LỜI NĨI ĐẦU
Hiện nay, trong tồn bộ những vấn đề của lồi người, quyền con người
và quyền cơng dân là những vấn đề có lịch sử lâu đời cả về phương diện thực
tiễn cũng như lý luận. Đó ln là mối quan tâm của nhân loại ở mọi thời kỳ
phát triển của nó. Mỗi bước phát triển của quyền con người, quyền công dân
đều gắn liền và là thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng tư sản,
phản ánh q trình nhân loại tự giả phóng mình. Do vậy những vấn đề quyền
con người và quyền công dân bao giờ cũng là những điểm nóng của các cuộc
đấu tranh giai cấp, đặc biệt thể hiện trên bình diện đấu tranh tư tưởng. Trong
khuôn khổ bài tiểu luận này em chỉ xin trình bày những nét khái quát nhất về
vấn đề quyền con người và quyền công dân.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ
QUYỀN CÔNG DÂN
1. Khái niệm chung về quyền con người và quyền công dân.
Quyền con người được hiểu là những đặc quyền mà do tự nhiên con người
vốn vẫn có. Đó là nhữngkhả năng hành động một cách có ý thức của con
người. Tuy nhiên, tự 4 bản thân chúng đặc quyền chưa phải là quyền, để đạt
được cái gọi là quyền cần một yếu tố đó là quy chế pháp lý. Các đặc quyền
của cá nhân khi trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật thì mới trở thành
các quyền của con người. Khơng có luật pháp thì khơng có quyền của con
người. Do đó, quyền của con người được định nghĩa là những đặc quyền của
con người được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ
trong mối liên hệ với nhà nước và với những cá nhân con người khác. Khái
niệm về quyền công dân cũng ra đời từ lâu trong lịch sử, được sử dụng rông
rãi trong xã hội tư sản. So với khái niệm quyền con người, khái niệm quyền
công dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia, được pháp luật
của mỗi quốc gia quy định. Cũng do vậy nội dung , số lượng, chất lượng của
quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không giống nhau. Đương nhiên
khơng có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân.
2. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân Quyền con
người và quyền công dân là những khái niệm không đồng nhất xét về phương
diện chủ thể lẫn nội dung. Quyền con người là khái niệm rộng hơn, một mặt
quyền con người không loại trừ quyền công dân, mặt khác 5 cũng không thể
thay thế được khía niệm đó. Ngược lại, khái niệm quyền công dân cũng
không thể chứa đựng hết khái niệm quyền con người. Trong ý nghĩa pháp lý,
khái niệm quyền công dân hẹp hơn, không bao quát tất cả các quyền của cá
nhân con người được nhà nước thừa nhận và bảo vệ bằng pháp luật trong
nước cũng như pháp luật quốc tế. Về phương diện chủ thể, quyền con người
1
ngồi cá nhân được xác định là cơng dân cịn bao hàm cả những người không
phải là công dân( người nước ngồi, người khơng quốc tịch,...). Những người
này tuy khơng được hưởng quyền công dân nhưng vẫn được hưởng các quyền
con người với tính cách là một thực thể tự nhiên – xã hội.
CHƯƠNG II: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA VẤN ĐỀ QUYỀN
CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN
1. Nguồn gốc, bản chất của quyền con người và quyền công dân
Theo quan niệm của trường phái pháp luật tự nhiên, quyền con người là
thuộc tính tự nhiên vốn có của con người. Con người ra đời đương nhiên có
những quyền con người. quyền con người không do sự ban phát trao tặng cuả
bất cứ 6 ai. Với quan niệm này, quyền con người xuất hiện từ rất sớm trước
khi có nhà nước, pháp luật. Quan niệm thứ hai đặt con người cũng như quyền
của nó trong tổng hồ các mối quan hệ xã hội. Cuộc đấu tranh vì quyền con
người là một thực tế lịch sử lâu đời, nhưng khong phải ngay từ khi xuất hiện
loài người vấn đề quyền con người đã được đặt ra một cách trực tiếp. Nhân
quyền là một giá trị nhân loại, đồng thời cũng là một khái niệm có tính lịch
sử, hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung qua các thời đại
khác nhau. Quyền con người cũng không phải là một khái niệm trừu tượng
mà gắn liền với cuộc đấu tranh chơng áp bức bóc lột, chống bbất cơng trong
xã hội, gắn với từng trình độ phát triển và tiến bộ xã hội, chịu sự hạn định của
chế độ kinh tế, đặc biệt là của chế độ chính trị, nhà nước.
2. Nội dung quyền con người và quyền công dân
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của quyền con người và
quyền công dân.
