Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn quận hà đông, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.73 KB, 119 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An tồn vệ sinh thực phẩm ln là mối quan tâm của tồn xã hội và
trong bối cảnh hiện nay, an toàn vệ sinh thực phẩm đã trở thành vấn đề được
quan tâm đặc biệt. Toàn xã hội dấy lên nỗi lo lắng và hoang mang trước vấn
đề thực phẩm bẩn, thực phẩm khơng rõ nguồn gốc… Câu nói “Chưa bao giờ
con đường từ dạ dày đến nghĩa địa lại nhanh và dễ dàng như bây giờ” của Đại
biểu Quốc hội Trần Trọng Vinh (Đồn đại biểu Quốc hội thành phố Hải
Phịng) được cho là một trong những tiếng chuông cảnh báo về cuộc sống đầy
rủi ro của người dân liên quan trực tiếp đến vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm
khi tình trạng ngộ độc thực phẩm có xu hướng tăng và ảnh hưởng không nhỏ
tới sức khỏe cộng đồng…
Thực phẩm an tồn đóng góp to lớn đối với việc cải thiện sức khỏe con
người và chất lượng cuộc sống cũng như về lâu dài, đối với phát triển giống
nòi. Được sử dụng thực phẩm an toàn đang trở thành quyền cơ bản đối với
mỗi con người. ATVSTP không chỉ ảnh hướng trực tiếp, thường xuyên đến
sức khỏe mà còn liên quan chặt chẽ đến năng suất, hiệu quả phát triển kinh tế,
thương mại, du lịch và an sinh xã hội. Đảm bảo ATVSTP sẽ tăng cường
nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy xóa đói giảm nghèo
và mở rộng quan hệ quốc tế.
Thời gian gần đây, trên các phương tiện truyền thông đại chúng tràn
ngập các bài viết về an toàn thực phẩm, thực trạng thực phẩm bẩn hiện
nay: thịt có chất tạo nạc, thủy sản có kháng sinh vượt ngưỡng, cá được ủ ướp
phân urê, rau có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt giới hạn cho phép, trái
cây "tắm" trong hóa chất độc hại… Người tiêu dùng bị khủng hoảng niềm tin
khi liên tiếp tiếp nhận thông tin về những lần cơ quan chức năng phát hiện các
cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm bẩn, thực phẩm ngâm tẩm hóa chất,
thực phẩm nhập lậu.
1



Số liệu của Tập đồn Hóa chất Việt Nam cho thấy, trong 5 năm qua,
mỗi năm Việt Nam chi khoảng nửa tỷ USD để nhập khẩu về khoảng 100
nghìn tấn thuốc bảo vệ thực vật với 4.100 loại thương phẩm khác nhau thuộc
1.643 hoạt chất hóa học để sản xuất thuốc trừ sâu hóa học. Cùng với đó, nhiều
loại hóa chất cấm vẫn được nhập lậu như Phospho hữu cơ, Clo hữu cơ,
Wofatox, Monitos, Kelthane… là một trong những vấn đề đáng lo ngại hiện
nay.
Theo thống kê của Bộ Y tế, trong 6 tháng đầu năm 2017, cả
nước 81.115 cơ sở vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong đó, có 7.546 cơ
sở đã bị xử lý, 299 cơ sở bị đình chỉ hoạt động; 303 loại thực phẩm bị đình
chỉ lưu hành; 659 cơ sở có nhãn phải khắc phục; 3.749 cơ sở bị tiêu hủy sản
phẩm với 4.175 loại thực phẩm bị tiêu hủy do không đảm bảo chất lượng an
toàn vệ sinh thực phẩm.
Cũng theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, trong 6 tháng đầu năm 2017,
toàn quốc ghi nhận 73 vụ ngộ độc thực phẩm làm 1.592 người mắc, 1.483
người đi viện và 16 trường hợp tử vong.
Như vậy, có thể thấy thực trạng thực phẩm bẩn hiện nay đã tới mức báo
động đỏ. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển ngành nơng nghiệp
mà cịn đe dọa sức khỏe của cộng đồng.
Trước thực trạng đó, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
Chiến lược quốc gia an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn
2030. Trong đó đề cập đến việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để người
tiêu dùng tự bảo vệ mình; ngăn chặn các sản phẩm thực phẩm nguy hại từ bên
ngoài vào nước ta, làm ảnh hưởng tới sức khỏe người dân; tăng cường, nâng
cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám sát ATVSTP nhất là ở cấp huyện, xã;
xử lý nghiêm khắc những đối tượng vi phạm, có như vậy mới sàng lọc, giúp
những cơ sở thực sự có chất lượng tồn tại và phát triển, những cơ sở thiếu ý
thức, điều kiện cần thiết buộc phải dừng hoạt động. Về phía người tiêu dùng,
cần quan tâm nhiều hơn đến chất lượng hàng hóa, đặc biệt chất lượng thực
2



