Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận cao học triet sự vận dụng thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.81 KB, 18 trang )

BÀI THU HOẠCH
MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

SỰ VẬN DỤNG THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM


1

MỞ ĐẦU
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử. “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự
thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính
trị và khối đại đồn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội
ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng
lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng
tốt đẹp”. Những thành tựu ấy có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên
nhân là Đảng ta luôn quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận mà khơng có liên hệ
với thực tiễn là lý luận suông”. Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải được hiểu trên tinh thần biện chứng: thực
tiễn cần tới lý luận (khoa học) soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định
hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, khơng rơi vào mị mẫm, vịng
vo, mù qng mất thời gian. Còn lý luận (khoa học) phải dựa trên cơ sở thực


tiễn, nảy sinh từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn, luôn liên hệ với thực tiễn và
được bổ sung, hồn thiện, phát triển thơng qua tổng kết thực tiễn có lý luận
nếu khơng sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến
nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau. Khơng có thực tiễn


2

sẽ khơng có lý luận; ngược lại, khơng có lý luận thì thực tiễn sẽ mất phương
hướng. 
Đề tài “Sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” sẽ làm rõ hơn sự vận dụng nguyên tắc
này trong điều kiện cụ thể tại Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, đồng thời
đưa ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình vận dụng nguyên tắc này.


3

NỘI DUNG
1 Một số khái niệm
1.1 Phạm trù thực tiễn
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những hạn chế trong quan
niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó trong lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đa ra một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn cũng
như vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Với việc đưa phạm trù thực tiễn
vào lý luận nhận thức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm cho triết học của các
ơng hơn hẳn về chất so với tồn bộ các trường phái triết học khác.
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, thực tiễn là toàn bộ những
hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
tạo tự nhiên và xã hội.

1.2 Phạm trù lý luận
Con người muốn cải tạo được thế giới cần phải có những hiểu biết về
nó, nhưng những hiểu biết ấy khơng có sẵn trong con người. Muốn có hiểu
biết (tri thức) con người phải tác động vào thế giới khách quan bằng và thông
qua hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, con người tích lũy được những tri
thức kinh nghiệm. Nhưng tri thức kinh nghiệm mới chỉ đem lại sự hiểu biết về
từng mặt riêng lẻ, bề ngoài của sự vật. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: ‘‘Sự quan sát
dựa vào kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ
tính tất yếu’’1. Để hiểu được tính tất yếu, bản chất của sự vật, con người phải
khái quát những tri thức kinh nghiệm thành lý luận. Hồ Chí Minh chỉ rõ: ‘‘Lý
luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về
tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong q trình lịch sử’’ 2. Lý luận được hình
thành trên cơ sở khái quát kinh nghiệm thực tiễn, nhưng khơng phải cứ có
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, NxbCTQG,H.1994, tập 20, tr. 718.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, NxbCTQG,H.1996, tập 8, tr.497.


4

kinh nghiệm thực tiễn là có được lý luận. Lý luận được hình thành thơng qua
hoạt động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát lý luận của các nhà lý
luận. Vì vậy, lý luận khơng thể ra đời một cách tự phát và luôn luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bằng tổng kết những kinh nghiệm thực
tiễn mới, phong phú bởi các nhà lý luận. Do tính độc lập tương đối của mình,
lý luận có thể phản ánh vượt trước các dữ liệu thực tiễn. Nhưng xét đến cùng,
lý luận không thể không dựa trên cơ sở của kinh nghiệm thực tiễn.
Như vậy, có thể hiểu lý luận khoa học là hệ thống những tri thức được
khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất

nhiên, mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ
thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
1.3 Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Thực tiễn đúng đắn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi một
lý luận khoa học, đúng đắn, nếu không thực tiễn đó sẽ là thực tiễn mù qng,
mị mẫm, mất phương hướng, khơng có tính hướng đích. Đúng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. ”3. Bởi lẽ, lý luận khoa học có vai trị to lớn đối với
thực tiễn. Điều này thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, lý luận đóng vai trị soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn.
Nhờ những đặc trưng ưu trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận có vai trò
hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận khoa học,
thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đỏi thế giới
khách quan và biến đổi chính thực tiễn. Lý luận khoa học vạch ra phương
hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn, nhằm biến đổi hiện thực khách
quan theo hướng tiến bộ vì lợi ích của con người. Nếu thực tiễn không được
chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học thì thực tiễn đó sẽ rơi vào mị
3

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb CTQG,H.1996, tập 8, tr.496