- Theo nhu cầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cơ thể, nội dung
của quyền con người và quyền công dân bao gồm: Quyền được đảm bảo
những điều kiện xã hội để con người tồn tại bao gồm: quyền có cơng ăn việc
2
7 làm; quyền cư trú, đi lại; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được
đảm bảo chỗ ở; quyền an ninh chính trị; quyền tự do kết hơn; quyền sở hữu và
thừa kế tài sản;... . Quyền tự do lựa chọn các hoạt động sáng tạo, quyền được
sáng tạo để tự biểu hiện mình như một nhân cách bao gồm: quyền được học
hành và nâng cao học vấn; quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp; quyền được xã
hội đào tạo nghề nghiệp; quyền tự do ngôn luận; quyền tự do bầu cử và ứng
cử; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chân
lý;... - Căn cứ vào các lĩnh vực đời sống xã hội, các phương diện hoạt động
của cá nhân, nội dung của quyền con người và quyền công dân bao gồm: .
Quyền về kinh tế bao gồm: quyền lao động; quyền quả lý sản xuất; quyền
kinh doanh; quyền sở hữu;... . Quyền về chính trị bao gồm: quyền bầu cử, ứng
cử; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền hoạt động chính trị;... .
Quyền về văn hố, hiểu theo nghĩa rộng gồm cả học vấn, giáo dục, tư tưởng...
. Quyền về các phương diện xã hội khác. - Căn cứ theo phương pháp tiếp cận
của khoa học pháp lý, nội dung của quyền con người và quyền công dân bao
gồm: . Các quyền và tự do dân chủ về chính trị, trong đó có quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội; quyền bầu cử, ứng cử; quyền bình đẳng nam nữ;
quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí; quyền được thơng tin; quyền tự do tín
ngưỡng;... . Các quyền về dân sự bao gồm: quyền tự do đi lại cư trú trong
nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền khiếu nại, tố cáo;... .
Các quyền về kinh tế xã hội bao gồm quyền lao động; quyền tự do kinh
doanh; quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế; quyền học tập;... . Điều kiện
để đảm bảo quyền con người và quyền công dân
a. Dân chủ và nhân quyền
3
Dân chủ là hình thức, hình thái nhà nước, là phương thức, cơ chế quản
lý xã hội trong đó nhân dân được coi là người chủ quyền lực. Dân chủ và
quyền con người là những hiện tượng luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự
phát triển các quyền và tự do của con người có mối tương quan thuận với sự
phát triển của dân chủ. Với tính cách là một hình thức nhà nước, dân chủ là
chế độ nhà nước của nhân dân, hình thức nhà nước xuất phát từ nhân dân.
Trong chế độ dân chủ, nhân dân là chủ thể của quyền lực, quyết định tổ chức
và hoạt động của nhà nước. Dân chủ còn được coi là phương tiện, công cụ
đảm bảo và phát triển các quyền con người. Về nguyên tắc, quyền con người
và quyền công dân là những khái niệm chỉ gắn liền với chế độ dân chủ. Trong
những năm gần đây, trong toàn bộ các vấn đề về quyền con người, dân chủ và
nhân quyền nổi lên như những vấn đề bức xúc nhất, đặc biệt khi xu thế dân
chủ hoá đang diễn ra một cách khách quan, mạnh mẽ trong đời sống quốc tế.
Do vậy, việc thực hiện và đảm bảo quyền con người phải gắn liền và phụ
thuộc vào quá trình dân chủ hoá. Thực hiện các nguyên tắc dân chủ trong đời
sống nhà nước, đời sông xã hội được quan niệm là con đường đúng đắn để
thực hiện quyền con người và quyền công dân.
b. Nhà nước pháp quyền với quyền con người và quyền cơng dân.
Nhà nước pháp quyền có đặc trưng cơ bản là sự thống trị tối cao của
pháp luật trong đời sống xã hội, nhưng pháp luật đó là pháp luật bảo vệ quyền
và lợi ích của con người. Những nguyên tắc bảo vệ quyền con người trong
nhà nước pháp quyền thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước, trong
mối quan hệ đó cá nhân có ưu thế. Sự tồn tại và hoạt động của nhà nước vì
một mục đích duy nhất đó là phục vụ con người. Đương nhiên trong nhà nước
pháp quyền, phương tiện để điều chỉnh các quan hệ giữa cá nhân với nhà
nước là pháp luật. Pháp luật được coi là khế ước giữa công dân với nhà nước.
Trong nhà nước pháp quyền tồn tại quan hệ tương hỗ, nhà nước chịu trách
4
nhiệm và có nghĩa vụ đảm bảo các quyền và tự do của cá nhân, đồng thời cá
nhân công dân phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội.