phẩm; chặt chẽ và thận trọng trong lựa chọn sản phẩm, chỉ mua sản phẩm rõ
nguồn gốc; kịp thời phát hiện, cung cấp thông tin, lên án, tẩy chay những cơ
sở sản xuất, kinh doanh không bảo đảm ATVSTP, tạo sức ép đến nhà sản
xuất, kinh doanh cũng như nhà quản lý nhằm đảm bảo ATVSTP cho cộng
đồng. Tạo điều kiện thuận lợi nhất để công nghiệp sản xuất sạch phát triển;
trong đó, chú trọng phát triển và nhân rộng các mơ hình sản xuất thịt sạch, rau
sạch, phụ gia thực phẩm...bảo đảm an toàn theo đúng tiêu chuẩn được các cơ
quan chức năng đánh giá, chứng nhận.
Qua các năm triển khai chương trình Mục tiêu quốc gia ATVSTP, cơng
tác bảo đảm ATVSTP đã đạt được nhiều tiến bộ như: hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về quản lý ATVSTP được bổ sung hoàn thiện hơn; nhiều quy
chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm kỹ thuật về vấn đề ATVSTP được ban
hành và thực thi; công tác phối hợp liên ngành được tăng cường và ngày càng
có hiệu quả, nhất là trong hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATVSTP đã góp
phần ngăn chặn nhiều sai phạm trong sản xuất và kinh doanh thực phẩm; công
tác kiểm nghiệm ATVSTP đã được tăng cường cả về trang thiết bị, con người
và năng lực kiểm nghiệm, từng bước được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế
để đáp ứng được được công tác quản lý về ATVSTP; công tác giáo dục truyền
thông được đẩy mạnh, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, nâng cao
trách nhiệm của lãnh đạo các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và người tiêu
dùng, góp phần bảo vệ sức khỏe nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, những thách thức trong cơng tác đảm bảo ATVSTP ở nước
ta cịn rất lớn. Quản lý nhà nước về ATVSTP còn chưa đủ mạnh thậm chí cịn
thiếu về đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức làm công tác này. Năng lực của
đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức cịn yếu chưa đáp ứng được hết yêu cầu
của thực tiễn. Quan niệm về ATVSTP của các nhóm đối tượng cịn rất hạn
chế; Việc thực thi các văn bản quy phạm pháp luật về ATVSTP cịn mang
tính hình thức nên hiệu quả triển khai công tác bảo đảm ATVSTP chưa cao,

nhất là ở tuyến cơ sở khi chính quyền địa phương chưa thực sự làm hết các
3


nhiệm vụ được giao theo quy định. Ngoài ra do trình độ nền kinh tế nước ta
và các đặc điểm văn hóa, xã hội, tập quán, lịch sử mà dẫn đến thực trạng quy
mô trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt thủy hải sản, sản xuất, chế biến, kinh doanh
thực phẩm chủ yếu là nhỏ lẻ, cá thể, quy mô hộ gia đình, thủ cơng, lạc hậu
trong khi nhận thức của đại bộ phận người dân còn thiếu kiến thức về
ATVSTP.
Từ thực trạng nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về an
toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội”
làm luận văn nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu trong nước
QLNN về ATVSTP được nhiều nhà nghiên cứu, đề cập. Các đề tài
trước, những cơng trình nghiên cứu trước đề cập đến những góc độ khoa học
khác nhau như :
Tài liệu chuyên khảo: “Thanh tra an toàn thực phẩm” chủ biên: Trần
Quang Trung, Cục An toàn thực phẩm, Hà Nội, năm 2014. Tài liệu đã đưa ra
các nội dung như: Nội dung cơ bản về thanh tra; thanh tra ATTP về công bố
hợp quy, công bố phù hợp quy định ATTP; thanh tra ATTP về ghi nhãn sản
phẩm thực phẩm; thanh tra ATTP về quảng cáo thực phẩm; thanh tra ATTP
về điều kiện ATTP; thanh tra ATTP về thực phẩm nhập khẩu; xử lý vi phạm
hành chính về ATTP… Tuy nhiên, các nội dung tài liệu đưa ra chỉ xoay
quanh nội dung hoạt động thanh tra về ATTP.
Luận văn thạc sĩ quản lý công: “Quản lý nhà nước về an toàn thực
phẩm ở Việt Nam hiện nay”, tác giả: Vũ Thanh Hoa, Học viện Hành chính
Quốc gia, năm 2011. Luận văn đã hệ thống hóa kiến thức liên quan tới QLNN
về ATTP, chỉ ra chủ thể, khách thể, nội dung của hoạt động QLNN về ATTP;
đánh giá thực trạng QLNN về ATTP ở Việt Nam; đề xuất các mục tiêu,

phương hướng, giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện QLNN về ATTP ở Việt
Nam. Tuy nhiên, Luận văn chỉ tập trung vào QLNN về ATTP ở cấp trung
ương.
4


Tác giả Vũ Sỹ Thành nghiên cứu về “Quản lý nhà nước về ATTP từ thực
tiễn Thành phố Hà Nội”. Nghiên cứu đã nêu lên được thực trạng về tình hình quản
lý ATTP trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Việc nghiên cứu tại một Thành phố lớn,
tập trung nhiều các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nên tác giả cũng đã có
những 3 giải pháp, kiến nghị mang tính xây dựng và có ý nghĩa trong thực tiễn
QLNN về ATTP tại Thành phố Hà Nội và các tỉnh thành trên cả nước.
Tác giả Trần Thị Khúc nghiên cứu về “Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn
thực phẩm (VSATTP) trên địa bàn Tỉnh Bắc Ninh”. Qua nghiên cứu đã chỉ ra các
yếu tố ảnh hưởng đến công tác QLNN về VSATTP trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (giai
đoạn năm 2011-2013) và những hạn chế trong quản lý VSATTP như chồng chéo
quản lý; nguồn lực con người, cơ sở vật chất có hạn; thiếu sự phối hợp giữa các cơ
quan.

Tài liệu chun khảo: “Truyền thơng an tồn thực phẩm tại cộng đồng”
chủ biên: Lê Văn Bào, Hoàng Hải, Học viện Quân y, Hà Nội, 2013. Tài liệu
đã đề cập tới những nội dung như: Quan điểm, chiến lược về ATTP của Đảng
và Nhà nước Việt Nam; tầm quan trọng của công tác truyền thông ATTP tại
cộng đồng; những kiến thức cơ bản về ATTP phục vụ công tác truyền thông
ATTP tại cộng đồng… Tuy nhiên, những nội dung tài liệu đề cập chỉ xoay
quanh nội dung truyền thông cộng đồng về ATTP.
Đề tài: “Thể chế quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm đối
với hàng nông sản ở Việt Nam”, tác giả: Đào Thế Anh, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, năm 2010. Đề tài đã xác định cơ sở khoa học của thể
chế QLNN về VSATTP đối với hàng nông sản; khảo cứu kinh nghiệm của