5

mẫm, vịng vo, mất thời gian, tốn cơng sức, tiền của, khơng hiệu quả.
Thứ hai, lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên,
tập hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của
đơng đảo quần chúng. Lý luận khoa học góp phần định hướng cho quần
chúng trong cuộc sống và trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, khi lý luận khoa
học thâm nhập được vào đông đảo quần chúng sẽ tạo thành sức mạnh vật chất

vĩ đại. Trên cơ sở đó tạo thành khối thống nhất giữa lý luận và quần chúng để
cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người.
Thứ ba, lý luận, nếu phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của sự
vật, của thực tiễn sẽ góp phần dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động
thực tiễn; giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự
giác hơn.
Thứ tư, lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa
học về tự nhiên, xã hội và về bản thân con người. Trên cơ sở những tri thức
khoa học đó, con người có thể thơng qua hoạt động thực tiễn làm biến đổi tự
nhiên, xã hội và bản thân phục cho mục đích của mình.
Thứ năm, lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn, do vậy nó
có thể thơng qua hoạt động thực tiễn tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm
biến đổi thực tiễn. Lý luận có vai trị tác động tích cực đối với thực tiễn, một
khi nó phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, thâm nhập được vào đông
đảo quần chúng nhân dân và được con người vận dụng nó một cách sáng tạo,
linh hoạt, phù hợp điều kiện thực tiễn, lịch sử - cụ thể. Nếu lý luận sai lầm, ảo
tưởng, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, kinh nghiệm v.v.. sẽ tác động tiêu cực
trở lại đối với thực tiễn.
2 Sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam


6

Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta luôn chú trọng việc vận dụng sáng tạo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển lý
luận, đặc biệt là lý luận về chủ nghĩa xã hội. Điều này thể hiện rõ nét ở những
điểm sau:
Trước hết, Đảng tăng cường tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận về

chủ nghĩa xã hội. Tổng kết thực tiễn quá trình đổi mới, Đảng ta đã có những
phát triển vượt bậc lý luận về chủ nghĩa xã hội. Tiểu biểu là một số vấn đề lý
luận sau:
Một là, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới do
Đại hội VI của Đảng khởi xướng là thành quả to lớn đầu tiên của quá trình đổi
mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới này cũng đồng
thời cũng đánh dấu bước đột phá trong phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta. Đại hội VII đánh dấu mốc quan trọng trong phát triển lý luận của
Đảng về CNXH. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm đổi mới, Đại hội VII đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội(1991). Trong Cương lĩnh (1991), câu hỏi “xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng” là một xã hội như thế nào? lần đầu tiên đã được trả lời
một cách hệ thống. Cương lĩnh (1991) đã đề cập tới sáu đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Đó là xã hội do nhân dân lao động làm
chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
cơng, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân; các dân tộc trong nước
bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới4. Tổng kết 20 năm đổi mới,
Xem thêm: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NxbST,H.1991;
tr.111
4


7

tham khảo kinh nghiệm của bạn bè quốc tế, rút kinh nghiệm từ những bài học
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đông Âu, đến Đại hội X, Đảng ta

đã có bước phát triển quan trọng trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Nội
hàm của khái niệm xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đại hội X nêu cụ thể hơn
với tám đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một
xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển
tồn diện; các dân tộc trong cơng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương
trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới” 5. Trong
Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của
Đảng, quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được hoàn thiện hơn một
bước: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”6.
Hai là, về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh
(1991) đề ra bẩy phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nội
5
6

Đảng Cộng sản Việt Nam . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG , H.2006; tr.68.
Đảng Cộng sản Việt Nam . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.70.



8

dung chủ yếu của bẩy phương hướng đó là: Xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh - cơng - nơng trí làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; thực hiện đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất,
cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển nơng
nghiệp tồn diện. Từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ
thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; thực
hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, chống tư tưởng, văn hóa phản tiến
bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý
của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.Thực hiện
chính sách đại đồn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả
các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân, đồn kết
với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Nâng cao cảnh giác,
củng cố quốc phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc và các thành quả cách mạng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về



9

chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm
tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta7.
Ba là, phát triển lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Trước đổi mới, Đảng ta xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta là sự “quá độ gián tiếp”, nghĩa là “bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa”. Trong Cương lĩnh (1991) đã sử dụng cụm từ “bỏ qua chế độ
tư bản” và xác định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp”8.
Đến Đại hội IX, Đảng ta đã phát triển luận điểm này cụ thể hơn: “Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”9. Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển 2011) chỉ rõ,
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội “là một qúa trình cách mạng sâu sắc, triệt
để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội đan xen”10. Đây là bước phát triển quan trọng của lý luận về con đường
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Đảng ta.
Bốn là, hình thành và phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng xác định nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VII xác định,
Xem Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
NxbST,H.1991; tr11-13.