Do vậy, muốn đảm bảo và htực hiện quyền con người và quyền công dân phải
gắn liền nó với nàh nước pháp quyền.
c. Pháp luật với quyền con người và quyền công dân
Đảm bảo bằng pháp luật là một trong những đặc trưng quan trọng nhất
để các quyền con người và quyền công dân được thực hiện. Khi trở thành
quyền pháp định, quyền con người và quyền cơng dân là ý chí chung của tồn
xã hội, được xã hội phục tùng, được quyền lực nhà nước bảo cệ. Quyền con
người và quyền công dân khi được pháp luật ghi nhận sẽ trở thành độc lập đối
với bất kỳ uy quyền nào, kể cả các cơ quan, các viên chức nhà nước cao cấp
nhất. Tư tưởng về quyền con người và quyền công dân phải được đảm bảo
bằng pháp luật ra đời từ rất sớm. Ngay vào đầu thế kỷ 6 TCN, một nhà thông
thái người Hy Lạp đã quan niệm: ta giải phóng tất cả mọi người bằng pháp
luật. Ngay sau khi cách mạng tư sản thành công, tư tưởng về quyền con người
phải được đảm bảo bằng pháp luật được thể hiện đậm nét ở các tuyên ngôn và
hiến pháp xuât hiện sau các cuộc cách mạng tư sản( Tun ngơn tồn thế giới
về nhân quyền năm 1948). Hiện nay, ở mọi quốc gia trên thế giới, với các
mục đích và dưới mọi hình thức khác nhau hiến pháp các nước đều có chế
định về địa vị pháp lý của công dân. Mặt khác, việc đảm bảo quyền con người
và quyến cơng dân cịn được thể hiện qua sự phối hợp của cộng đồng quốc tế
trong việc xây dựng các cơ chế pháp lý quốc tế về bảo vệ quyền con người.
d. Dân trí, thơng tin với quyền con người và quyền công dân
Quyền con người và quyền công dân được đảm bảo và thực hiện phụ
thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí của mỗi quốc gia.
Trong xã hội, cơng dân phải có trình độ văn hố dân chủ, văn hố chính
trị – pháp lý, chỉ có trên nền tri thức đó cơng dân mới tự giác đấu tranh bảo
5
vệ và thực hiện các quyền của mình. Đồng thời cũng trên cơ sở văn hoá như
vậy con người mới điều chỉnh được hành vi của mình theo pháp luật. Điều đó
địi hỏi phải tiến hành cải cách nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục
nhằm bồi dưỡng năng lực làm chủ của công dân. Cùng với hệ thống giáo dục,
hệ thống thông tin cũng phải được đổi mới, nâng cao vai trị của báo chí, làm
cho báo chí thực sự trở thành một phương tuện quyền lực của nhân dân, đặc
biệt trên lĩnh vực chống tiêu cực, tệ nạn xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân.
e. Kinh tế với quyền con người và quyền cơng dân
Trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện sinh hoạt vật chất mang
tính quyết định đối với việc thực hiện và mở rộng các quyền con người. Cùng
với sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ thuật, con người có điều kiện để
phát triển tự do và tồn diện, làm chủ bản thân mình và cộng đồng xã hội.
Chinh vì thế cần phải chú trọng phát triển kinh tế để đảm bảo quyền con
người và quyền công dân.
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ
QUYỀN CÔNG DÂN
1. Thực trạng vấn đề quyền con người và quyền công dân trên thế giới
Kể từ khi cuốn Khế ước xã hội của J.J Rousseau ra đời vào năm 1762,
về phương diện nhận thức của nhân loại, xem như quyền lực thiêng liêng và
vô hạn của vua chúa đã bị chấm dứt. Sau hơn 200 năm xác lập nền dân chủc
và xã hội dân chủ tư sản, cùng với sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ
thuật, đặc biệt với biến cố mà cuộc Cách mạng Tháng 10 đưa lại, loài người
đã được giải phóng một cách cơ bản. Quyền con người đã đạt được những
thành quả hết sức to lớn, đó là quyền bình đẳng giữa con người với con
6
người, quyền bình đẳng nam nữ, khơng có sự phân biệt chủng tộc, quyền
tham gia chính trị của cơng dân vào lĩnh vực nhà nước.