một số quốc gia khác về sự hình thành và triển khai thể chế QLNN về
VSATTP đối với hàng nông sản; đánh giá thực trạng VSATTP đối với nông
sản, những bất cập và vấn đề đặt ra đối với thể chế QLNN về VSATTP đối
với hàng nông sản ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện thể chế QLNN về VSATTP đối với hàng nông sản ở Việt Nam.
Trên phương diện quản lý, có thể nhận thấy ý nghĩa của đề tài đối với thực
tiễn QLNN về VSATTP nông sản. Tuy nhiên, QLNN về VSATTP đối với
nông sản chỉ là một trong những nội dung của QLNN về ATTP, còn nhiều nội
5


dung khác trong QLNN về ATTP mà đề tài chưa đề cập tới như: Thực phẩm
bao gói sẵn, thực phẩm chức năng, dịch vụ ăn uống…
Chuyên đề: “Tình hình và xu hướng ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam
giai đoạn từ 2002- 2010”, tác giả: Lâm Quốc Hùng, Cục ATTP- Bộ Y tế, năm
2011. Chuyên đề đã thống kê, phân tích những đặc điểm tiêu biểu của NĐTP
ở Việt Nam từ năm 2002- 2010. Trên cơ sở đó, đưa ra dự đoán về xu hướng
NĐTP và đề xuất những biện pháp nhằm giảm thiểu NĐTP ở Việt Nam trong
những năm tiếp theo. Tuy nhiên, chuyên đề chỉ đề cập riêng về NĐTP và chỉ
có giá trị đối với thực tiễn hoạt động kiểm soát NĐTP ở Việt Nam mà chưa
đề cập tới nhiều nội dung khác về QLNN về ATTP.
Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế: “Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn
thực phẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, tác giả: Trần Thị Khúc, Học viện
Nông nghiệp Việt Nam, năm 2014. Luận văn đã đưa ra cơ sở lý luận về
VSATTP, QLNN về VSATTP, phân tích thực trạng, đưa ra những hạn chế
tồn tại đối với QLNN về VSATTP trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở đó,
đề xuất các giải pháp và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện QLNN về
VSATTP trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên, luận văn chỉ có giá trị tham
khảo, chưa có nhiều ý nghĩa đối với thực tiễn QLNN về ATTP của tỉnh Vĩnh
Phúc.

Luận văn thạc sĩ quản lý công: “Quản lý nhà nước về chất lượng vệ
sinh an tồn thực phẩm ở Việt Nam từ góc nhìn cải cách hành chính”, tác giả:
Trương Thị Thúy Thu, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2003. Luận văn
đã góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn QLNN về VSATTP ở
Việt Nam dưới góc độ cải cách hành chính. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả QLNN về chất lượng VSATTP ở Việt Nam. Luận văn có ý
nghĩa nhất định đối với lý luận và thực tiễn của QLNN về ATTP cấp trung
ương ở Việt Nam, tuy nhiên chưa có nhiều ý nghĩa đối với thực tiễn QLNN
về ATTP đối với từng địa phương cụ thể, trong đó có tỉnh Vĩnh Phúc.
Tác giả Ngô Thị Xuân nghiên cứu về “Quản lý nhà nước về VSATTP trên
địa bàn Huyện Thái Thụy, Tỉnh Thái Bình”. Bài nghiên cứu đã phân tích thực trạng
6


QLNN về VSATTP (tập trung năm 2012 đến 2014), đã làm rõ nội dung QLNN về
VSATTP; chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về VSATTP trên địa bàn Huyện.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là thơng qua việc phân tích cơ sở lý luận về
quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm, đánh giá thực trạng quản lý
nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội, từ đó xây dựng phương hướng, giải pháp tăng cường quản lý nhà
nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về an toàn vệ sinh thực phẩm và
quản lý nhà nước về an tồn vệ sinh thực phẩm.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh
thực phẩm trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội .

- Xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp tăng cường quản
lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước về an toàn vệ
sinh thực phẩm trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản lý
nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Thời gian: Từ năm 2015 đến hết năm 2017.
- Không gian: Trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội .
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .
5.1. Phương pháp luận:
7


Tác giả sử dụng phép biện chứng với các vấn đề cụ thể, khách quan
toàn diện lịch sử. Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về nhà
nước, pháp luật về QLNN, quản lý công và quản lý nhà nước về an tồn vệ
sinh thực phẩm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, và kết hợp đồng thời
nhiều phương pháp để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu, trong đó tập
trung vào một số phương pháp cơ bản sau đây:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan
để có luận cứ khoa học làm sáng tỏ vấn đề, sự cần thiết khách quan trong
quản lý nhà nước làm cơ sở để phân tích, đánh giá thực trạng việc kết hợp

này. Phương pháp này được sử dụng nhiều ở các chương 1 và 2.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng nhằm phân tích,
đánh giá thực trạng về quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay, để từ đó chỉ ra
những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế, làm cơ sở cho việc nghiên
cứu, đề xuất những giải pháp chương 3.
- Phương pháp thống kê: Được tác giả sử dụng để xử lý các số liệu thu
thập được trong quá trình nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp so sánh: Tùy vào những mức độ thành công khác nhau.
Luận văn sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu, nhằm tìm ra những sự
khác biệt, qua đó tìm kiếm các nội dung và hình thức phù hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hố cũng như phân tích những nội dung lý
luận cơ bản về quản lý nhà nước trên quan điểm kết hợp những yếu tố tích cực
và ưu điểm vượt trội trong thực tiễn quản lý nhà nước.
6.2. Về ý nghĩa thực tiễn của luận văn
8


- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản quản lý nhà nước về ATVSTP.
- Phân tích và làm rõ thực trạng QLNN về ATVSTP trên địa bàn quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội (giai đoạn 2015- 2017).
- Đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả QLNN về ATVSTP trên địa
bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực
phẩm
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về an tồn vệ sinh thực phẩm

trên địa bàn quận Hà Đơng, thành phố Hà Nội.
Chương 3. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực
phẩm trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.

