành khoa học liên
ngành bao gồm chính trị học, tâm lý học, xã hội học, báo chí học…
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vai trị của dư luận xã hội đối với
quá trình lãnh đạo, quản lý xã hội:
Những người có quan điểm dựa trên tinh thần của các nhà triết học như
Platon, Thomas Hobbes, Walter Lippman… khơng đồng ý rằng quần chúng có



6

đủ khả năng giúp ích cho chính phủ. Theo các tác giả này, chính phủ khơng nên
giám sát thơng tin về các cuộc thăm dò dư luận xã hội tiến hành hàng ngày hoặc
tham khảo kết quả trưng cầu dân ý để quyết định các chương trình nghị sự của
họ. Họ cho rằng đa số dân chúng không nắm được thơng tin, do đó dân chúng
khơng thể có khả năng biết được cái gì là tốt cho đất nước mình. Họ cũng cho
rằng khi các nhà lãnh đạo mong chờ vào ý kiến dư luận (như qua các cuộc điều
tra, lấy ý kiến của các nhóm trong xã hội) thì họ sẽ trở thành những kẻ đi theo
gót dư luận chứ không phải là những nhà lãnh đạo. Những người thuộc trường
phái này nhìn nhận các cuộc trưng cầu ý kiến của chính phủ là một phương pháp
khơng thích hợp để quyết định các công việc của đất nước.
Những người theo quan điểm của những triết gia đặt nhiều niềm tin vào
quần chúng như Aristotle, Locke, Rousseau và Jefferson..., lại chủ trương ủng
hộ sự tham gia đầy đủ của công chúng vào mọi cơng việc của chính phủ, những
người theo quan điểm này đều đồng tình với quan điểm: mọi quyết định đưa ra
mà thiếu sự hiểu biết về dư luận xã hội sẽ chỉ đại diện cho ý kiến của tầng lớp
tinh hoa, chịu ảnh hưởng của vận động hành lang hoặc những nhóm lợi ích đặc
biệt. Họ tin rằng nghiên cứu dư luận xã hội đóng một vai trị quan trọng vì nó
đảm bảo sự tham gia đầy đủ của mọi cơng dân vào cơng việc chính phủ. Ngày
nay, Mỹ và các nước phương Tây sử dụng triệt để các kết quả điều tra dư luận
xã hội vào mục đích chính trị cũng như quản lý kinh tế. Tại các nước này, có hai
hình thức nắm bắt dư luận xã hội chủ yếu: một là, thăm dò dư luận xã hội (poll)
được sử dụng phổ biến trong các chiến dịch vận động tranh cử bởi tính chất
nhanh, chính xác của thông tin thu được. Hai là, điều tra dư luận xã hội (survey)
được sử dụng dưới hình thức phát phiếu điều tra hoặc tiến hành các cuộc phỏng
vấn, thảo luận để thu thập thông tin.
Ở Việt Nam, ngay từ đầu những năm 80 (thế kỷ XX), Đảng ta đã thấy
được sự cần thiết của công tác nghiên cứu dư luận xã hội. Hoạt động nghiên

cứu, điều tra, nắm bắt dư luận xã hội đã chính thức được thực hiện kể từ năm


7

1982, khi Ban Bí thư có quyết định thành lập Viện Dư luận xã hội trực thuộc
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương).
Trong những năm qua, tầm quan trọng của công tác điều tra, nắm bắt,
nghiên cứu dư luận xã hội đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng:
Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) có nêu
nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng thơng tin nội bộ và công tác tuyên truyền, coi
trọng biện pháp điều tra dư luận xã hội”; Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương (khóa VII) yêu cầu: “Tổ chức điều tra dư luận xã hội về những vấn
đề cần thiết cho công tác lãnh đạo, quản lý nhà nước”; Nghị quyết Trung ương
5, khố X về cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, tiếp tục
nhấn mạnh "Chú trọng công tác nghiên cứu, điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận
xã hội phục vụ công tác tư tưởng”...
Gần đây nhất, ngày 18 tháng 8 năm 2014, Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khố XI) đã ra Kết luận số 100-KL/TW về việc đổi mới và nâng cao chất lượng
công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội, trong đó nêu rõ: “Điều
tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội là công việc quan trọng và rất cần thiết
nhằm nắm bắt, tập hợp kịp thời, sát thực tâm tư, tình cảm, ý chí, nguyện vọng
của Nhân dân về những vấn đề, sự kiện có tính thời sự trong nước và thế giới,
đặc biệt là đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; giúp các
cơ quan lãnh đạo, quản lý có thêm thơng tin tham khảo trong q trình xây
dựng, hồn thiện và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; là một khâu quan trọng, cần thiết trong xây dựng, ban
hành, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước”.
Điều tra dư luận xã hội là hình thức nắm thơng tin dư luận xã hội bằng

phương pháp điều tra xã hội học. Phương pháp này tuân thủ nghiêm ngặt các yêu
cầu có tính khoa học. Hiện nay, hình thức phổ biến là điều tra thông qua phát
phiếu hỏi cho các đối tượng được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu


8

nhiên hoặc có chủ định. Nắm bắt dư luận xã hội là hình thức tập hợp thơng tin dư
luận xã hội không thông qua phương pháp điều tra xã hội học. Hình thức nắm bắt
dư luận xã hội rất đa dạng, bao gồm: Nắm bắt thông tin qua mạng lưới cộng tác
viên; qua các phương tiện thông tin đại chúng; qua việc lấy ý kiến đóng góp của
các tầng lớp nhân dân đối với dự thảo các văn kiện, văn bản pháp luật… Nghiên
cứu dư luận xã hội là những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về dư luận xã hội.
3. Liên hệ thực tế ở đơn vị Tạp chí Cộng sản
Với chức năng là cơ quan lý luận và chính trị của Đảng, Tạp chí Cộng sản
phải làm rõ cơ sở lý luận, tính đúng đắn, tính khoa học của đường lối, chính
sách của Đảng. Tạp chí lại phải dùng lý luận phân tích những vấn đề nảy sinh từ
cuộc sống chính trị - xã hội trong nước và trên thế giới mà cán bộ, đảng viên và
nhân dân quan tâm, từ đó hướng dẫn các hoạt động thực tiễn. Thông qua việc
tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tạp chí
lý luận của Đảng đấu tranh chống các khuynh hướng tư tưởng sai lầm, chống
mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng. Trong cuộc
đấu tranh đó, Tạp chí phải dùng lý luận để phân tích, phê phán những điều sai
trái, và trình bày những tư tưởng, quan điểm, nhận thức đúng. Các bài viết đăng
trên tạp chí phải có sức thuyết phục bằng sự soi sáng của lý luận. Có nắm vững
chức năng lý luận và chính trị của Tạp chí mới phát hiện đúng những đề tài,
những vấn đề mà Tạp chí cần đề cập trong từng thời kỳ, và cả trong từng bài cụ
thể.
Tạp chí là của toàn Đảng, với chức trách và nhiệm vụ của mình là cơ quan
lý luận và chính trị của Đảng, chịu trách nhiệm trước Đảng về việc tổ chức, biên

tập bài của Tạp chí, đội ngũ cán bộ biên tập của Tạp chí có vai trị rất quan trọng
trong hoạt động của Tạp chí. Chính họ là người xây dựng kế hoạch hằng năm,
từng quý, từng tháng của Tạp chí và chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch đó.
Chính họ là người chịu trách nhiệm tổ chức, xây dựng đội ngũ cộng tác viên,


9

góp ý với cộng tác viên về đề tài và nội dung thể hiện trong từng bài, trực tiếp
biên tập bài do cộng tác viên gửi đến. Điều đó địi hỏi Bộ Biên tập chẳng những
phải quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, mà còn phải quán triệt quan
điểm báo chí cách mạng của Đảng. Cán bộ trong Bộ Biên tập Tạp chí phải thật
sự là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, lý luận của Đảng, là
những người có phẩm chất chính trị tốt, có tính Đảng cao, có lập trường, quan
điểm vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, tin tưởng tuyệt đối ở Trung
ương Đảng, có trình độ hiểu biết về lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm, đường lối của Đảng. Cán bộ biên tập Tạp chí phải hiểu biết sâu về
thực tiễn cách mạng Việt Nam, nắm được kịp thời những vấn đề cuộc sống đang
đặt ra. Đồng thời họ phải là nhà báo thật sự, phải có năng lực nghiên cứu và biên
tập, phải có sự nhạy cảm trong việc nắm bắt các vấn đề, dư luận xã hội và có
trình độ thể hiện. Đó là chưa nói đến trình độ học vấn, ngoại ngữ, tin học cần
thiết mà một người hoạt động báo chí phải có. Mặt khác, cán bộ biên tập Tạp chí
phải là những người làm báo có đạo đức, giữ vững đạo đức báo chí, khơng cá
nhân, vị kỷ, khơng chạy theo danh lợi mà uốn cong ngòi bút.

PHẦN KẾT LUẬN


10


Trong những năm qua, xác định rõ tầm quan trọng của cơng tác nắm bắt
dư luận xã hội, vai trị vị trí của nó đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, góp
phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, phát triển kinh tế của đất nước. Đặc
biệt, trong thời điểm hiện nay, các thế lực thù địch phản động không ngừng từ
bỏ âm mưu chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược "Diễn biến hoà bình".
Trước sự bùng nổ thơng tin một cách mạnh mẽ; sự phát triển vượt bậc của
Internet và các loại báo mạng điện tử thì việc cần phải nắm vững tư tưởng, định
hướng thông tin đối với nhân dân là yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ những
người làm công tác tư tưởng của Đảng.
Thực tiễn cho thấy, hoạt động lãnh đạo, quản lý mang tính chất rất phức
tạp. Vì vậy, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có sự nhạy bén, sáng
tạo, quyết đốn trong những hoàn cảnh cụ thể để đưa ra quyết định lãnh đạo
đúng đắn, phù hợp với quy định của pháp luật.
Hiện nay sự nghiệp đổi mới đất nước diễn ra càng nhanh, càng nhiều vấn
đề mới nảy sinh vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích dư luận xã hội về
các vấn đề mới đó càng giúp cho các nhà lãnh đạo, quản lý có thêm cơ sở để đề
ra những quyết định đúng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đi đúng hướng và đem lại
hiệu quả thiết thực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


11

1- Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII,
Nxb. Chính trị quốc gia, H, 199.
1991.

2- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
3- Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về cơng tác tư tưởng, lý luận.

4- Kết luận số 100-KL/TW ngày 18/8/2014 của Ban Bí thư Trung ương

Đảng về đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, năm bắt, nghiên cứu
dư luận xã hội.
5- Tài liệu bài giảng của Phạm Văn Hảo – GVKC, Viện xã hội học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.



×