8
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
NxbST,H.1991; tr.8.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NxbCTQG,H.2001; tr.84.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.70.
7


10

đó là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” 11. Đồng
thời cụ thể hóa một bước về chế độ cơng hữu, đó là cơng hữu “về các tư liệu
sản xuất chủ yếu”12. Đến Đại hội IX khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được khẳng định với quan niệm: “Nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”13. Đến Đại hội XI, Đảng ta xác định, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế “với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng theo pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trị
chủ đạo. Kinh tế tập thể khơng ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân”14. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ
sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước.
“Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển

kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
và lực lượng vật chất”15. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “thực
hiện chế độ phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác phân phối thơng qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội” 16. Đây là sự phát triển lý luận vượt bậc
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
NxbST,H.1991; tr.9-10.
12
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
NxbST,H.1991; tr.8.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr.86.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.73-74.
15
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.74.
16
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.74,
11


11

của Đảng ta về mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, hình thành và phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Tổng kết việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và quá trình đổi
mới, Đảng ta nhận thấy sự cần thiết phải khai thác những giá trị của lý luận
nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tuy vậy, thuật ngữ
“nhà nước pháp quyền” vẫn chưa được sử dụng trong Cương lĩnh (1991) của

Đảng và Hiến pháp 1992. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII của Đảng (1994) lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”
khi khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp
quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”17. Đại hội IX đánh dấu bước
phát triển rõ rệt quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng rành
mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quan điểm này của Đại hội
IX đã được thể hiện trong khi sửa đổi một số điều Hiến pháp 1992(2001) và
tiếp tục được khẳng định ở Đại hội X với chủ trương: “Xây dựng cơ chế vận
hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp”18. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) đã phát
triển thêm một bước lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cụ thể
là: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ khố VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994, tr.55.
18
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NxbCTQG,H.2006,tr. 126.
17


12

cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền

lập pháp, hành pháp, tư pháp”19. Như vậy là trong Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển 2011) Đảng ta đã bổ sung thêm vấn đề kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Rõ ràng, lý luận về
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng được Đảng ta phát triển cụ
thể hơn cho phù hợp thực tiễn đất nước.
Sáu là, phát triển lý luận về xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) lần đầu tiên trong
qúa trình đổi mới đề ra nhiệm vụ “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”. Đại hội tiếp tục khẳng định vai trị, vị trí của phát triển văn
hóa: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội”20. Nghị quyết Trung ương 5 khoá
VIII của Đảng (tháng 7/1998) cụ thể hóa hơn nội dung của “nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, yêu cầu bảo tồn, phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa tiên tiến văn hóa nhân loại. Tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc của chúng ta hướng tới sự giáo dục, phát triển những con người có
tinh thần yêu nước, chủ nghĩa quốc tế trong sáng, có sự phát triển hài hòa giữa
đời sống vật chất và đời sống tinh thần, phát triển các giá trị thể chất, giá trị
đạo đức, giá trị tri thức, giá trị thẩm mỹ trong con người một cách nhịp nhàng,
cân đối, hài hòa. Đại hội IX tiếp tục đề ra nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh
tế - xã hội; đề ra nhiệm vụ có tầm chiến lược là phát triển kinh tế phải giữ
vững đời sống đạo đức và bản sắc văn hóa dân tộc; chương trình, mục tiêu
phát triển kinh tế là hướng tới một cuộc sống văn hóa cao, tạo được điều kiện
để nhân dân ngày càng nâng cao trình độ thẩm mỹ, trở thành những chủ thể
sáng tạo văn hóa, đồng thời là người hưởng thụ ngày càng nhiều các thành
19
20

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.85.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ VIII, NxbCTQG,H.1996; tr.110.


13

quả văn hóa. Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khố IX về cơng tác văn
hố khẳng định nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt với xây dựng văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo thế vững
chắc cho quá trình phát triển đất nước. Đại hội X của Đảng đưa tư duy văn
hoá lên một tầm cao mới: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất
lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu
vào đời sống xã hội”21. Đại hội XI của Đảng đề ra nhiệm vụ chăm lo phát
triển văn hóa “làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sống,
được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hàng ngày của cộng
đồng và từng con người, tạo sức đề kháng với các sản phẩm độc hại”22.
Thứ hai, Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trong điều kiện mới. Công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là sự khẳng định một lần nữa tính
đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như sự vận
dụng sáng tạo của Đảng ta vào thực tiễn mới của đất nước.
Thứ ba, Đảng luôn luôn nâng cao trình độ lý luận của mình cũng như
của cán bộ, đảng viên trong quá trình đổi mới. Thấm nhuần lời dạy của Hồ
Chủ tịch, Đảng mà khơng có lý luận cách mạng khoa học như người khơng có
trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam, Đảng ta ln ln nâng cao trình độ lý
luận của mình và của cán bộ, đảng viên trong quá trình đổi mới. Đây thực
chất là sự quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Bởi lẽ,
khơng có trình độ lý luận thì khơng thể tổng kết kinh nghiệm một cách có lý
luận và không thể định hướng cho công cuộc đổi mới.
Thứ tư, Đảng kiên quyết chống lại những biểu hiện lệch lạc, sai trái về

tư tưởng - lý luận bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
21
22

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, NxbCTQG,H.2006; tr.106.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.223.