9


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
1.1. Tổng quan về thực phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm
Đảng, Nhà nước hết sức coi trọng cơng tác bảo đảm ATVSTP: Ban Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 08-CT/TW ngày
21/10/2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề ATVSTP
trong tình hình mới; Quốc hội đã thơng qua Luật An tồn thực phẩm vào ngày
17/6/2010; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38/2012/NĐ-CP hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm; Nghị định số 15/2018/NĐCP ngày 02/02/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật an toàn thực
phẩm.
Để có cơ sở cho việc nghiên cứu quản lý nhà nước về ATVSTP, cần
phải hiểu thực phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm là gì.
1.1.1. Khái niệm thực phẩm
Từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên trái đất đã cần đến thực phẩm để
duy trì sự sống. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ
khác nhau lại có những loại thực phẩm đặc trưng của mình. Tuy nhiên nhìn
chung thực phẩm hay cịn gọi theo cách thông thường là thức ăn là bất kỳ thứ
gì mà con người có thể ăn uống được. Thực phẩm bao gồm 3 nhóm chính là
chất đạm, chất béo, và tinh bột. Trước đây, nguồn thực phẩm chủ yếu là do
con người săn bắt, hái lượm được. Khi con người biết trồng trọt, chăn ni thì
nhiều loại thực phẩm khác nhau đã ra đời để thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ thực
phẩm ngày càng lớn.

Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển thì những thực phẩm tiện lợi
hơn như thực phẩm ăn liền, thực phẩm đóng hộp, thực phẩm chức năng được
sử dụng rộng rãi bởi chúng rất tiện ích, nhanh gọn và dễ sử dụng.
Vậy thực phẩm là gì? Có bao nhiêu loại thực phẩm?
10


Khơng có một khái niệm chính thống nào để trả lời cho câu hỏi thực
phẩm là gì, bởi ở mỗi một quốc gia khác nhau, mỗi một nền văn hóa, phong
tục tập quán khác nhau lại đưa ra một khái niệm về thực phẩm.
Tùy vào quan niệm và tôn giáo của mỗi nước mà có những thứ được coi
là loại thực phẩm đem lại những dưỡng chất tuyệt vời cho cơ thể nhưng có
những nước khác lại khơng coi đó là thực phẩm.
Ví dụ như ở nhiều nước phương Tây họ khơng ăn thịt chó và cũng khơng
coi chó là lồi động vật ni để lấy thịt. Tuy nhiên ở một số nước phương
Đơng, trong đó có Việt Nam thì từ lâu thịt chó lại là một món ăn rất được yêu
thích, giàu đạm và protein.
Cách phân loại thực phẩm cũng như khái niệm của nó hết sức đa dạng và
khơng có tiêu chuẩn nào để đánh giá.
Nhiều nơi phân loại thực phẩm theo nguồn gốc của chúng như thực
phẩm có nguồn gốc động vật, thực phẩm có nguồn gốc thực vật. Đối với thực
phẩm có nguồn gốc động vật lại được chia thành trên cạn, dưới nước và trên
trời. Thực phẩm có nguồn gốc thực vật thì được chia thành rau, củ, quả, hạt,
gia vị.
Nhiều nơi lại phân loại theo mức độ quan trọng của chúng trong các bữa
ăn hàng ngày như thực phẩm chính, thực phẩm phụ. Thức ăn chính chủ yếu là
tinh bột như lúa, ngơ, sắn, bột mỳ, khoai tây…Thức ăn phụ là các loại trái
cây, bánh kẹo, nước ngọt,…
Ngồi ra cịn có cách phân loại là thực phẩm tươi sống và thực phẩm chế
biến sẵn, hay chia theo thực phẩm chay và thực phẩm mặn…

Có rất nhiều cách phân loại thực phẩm nhưng dù là cách phân loại nào đi
nữa thì thực phẩm chúng ta ăn hàng ngày đều có chung một nguồn gốc và
mục đích đó là duy trì sự sống cho con người.
Xã hội hiện đại cho ra đời những loại thực phẩm tiện ích và dễ sử dụng
mà vẫn đảm bảo chất lượng dinh dưỡng như thực phẩm ăn liền, thực phẩm
đóng hộp, thực phẩm chức năng.
11


- Thực phẩm ăn liền là loại thực phẩm có thể dùng trực tiếp hoặc chế
biến một cách nhanh gọn, không tốn nhiều thời gian. Thực phẩm ăn liền được
chế biến bằng các nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên và sử dụng thêm các chất
phụ gia như phẩm màu, chất tạo ngọt, chất tạo hương, chất bảo quản….chính
vì vậy, thực phẩm ăn liền có thời gian sử dụng rất lâu. Thực phẩm ăn liền
cũng có giá trị dinh dưỡng rất cao và tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên, thực phẩm
ăn liền dù rất tiện lợi nhưng cũng không thể thay thế hoàn toàn các loại thực
phẩm tự nhiên.
- Thực phẩm đóng hộp là các loại thực phẩm tự nhiên đã được chế biến
sẵn, diệt khuẩn, có sử dụng phụ gia để bảo quản trong hộp trong điều kiện
thiếu khí. Với cách này, thực phẩm tươi đã qua chế biến để được trong
khoảng thời gian dài mà vẫn giữ được các chất dinh dưỡng trong đó. Thực
phẩm đóng hộp thích hợp cho việc dự trữ và tiện lợi cho những người khơng
có nhiều thời gian để nấu nướng. Thực phẩm đóng hộp tuy có nhiều lơi ích
nhưng do sử dụng một lượng không nhỏ phụ gia bảo quản là chất khơng có
lợi cho sức khỏe, chính vì vậy khơng nên ăn nhiều thực phẩm đóng hộp trong
thời gian dài.
- Thực phẩm chức năng là loại thực phẩm mới được nghiên cứu và đưa
vào sử dụng rộng rãi. Thực phẩm chức năng có nguồn gốc tự nhiên hoặc trong
q trình chế biến được bổ sung thêm các vitamin và khoáng chất để cải thiện
chức năng cho một bộ phận nào đó trên cơ thể. Thực phẩm chức năng không