Tuy nhiên quyền con người là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và phức
tạp. Cùng với sự phát triển của nền văn minh thế giới, số lượng và chất lượng
quyền ngầy càng được hồn thiện. Hiện tại, bên cạnh mặt thành tựu, bức
tranh quyền con người còn mang diện mạo hết sức loang lổ: ở khu vực này,
quốc gia này quyền con người được coi là có những thành tựu lớn thì ở khu
vực khác, quốc gia khác quyền con người lại đứng trước nguy cơ bị tước mất
quyền tối thiểu cơ bản nhất đó là quyền sống. Sự phức tạp ngày càng tăng lên
do cuộc đấu tranh chính trị, tranh giành quyền lực giữa các quốc gia, giữa các
thế chính trị và kinh tế trên bình diện cũng như trong mỗi quốc gia. Trong
những năm gần đây, đặc biệt sau đổ vỡ của chủ nghĩa xã hoịi ở Liên xô và
Đông Âu, bức tranh nhân quyền ở nhiều quốc gia, khu vực càng mang màu
sắc ảm đạm. Ở Nam Tư, chiến tranh xung đột xảy ra ở mức cộng đồng quốc
tế cũng không thể kiểm soát được. Ở Nam Phi, tệ phân biệt chủng tộc vẫn
chưa được giải quyết một cách cơ bản. Không chỉ ở câc khu vực, quốc gia nói
trên mà ngay cả ở những quốc gia được phương Tây quan niệm là đã đạt được
tới đỉnh cao văn minh, vấn đề quyền con người vẫn chưa được giải quyết một
cách cơ bản. Nhật Bản là một đất nước có trình độ kinh tế, dân trí cao nhưng
đến nay quyền bình đẳng nam nữ vẫn chưa được giải quyết. CHLB Đức được
coi là một quốc gia có sự hài hồ giữa chính sách kinh tế và và xã hội nhưng
vẫn không kiểm sốt được các hành động q khích, trắng trợn tấn cơng
người nước ngồi của bọn cực hữu. Mỹ là một nước vẫn thường tự xưng và
được coi là thế giới của sự giàu có và tự do nhưng sự bất bình đẳng và các tệ
nạn xã hội đã khơng được giải quyết, và trên thực tế quyền bình đẳng của
người dân da đen vẫn chưa được giải quyết.
2. Thực trạng vấn đề quyền con người và quyền công dân ở
7
Việt Nam Ở nước ta, trên lĩnh vực nhân quyền các thế lực thù địch đặc
biệt chĩa mũi nhọn vào vấn đề cải tạo giam giữ tội phạm, thực chất là đối với
số nguỵ quân và nguỵ quyền trước đây, vấn đề người VN di tản, cho rằng Nhà
nước ta đã vi phạm quyền con người trên các lĩnh vực này. Quan điểm của
các nhà khoa học nước ta cho rằng, tuy trên lĩnh vực nhân quyền chủ nghĩa xa
hội đã phạm sai lầm, còn nhiều vấn đề chưa giải quyết thoả đáng nhưng chủ
nghĩa xã hội đã có những thành tựu và đóng góp trong việc ghi nhận và giải
quyết vấn đề quyền con người. Trên thực tế, quyền con người vẫn là một tồn
tại lớn của chủ nghĩa xã hội hiện thực, nổi cộm trên mặt bằng xã hội. Ở nước
ta, các nhu cầu vềdân sinh, dân quyền, dân trí chưa được giải quyết một cách
căn bản. Tình trạng thất học, thất nghiệp nổi lên gay gắt trong hiện thực kinh
tế xã hội đất nước. Sau hàng chục năm hồ bình, nước ta vẫn là một trong
những nước nghèo nhất thế giới. Nhiều quyền có giá trị thực 16 hiện vẫn bị
rằng buộc, cấm đoán bởi những quy định luật lệ cấm kỵ của cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp. Những quyền cơ bản của công dân khơng được thực hiện
và vẫn mang tính hình thức. Chẳng hạn, quyền được khiếu nại, tố cáo đối với
bất cứ cá nhân hoặc công dân nhà nước nào được ghi nhận ở Hiến pháp
nhưng trên thực tế khơng có cơ chế thích hợp để thực hiện. Điều đó đưa đến
tình trạng đơn từ của công dân gửi các cơ quan có thẩm quyền khơng được
giải quyết hoặc giải quyết khơng kịp thời thoả đáng. Trên bình diện chung của
xã hội tình trạng ức hiếp quần chúng, hiện tượng vi phạm nhân quyền xảy ra
một cách khá phổ biến, có lúc có nơi rất nghiêm trọng. Chính vì vậy, nhu cầu
địi hỏi tự do, dân chủ, công bằng xã hội vẫn là nhu cầu thường trực, gay gắt
của nhân dân. 3. Những vấn đề đang đặt ra cho nghiên cứu về quyền con
người và quyền công dân ở Việt Nam Việc nghiên cứu quyền con người đã
mang lại những kết quả bước đầu, góp phần tích cực vào cơng cuộc đấn tranh
chống sự xuyên tạc tấn công của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta trên lĩnh
8
vực này. Kết quả nghiên cứu quyền con người và uqyền cơng dân đã góp
phần vào việc xây dựng Cương lĩnh, đường lối của Đảng, vào việc xây dựng
Hiến 17 pháp 1992. tuy vậy, những kết quả đạt được chỉ mang tính chất khởi
thảo ban đầu. Hiện tại vấn đề quyền con người, quyền công dân đang nổi lên
như một điểm nóng của thời cuộc khơng chỉ ở phương diện đấu tranh tư
tưởng mà ở tầm quan trọng của nó trong chiến lược con người nhằm ổn định
và phát triển kinh tế xã hội. Chính vì thế khi nghiên cứu vấn đề quyền con
người và quyền công dân cần chú ý: - Nghiên cứu vấn đề quyền con người
quyền công dân trong thời điểm hiện nay cần có phương pháp tiếp cận mới
trên cơ sở tư duy chính trị mới của thời đại và nhận thức mới. Đối với nước
ta, vấn đề quyền con người được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội. Nói cách khác CNXH đích thực là xuất phát từ con người và giải phóng
con người.