14

Hồ Chí Minh. Đây cũng chính là sự quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới của Đảng. Bởi lẽ, đổi mới không
phải là từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa của sự phát triển mà là từ bỏ mơ
hình chủ nghĩa xã hội giáo điều, tập trung, quan liêu; là sự lựa chọn biện
pháp, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh thực tiễn Việt Nam cũng như quốc tế. Quá trình đổi mới cũng là quá
trình Đảng ta tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch trên mặt
trận tư tưởng-lý luận; chống lại các chiêu bài “dân chủ hóa”; “tự do hóa”; “đa
ngun chính trị”,v.v..Tiếp tục tinh thần các Đại hội trước, Đại hội XI đề ra
nhiệm vụ: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn
biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê
phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc
phục sự suy thối về tư tưởng chính trị,..”23.

23

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011, tr.257.


15


KẾT LUẬN
Như vậy là, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói
chung, sự nghiệp đổi mới nói riêng, Đảng ta luôn quán triệt tốt sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn. Điều này thể hiện ở chỗ, Đảng thường xuyên tổng
kết thực tiễn để bổ sung, hồn thiện đường lối, chủ trương, chính sách cho
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Đồng thời, Đảng làm hết sức
mình để nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, để mỗi
cán bộ, đảng viên luôn nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và biết vận dụng những tư tưởng đó vào điều kiện nước ta. Khơng
những thế, Đảng cịn quan tâm tích cực chỉ đạo cuộc đấu tranh không khoan
nhượng với những kẻ thù về tư tưởng - lý luận, chỉ ra bản chất sai lầm, phản
khoa học, những mục đích sâu xa của chúng. Trên cơ sở đó, bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ sự đúng đắn
trong đường lối của mình. Chính vì vậy mà hơn 80 năm qua, Đảng ta ln
hồn thành xuất sắc sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng
nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt là những năm Đảng
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng luôn luôn quán triệt tốt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo cách mạng.
Qua những phân tích nêu trên, chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận
là phải thấy được vai trò to lớn của lý luận khoa học, trên cơ sở đó mỗi cán
bộ, đảng viên khơng ngừng học tập, nâng cao trình độ lý luận cho bản thân.
Phải thấm nhuần lời dạy của V.I.Lênin : “Học, học nữa, học mãi”. Tuy nhiên,
khi học tập lý luận không được tuyệt đối hóa lý luận; học tập lý luận thì phải
liên hệ với thực tiễn đất nước và thời đại. Phải thấm nhuần lời dạy của Hồ
Chủ tịch ‘‘Lý luận rất cần thiết nhưng nếu cách học tập khơng đúng thì sẽ
khơng có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận chúng ta cần nhấn mạnh: lý
luận phải liên hệ với thực tế’’24. Quán triệt tốt nguyên tắc này sẽ góp phần
24


Hồ Chí Minh: Tồn tập, NxbCTQG,H.1996, tập 8, tr.496


16

trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và
bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận.


17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995): Toàn tập; NxbCTQG,H; tập 3; tr.9;
tập 20; tr. 720; tr.718.
2. V.I Lênin: (1981) Toàn tập; NxbTB,M. 1981; Tập 6; tr.30. Tập 18;
tr.37- 39. tr. 74; tr. 117; tr.126; tr. 155; tr. 158; tr.167-168. Tập 29; tr.179; tr.
207 -208; tr. 223- 224.
3. Hồ Chí Minh (1994-1995): Tồn tập; 12 tập, NxbCTQG;H. Tập 8;
tr. 497; tr. 496. tập 5; tr. 234.
4. Giáo trình Chủ nghĩa duy vật biện chứng (Hệ cao cấp lý luận chính
trị) (2004); Nxb CTQG; H; chương IV.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1978): Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VI; NxbST.H; Tr; 29; 30; 31.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991): Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, NxbST, H.; tr; 52; 53; 55; 56; 70-74.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam(2001): Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn
quốc toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG.H.; tr.53; 78.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn
quốc toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG. H.; tr. 17; 70-73; 176-185.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Ban chỉ đạo tổng kết lý luận.Báo

cáo Tống kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (19862006); NxbCTQG,H.; tr.49-63; 122; 126-132; 134.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn
quốc toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG.H.; tr. 70; 72-73; 225-227.
11. Trần Hữu Tiến (1990): Công tác tổng kết thực tiễn trong điều kiện
đổi mới; T/c Cộng sản số 7.
12.  PGS, TS. Trần Văn Phòng (2017): Quán triệt sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới của Đảng; Báo điện tử Đảng cộng
sản Việt Nam



×