phải là thuốc nhưng lại có tác dụng nhất định trong việc phịng và hỗ trợ điều
trị một số bệnh. Thực phẩm chức năng mặc dù mang lại rất nhiều lợi ích cho
con người nhưng vẫn có nhiều loại cần được nghiên cứu kỹ hơn trước khi đưa
vào sử dụng rộng rãi, bởi chúng ta vẫn chưa thể chứng minh được những tác
dụng bất lợi mà nó có thể gây cho sức khỏe con người.
Theo khái niệm mà các nhà khoa học đã đưa ra thì thực phẩm là những
loại thức ăn mà con người có thể ăn và uống được để ni dưỡng cơ thể. Thực
phẩm gồm ba nhóm chính đó là nhóm cacbohydrat (tinh bột), lipit (chất béo),
12


protein (chất đạm). Đây là những dưỡng chất không thể thiếu để duy trì các
hoạt động sống của cơ thể.
Trong ngơn ngữ tiếng Việt thơng thường thì thực phẩm là "đồ làm món
ăn nói chung, phân biệt với lương thực". Trong trường hợp này, khái niệm
"thực phẩm" được hiểu theo nghĩa cụ thể. Liên quan đến thực phẩm, cịn có
khái niệm "thức ăn", trong đó được hiểu: "Chất cung cấp dinh dưỡng cho cơ
thể sống". Ở đây, "thức ăn" đã được hiểu theo nghĩa rộng.
Trong cách hiểu hiện đại hơn, thì có quan niệm cho rằng thực phẩm là:
Tất cả các chất đã hoặc chưa chế biến nhằm sử dụng cho con người bao gồm
đồ ăn, uống, nhai, ngậm và các chất được sử dụng để sản xuất, chế biến hoặc
xử lý thực phẩm.
Đến Luật ATTP năm 2010, khái niệm thực phẩm được thu hẹp hơn,
theo đó, thực phẩm là "sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống
hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm,
thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm" (Khoản 20, Điều 2 của Luật An
toàn thực phẩm năm 2010).
Như vậy, theo Luật ATTP, thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc
lá và các chất sử dụng như dược phẩm. Đây là cách hiểu phù hợp với thông lệ
quốc tế hiện nay, cũng như làm rõ giới hạn của thực phẩm, phân biệt thực

phẩm với mỹ phẩm, dược phẩm và các chất sử dụng như dược phẩm, đồng
thời loại trừ thuốc lá khỏi nội hàm của khái niệm thực phẩm bởi tính độc hại
của nó, khơng phù hợp với cơng dụng, tính năng chính của thực phẩm là cung
cấp dinh dưỡng cho con người.
Tóm lại, có thể định nghĩa thực phẩm như sau: thực phẩm là những sản
phẩm do con người làm ra hoặc sản vật tự nhiên được con người sử dụng
bằng những hình thức phổ biến như ăn, uống, nhằm cung cấp năng lượng,
dinh dưỡng để cho con người duy trì sự sống, phát triển, lao động, tham gia
các hoạt động xã hội.

13


1.1.2. Khái niệm an toàn vệ sinh thực phẩm
Trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, có rất nhiều
quan điểm khác nhau về an tồn thực phẩm, an tồn vệ sinh thực phẩm. Cụ
thể:
Có quan điểm cho rằng an toàn thực phẩm hay an toàn vệ sinh thực
phẩm là một và được hiểu theo nghĩa hẹp là một môn khoa học dùng để mô tả
việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp
phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. Vệ sinh chính là làm
sạch thực phẩm, an tồn chính là khơng nguy hại do thực phẩm đem lại trong
đó bao gồm một số thói quen, thao tác trong khâu chế biến cần được thực hiện
để tránh các nguy cơ sức khỏe tiềm năng nghiêm trọng.
Hiểu theo nghĩa rộng, vệ sinh an toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn đề
cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm
bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng. Đây là một vấn đề và nguy cơ rất lớn
mà các nước đang phát triển đã và đang phải đối mặt trong đó có Việt Nam.
Quan điểm khác lại cho rằng:
An tồn thực phẩm là sự đảm bảo rằng thực phẩm không gây hại cho

người tiêu dùng khi nó được chế biến hay ăn uống theo mục đích sử dụng đã
định trước.
An toàn vệ sinh thực phẩm: là tất cả điều kiện, biện pháp cần thiết từ
khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng
nhằm đảm bảo cho thực phẩm sạch sẽ, an tồn khơng gây hại cho sức khỏe,
tính mạng người tiêu dung.
Với quan niệm trên, việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm là đặc biệt
quan trọng nhằm tạo ra những thực phẩm an tồn cho con người.
Trong đó, thực phẩm an tồn được hiểu là những thực phẩm mà khi sử
dụng, con người không bị bệnh truyền qua thực phẩm (là bệnh do ăn, uống
thực phẩm bị nhiễm tác nhân gây bệnh), ngộ độc thực phẩm (là tình trạng
bệnh lý do hấp thụ thực phẩm bị ơ nhiễm hoặc có chứa chất độc), sự cố về an
14


tồn thực phẩm (là tình huống xảy ra do ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua
thực phẩm hoặc các tình huống khác phát sinh từ thực phẩm gây hại trực tiếp
đến sức khỏe, tính mạng con người).
Như vậy, thực phẩm an tồn là loại thực phẩm:
- Khơng chứa tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất, kháng sing cấm
hoặc vượt qua giới hạn cho phép.
- Không chứa tạp chất (kim loại, thủy tinh, vật cứng …).
- Không chưa tác nhân sinh học gây bệnh (vi rút, vi sinh vật, ký sinh
trùng).
- Có nguồn gốc, xuất xứ đầy đủ, rõ ràng.
- Được kiểm tra, đánh giá chứng nhận về an toàn thực phẩm.
Tại khoản 1 Điều 2 Chương 1 của Luật an tồn thực phẩm có quy định:
“An tồn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức
khỏe, tính mạng con người”.
Những hoạt động chính của các tổ chức, cá nhân trong ATVSTP là thỏa