Vì vậy theo đà phát triển của cơ sở vật chất, chế độ xã hội mới phải
đảm bảo được lợi ích của cá nhân, ngày càng mở rộng quyền con người quyền
công dân đi đôi với nghĩa vụ của họ.
- Trên cơ sở phương pháp luận khoa học, nghiên cứu một cách cơ bản
về phương diện lý luận và lịch sử của vấn đề quyền con người quyền công
dân. Làm rõ nguồn gốc, sự phát triển của vấn đề quyền con người, quan niệm
của CN Mác- Lênin và các học thuyết khác về con người, quyền con người và
quyền công dân. Việc nghiên cứu một cách cơ bản về phương diện lý luận và
lịch sử của vấn đề nhân quyền, dân quyền nhằm đạt được những tri thức
khách quan đầy đủ về những nội dung trên.
- Phải làm rõ, có cứ liệu khoa học về thực trạng quyền con người,
quyền công dân ở nước ta hiện nay.
- Quyền con người, quyền công dân phải được phản ánh và phụ thuộc
vào bản chất, chế độ chính trị, vào các điều kiện kinh tế xã hội. Trong quá
9
trình đổi mới đất nước, xu hướng chung là quyền con người và quyền công
dân được mở rộng và phát triển. Việc nghiên cứu phải xác định được hệ thống
các quyền con người, quyền cơng dân trong q trình đổi mới đất nước. Sẽ có
những quyền mới phát sinh phù hợp với điều kiện mới, có những quyền
khơng mang tính hợp lý nữa. Điều đó phải được phân tích và có luận chứng
khoa học làm cơ sở cho nhà nước ghi nhận và sửa đổi hệ thống pháp luật. Đối
với những quyền đã được nhà nước khẳng định phải có cơ chế, điều kiện thực
hiện, đảm bảo, khắc phục tính hình thức, khoảng cách ghi nhận trong Hiến
pháp, luật với việc thực hiện quyền con người, quyền công dân trong đời sông
thực tế.
- Trên cơ sở nghiên cứu cơ bản, cố gắng hình thành được hệ thống
quan điểm cơ bản của Nhà nước ta về quyền con người và quyền cơng dân.
KẾT LUẬN
Tóm lại, quyền con người và quyền cơng dân là những nội dung lớn
hết sức phong phú và nhạy cảm, là đề tài được thương nhật bàn đến ở mọi
quốc gia trên thế giới. Cùng với sự phát triển của nền văn minh thế giới,
quyền con người ngày càng được hoàn thiện về mặt số lượng và chất lượng.
Sự ra đời của các cơ chế quốc tế cũng như các cơ chế khu vực để đảm bảo
thực hiện quyền con người đã đánh dấu sự phát triển quan trọng của quyền
con người. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được thì vẫn cịn có
những hạn chế. Quyền con người vâvẫn còn bị vi phạm nghiêm trọng ở một
số nơi trên thế giới và các cơ chế để đảm bảo thúc đẩy quyền con người vẫn
chưa phát huy được hết chức năng của mình. Vì vậy, cần sự hợp tác hơn nữa
của cộng đồng quốc tế để thực hiện và đảm bảo các quyền con người và
quyền công dân.
10
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật quốc tế, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội2005
2. Quyền con người trong thế giới hiện đại
11