mãn những điều kiện bảo đảm an toàn đối với:
- Thực phẩm;
- Sản xuất, kinh doanh thực phẩm và nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm;
- Quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm;
- Kiểm nghiệm thực phẩm;
- Phân tích nguy cơ đối với an tồn thực phẩm; phịng ngừa, ngăn chặn
và khắc phục sự cố về an tồn thực phẩm; thơng tin, giáo dục, truyền thơng về
an tồn thực phẩm; trách nhiệm quản lý nhà nước về an tồn thực phẩm.
Trong đó, điều kiện bảo đảm ATVSTP là những quy chuẩn kỹ thuật và
những quy định khác đối với thực phẩm, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm và hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm do cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích bảo đảm thực phẩm an tồn đối
với sức khoẻ, tính mạng con người, bao gồm:
a. Điều kiện chung về bảo đảm an toàn đối với thực phẩm
15


- Đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về giới hạn
vi sinh vật gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y,
kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác trong thực phẩm có thể
gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.
- Tùy từng loại thực phẩm, ngồi các điều kiện chung như trên thực
phẩm cịn phải đáp ứng một hoặc một số các quy định sau đây:
i) Quy định về sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến trong
sản xuất, kinh doanh thực phẩm;
ii) Quy định về bao gói và ghi nhãn thực phẩm;
iii) Quy định về bảo quản thực phẩm.
b. Điều kiện riêng bảo đảm an toàn đối với từng loại thực phẩm
- Đối với thực phẩm tươi sống:
i) Bảo đảm truy xuất được nguồn gốc theo quy định của Luật An tồn

thực phẩm;
ii) Có chứng nhận vệ sinh thú y của cơ quan thú y có thẩm quyền đối với
thực phẩm tươi sống có nguồn gốc từ động vật theo quy định của pháp luật về
thú y.
- Đối với thực phẩm đã qua chế biến:
i) Nguyên liệu ban đầu tạo nên thực phẩm phải bảo đảm an toàn và giữ
nguyên các thuộc tính vốn có của nó; các ngun liệu tạo thành thực phẩm
không được tương tác với nhau để tạo ra các sản phẩm gây hại đến sức khoẻ,
tính mạng con người;
ii) Thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn phải đăng ký bản cơng bố
hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi lưu thông trên thị
trường.
- Đối với thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng:
i) Nguyên liệu ban đầu tạo nên thực phẩm phải bảo đảm an toàn và
giữ nguyên các thuộc tính vốn có của nó; các ngun liệu tạo thành thực

16


phẩm không được tương tác với nhau để tạo ra các sản phẩm gây hại đến sức
khoẻ, tính mạng con người;
ii) Chỉ được tăng cường vi chất dinh dưỡng là vitamin, chất khoáng,
chất vi lượng vào thực phẩm với hàm lượng bảo đảm khơng gây hại đến sức
khoẻ, tính mạng con người và thuộc Danh mục theo quy định của Bộ trưởng
Bộ Y tế.
- Đối với thực phẩm chức năng:
i) Có thơng tin, tài liệu khoa học chứng minh về tác dụng của thành
phần tạo nên chức năng đã công bố;
ii) Thực phẩm chức năng lần đầu tiên đưa ra lưu thơng trên thị trường
phải có báo cáo thử nghiệm hiệu quả về công dụng của sản phẩm.

- Đối với thực phẩm biến đổi gen: Tuân thủ các quy định về bảo đảm
an toàn đối với sức khỏe con người và mơi trường theo quy định của Chính
phủ.
- Đối với thực phẩm đã qua chiếu xạ:
i) Thuộc Danh mục nhóm thực phẩm được phép chiếu xạ;
ii) Tuân thủ quy định về liều lượng chiếu xạ.
- Đối với phụ gia thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm:
i) Đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về phụ
gia thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm;
ii) Có hướng dẫn sử dụng ghi trên nhãn hoặc tài liệu đính kèm trong
mỗi đơn vị sản phẩm bằng tiếng Việt và ngôn ngữ khác theo xuất xứ sản
phẩm;
iii) Thuộc Danh mục phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực
phẩm được phép sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm do Bộ trưởng
Bộ Y tế quy định; iv) Đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trước khi lưu thơng trên thị trường.
Ngồi ra, đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm thì
phải:
17


+ Sản xuất từ nguyên vật liệu an toàn, bảo đảm không thôi nhiễm các
chất độc hại, mùi vị lạ vào thực phẩm, bảo đảm chất lượng thực phẩm trong
thời hạn sử dụng.
+ Đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định đối với
dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm do Bộ trưởng Bộ Y tế ban
hành.
+ Đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trước khi lưu thông trên thị trường.
1.1.3. Ý nghĩa kinh tế - xã hội của an tồn vệ sinh thực phẩm

ATVSTP có một ý nghĩa quan trọng về kinh tế - xã hội, với những biểu
hiện chủ yếu như:
Về phương diện kinh tế, bằng việc tạo ra các sản phẩm hàng hóanhững thực phẩm an toàn, là một trong những yếu tố quan trọng quyết định
thương hiệu của sản phẩm của các doanh nghiệp, sức cạnh tranh của hàng hố
nơng sản thực phẩm và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản thực phẩm, từ đó đảm
bảo cho sự thành cơng của các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thực
phẩm, góp phần thúc đẩy sản xuất, dịch vụ phát triển trên cơ sở bền vững là
hết sức cần thiết. Ví dụ, là nước sản xuất lương thực và thực phẩm, tiếp tục là
nước xuất khẩu lớn về lương thực, thực phẩm, trong xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam cũng chiếm trên dưới 3% toàn bộ thủy sản thế giới. Vì vậy,
ATVSTP là một bảo đảm cho xuất khẩu hàng hóa (là thực phẩm) của nước ta.
Hơn nữa, vì tính phổ biến và khơng thể thiếu của thực phẩm đối với đời sống
con người, nên ATVSTP còn ảnh hưởng lớn đến cả thương mại, du lịch, phát
triển kinh tế nói chung và an sinh xã hội nói riêng.
Đối với xã hội, ATVSTP là yếu tố bảo đảm lợi ích của người tiêu
dùng một cách lâu dài, bền vững, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân, thể hiện nếp sống văn minh của xã hội khi được sử dụng
những sản phẩm thực phẩm an toàn.

18


1.2. Quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm.
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước
a. Khái niệm quản lý
Quản lý là yêu cầu khách quan đối với sự tồn tại và phát triển kinh tế xã
hội của tất cả các quốc gia. Dưới góc độ điều khiển học, quản lý là sự tác
động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và
hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định. Như vậy, về mặt
ngôn ngữ “quản lý” được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối

tượng (khách thể) quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra.
Quản lý xã hội là một loại hình của quản lý nói chung, trong đó quản xã
hội là sự tác động có định hướng (chỉ huy, điều hành, hướng dẫn…) lên các
quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người làm cho chúng vận động,
phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục đích và theo ý chí của nhà quản
lý.
C.Mác chỉ ra rằng: “Lao động giám sát và quản lý cần ở cả những nơi
mà lao động sản xuất trực tiếp có hình thức của một q trình phối hợp mang
tính xã hội chứ khơng phải là lao động riêng rẽ của những người sản xuất độc
lập”. Tính đa dạng, phức tạp của quá trình này thể hiện ở chỗ nó phải điều
chỉnh các q trình xã hội, các hoạt động của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội và hành vi của con người có ý thức. Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, mọi cấp độ tổ chức của con người từ các nhóm nhỏ đến tầm quốc gia,
khu vực và quốc tế đều khơng thể thiếu vai trị tổ chức và quản lý.
Luận giải về vai trò của quản lý xã hội, C.Mác viết: “Tất cả mọi lao
động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương
đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt
đọng cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của
nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì

19


cần phải có nhạc trưởng” [C.Mác (1960, Tư bản,quyển II, tập 2, tr.33-34,
Nxb.Sự thật, Hà Nội].
Như vậy, nói đến quản lý phải bao gồm các yếu tố (các điều kiện) sau:
- Phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và
ít nhất một đối tượng chịu tác động của chủ thể quản lý và các khách thể có
quan hệ gián tiếp với chủ thể quản lý;

- Phải có mục tiêu vạch ra cho cả đối tượng và chủ thể quản lý;
- Chủ thể quản lý có thể là cá nhân hoặc tổ chức, đối tượng quản lý có
thể là con người, sự vật, hiện tượng được chủ thể quản lý;
- Khách thể, xét trong quan hệ độc lập với chủ thể, là con người hoặc tổ
chức mà qua đó chủ thể quản lý có thể tác động lên đối tượng quản lý.

Sơ đồ 1: Logic của quá trình quản lý
Từ những luận giải như trên chúng ta có thể rút ra một khái niệm chung
nhất về quản lý:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm
năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến
động của môi trường.
b. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý Nhà nước là một dạng của quản lý xã hội, đây là một quá trình
phức tạp, đa dạng. Do vậy, theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt
20


động của bộ máy Nhà nước, để điều chỉnh các quy trình xã hội, các hành vi
của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội của công dân và giữ gìn an ninh trật tự
xã hội nhằm thực hiện mục tiêu mà Nhà nước đặt ra. Như vậy, quản lý nhà
nước theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước như
hoạt động của Quốc hội, hoạt động của Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang
Bộ và chính quyền các cấp, kể cả hoạt động hệ thống cơ quan Tòa án nhân
dân và Viện Kiểm sát nhân dân các cấp.
Ở nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là những hoạt động của các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước (Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và chính
quyền địa phương) để điều chỉnh các hành vi của các tỏ chức, cá nhân và giữ
gìn an ninh trật tự xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu của các cơ quan quản

lý nhà nước đã đặt ra trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Nói cách khác, quản
lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước.
Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là một loại hoạt
động của Nhà nước, do các chủ thể có thẩm quyền (trước hết và chủ yếu là
các cơ quan hành chính nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền), thực hiện
trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp, pháp luật nhằm điều chỉnh các hoạt động
của con người theo mục tiêu đã xác định trước.
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước
do các cơ quan quản lý nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ
chức trong xã hội, trên tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng
quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi
ích chung của cả cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã
hội phát triển theo một định hướng thống nhất của nhà nước.
QLNN là những hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
được tiến hành để tác động tới các hoạt động của các đối tượng quản lý trong
xã hội nhằm đạt được các mục tiêu của Nhà nước một cách cụ thể nhất.
QLNN đối với các lĩnh vực có 7 nội dung:
21


Một là, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật; tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật. Nội dung của việc xây dựng, ban hành và thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật bao gồm các cơng việc sau:
- Rà sốt các văn bản quy phạm pháp luật đã có trình Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội điều chỉnh, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung;
- Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trình Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành;
- Rà sốt, điều chỉnh, bổ sung, hồn thiện và thay thế những văn bản

quy phạm pháp luật do Chính phủ, UBND các cấp ban hành;
- Tổ chức thực hiện các quy định pháp luật: tuyên truyền, hướng dẫn
thực hiện, tiếp thu ý kiến, điều chỉnh, sửa đổi.
Hai là, xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
Nội dung này bao gồm các hoạt động sau:
- Xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước quản lý các lĩnh vực đời sống
kinh tế - xã hội của các bộ, ngành;
- Xây dựng tổ chức bộ máy QLNN đối với hoạt động của các cấp chính
quyền địa phương;
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong hệ thống
chính trị: phối hợp theo chiều dọc, theo chiều ngang;
- Hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị, giữa
Đảng với Nhà nước, giữa Nhà nước với các tổ chức Chính trị - xã hội.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Nội dung này bao
gồm các công việc sau:
- Xây dựng cơ chế tuyển dụng, sử dụng, quy hoạch, luân chuyển, điều
động và bổ nhiệm CBCC nhà nước;
- ĐTBD, phát triển đội ngũ CBCC nhà nước;
- Không ngừng nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội
ngũ CBCC nhà nước;
22


- Xây dựng bản lĩnh Chính trị và phẩm chất đạo đức của đội ngũ
CBCC;
- Đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với CBCC nhà nước;
- Tạo môi trường và động cơ làm việc cho CBCC;
- Xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách đối với CBCC.
Bốn là, lãnh đạo, điều hành hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Nội
dung này bao gồm các công việc sau:

- Quản lý tổ chức bộ máy, việc thành lập, chia tách, sát nhập của các cơ
quan, tổ chức;
- Quản lý hoạt động của các cơ quan, tổ chức;
- Quản lý việc tuyển chọn, bổ nhiệm, luân chuyển, bãi nhiệm CBCCVC
trong các cơ quan, tổ chức;
- Quản lý các hoạt động của các tổ chức Chính trị - xã hội, các nghiệp
đồn, các tổ chức phi chính phủ;
- Quản lý quan hệ quốc tế của các cơ quan, tổ chức.
Năm là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống chính trị. Nội dung này bao gồm các công việc sau:
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương;
- Xây dựng các quy chế phối hợp giữa các cơ nhà nước với các tổ chức
chính trị - xã hội và các đoàn thể xã hội;
- Xây dựng các quy chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các
doanh nghiệp và với công dân.
Sáu là, hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý nhà nước. Nội dung
này bao gồm các công việc sau:
- Mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động giao lưu, trao đổi, học
tập, chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động QLNN;
- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, thông tin về những chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong quản
lý các lĩnh vực đến bạn bè quốc tế;
- Hợp tác với các nước trong hoạt động ĐTBD cán bộ, công chức nhà nước;
23


- Hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế trong việc phòng, chống
tội phạm xâm hại đến an ninh, trật tự của đất nước.
Bảy là, thanh tra, kiểm tra và giải quyết những khiếu nại, tố cáo, xử lý
những vi phạm pháp luật. Nội dung này bao gồm các công việc sau:

- Thanh tra, kiểm tra việc thực thi chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước của các cơ quan nhà nước và đội ngũ CBCC;
- Tiếp nhận đơn, thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, tổ
chức và công dân đối với các cơ quan nhà nước;
- Xử lý các vi phạm chính sách, pháp luật theo những quy định của
pháp luật.
1.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm
Quản lý nhà nước về ATVSTP là một hình thức hoạt động của nhà
nước, do các chủ thể có thẩm quyền (trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan
hành chính nhà nước, người có thẩm quyền) thực hiện trên cơ sở và để thi
hành pháp luật trong lĩnh vực ATVSTP, góp phần vào công cuộc phát triển
kinh tế- xã hội, bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, cơ
quan, tổ chức trong lĩnh vực ATVSTP.
Theo quy định, chủ thể QLNN về ATVSTP ở Việt Nam gồm:
* Chính phủ: Thống nhất QLNN về ATVSTP ở cấp trung ương.
* Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về ATVSTP:
Trong thời điểm hiện nay, để hoạt động QLNN về ATVSTP đạt hiệu
quả cao, sự ra đời của Ban Chỉ đạo liên ngành về ATVSTP các cấp là hoàn
toàn tất yếu so với nhu cầu thực tiễn. Tại Trung ương, Ban Chỉ đạo liên ngành
Trung ương về ATVSTP có những nhiệm vụ như sau:
- Nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về những chủ trương,
cơ chế, chính sách, giải pháp trong QLNN về ATTP.
- Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, phối hợp hoạt động giữa các Bộ,
ngành, các địa phương và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc xử lý
những vấn đề liên ngành về ATTP. Trường hợp tình hình ATTP có những
24


diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân trên diện rộng, kịp thời
kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các biện pháp xử lý.

- Giúp Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện hoạt
động QLNN về ATTP của các Bộ, ngành, UBND và Ban Chỉ đạo liên ngành
về ATVSTP các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Báo cáo định kỳ về tình hình hoạt động của Ban Chỉ đạo, báo cáo đột
xuất theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ.
* Bộ Y tế:
Bộ Y tế có những nhiệm vụ trong QLNN về ATVSTP như sau:
- Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về ATVSTP.
- Chủ trì xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và
tổ chức thực hiện chiến lược quốc gia, quy hoạch tổng thể về ATVSTP.
- Ban hành Tiêu chuẩn kỹ thuật, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chỉ
tiêu và mức giới hạn an toàn đối với sản phẩm thực phẩm; dụng cụ, vật liệu
bao gói chứa đựng thực phẩm.
- Yêu cầu các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh báo cáo định kỳ, đột xuất
hoạt động QLNN về ATVSTP.
- Quy định về điều kiện chung đảm bảo ATVSTP đối với cơ sở sản
xuất, kinh doanh thực phẩm.
- Chủ trì tổ chức thực hiện cơng tác tun truyền, giáo dục pháp luật về
ATVSTP; cảnh báo sự cố ngộ độc thực phẩm.
- Thanh tra, kiểm tra đột xuất đối với tồn bộ q trình sản xuất, nhập
khẩu, kinh doanh thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của các bộ khác khi cần
thiết.
Trách nhiệm trong quản lý ngành:
- Chủ trì xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch và VBQPPL về ATVSTP theo nhiệm vụ quản lý của ngành y tế.
- Quản lý ATVSTP trong suốt quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo
25



×