Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Đề án tốt nghiệp đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.71 KB, 41 trang )

N TT NGHIP
CAO CP Lí LUN CHNH TR

ĐẩY MạNH CÔNG TáC PHòNG, CHốNG THAM
NHũNG
TRONG CáN Bộ, ĐảNG VIÊN, TỉNH LàO CAI,
GIAI ĐOạN 2016 -2020


i
MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1. MỞ ĐẦU..........................................................................................1
1.1. Lý do chọn Đề án....................................................................................1
1.2. Mục tiêu của Đề án.................................................................................2
1.4. Giới hạn của Đề án..................................................................................4
PHẦN 2. NỘI DUNG ĐỀ ÁN.........................................................................6
2.1. Căn cứ xây dựng Đề án...........................................................................6
2.2. Nội dung cơ bản của Đề án...................................................................19
2.3. Tổ chức thực hiện Đề án.......................................................................27
2.4. Dự kiến kết quả của Đề án....................................................................30
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................32
3.1. Kết luận.................................................................................................32
3.2. Đề xuất, kiến nghị.................................................................................32
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................33


1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ ÁN
Tham nhũng, lãng phí là một hiện tượng mà kết quả của nó gây thiệt


hại lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến nền văn hóa xã hội và thể chế chính trị
quốc gia. Thời gian qua mọi nhà cầm quyền đều cố gắng ngăn chặn tham
nhũng, tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, cịn khơng ít những hạn
chế trong cơng cuộc phịng, chống tham nhũng, lãng phí và chống các biểu
hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Để làm tốt nhiệm
vụ này cần phải có những hành động thiết thực của nhân dân và các cấp chính
quyền từ Trung ương đến địa phương. Trong thời kỳ hiện nay cùng với việc
phát triển kinh tế xã hội, tệ nạn tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện suy
thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên xuất hiện ngày càng có
chiều hướng tăng. Tham nhũng xảy phổ biến ở các nước đang phát triển. Việt
Nam cũng là nước thuộc vào nhóm các nước này, do một số nguyên nhân chủ
yếu: Đó là vai trò của các cấp quản lý nhà nước chưa thật chú trọng đúng mức
việc ảnh hưởng của tham nhũng đến xã hội nói chung; xã hội chưa thật sự vào
cuộc để chống tham nhũng, lãng phí; tham nhũng gây ra thiệt hại cho nhà
nước và đó cũng chính là gây thiệt hại cho nhân dân vì tài sản của nhà nước
cũng chính là tài sản của nhân dân; nó làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng và đối với Nhà nước.
Lào Cai là tỉnh miền núi phía Bắc, có nhiều điều kiện được thiên nhiên ưu
đãi về khí hậu; là tỉnh có chữ lượng tài ngun, khống sản lớn; cũng là tỉnh vừa
có cửa khẩu Quốc tế, cửa khẩu quốc gia và các lối mở thông thương với đất
nước Trung Quốc; là đầu mối xuất, nhập khẩu nhiều loại mặt hàng lớn giữa
Trung Quốc - Việt Nam qua tỉnh Lào Cai. Phát huy được tối đa tuyến hành lang
kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phịng. Qua đó đã thu hút được nhiều
nguồn lực đầu tư vào tỉnh; nhiều dự án trọng điểm về công nghiệp, kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, đô thị, các dự án chế biến sâu
khoáng sản, cơ sở dịch vụ hiện đại tiếp tục được đầu tư; các khu du lịch trên địa
bàn tỉnh ngày càng hấp dẫn, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến
Lào Cai tham quan...Đây là những tiền đề quan trọng để tỉnh Lào Cai tiếp tục



2
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
hội, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh
những thế mạnh đó tỉnh lào Cai cịn tồn tại khơng ít những hạn chế như: Tình
trạng tham nhũng, lãng phí và suy thối về đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên; các ảnh hưởng tiêu cực của tham nhũng, lãng phí và các biểu
hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nếu không được ngăn
chặn kịp thời sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Nghiêm trọng hơn nó sẽ làm suy yếu bộ máy chính quyền, giảm lịng tin của
nhân dân đối với Đảng đối với Nhà nước ta.
Trên cơ sở tình hình thực tế hiện nay, tơi mạnh dạn chọn nghiên cứu, xây
dựng Đề án “Đẩy mạnh cơng tác phịng, chống tham nhũng trong cán bộ,
đảng viên trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2016 - 2020” làm Đề án tốt
nghiệp lớp cao cấp lý luận chính trị năm học 2015 - 2016.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
1.2.1. Mục tiêu tổng qt
Đẩy mạnh cơng tác phịng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong cán bộ,
đảng viên, góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm chính;
lành mạnh hóa các quan hệ xã hội thơng qua việc thực hiện đồng bộ các giải
pháp phịng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng trong cán bộ, đảng viên;
củng cố lòng tin của nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ
2015 - 2020.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Thực hiện có chất lượng, hiệu quả cơng tác tuyên truyền nhằm nâng cao
nhận thức và vai trò của các cấp ủy, chính quyền, các tầng lớp nhân dân, nhất là
đội ngũ cán bộ, đảng viên về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về phịng, chống tham nhũng của cán bộ, đảng viên.
- Bảo đảm 100% các trường hợp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị

để xảy ra tham nhũng phải được xử lý trách nhiệm theo đúng quy định.


3
- 100% đơn thư tố cáo về tham nhũng đối với cán bộ, đảng viên trên địa
bàn tỉnh được xử lý theo đúng quy định.
- Bảo đảm 100% các vụ việc, vụ án về tham nhũng của cán bộ, đảng
viên được đưa ra giải quyết, xét xử kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa cao.
- 100% cấp uỷ, cơ quan, đơn vị đưa nội dung kiểm tra, giám sát việc tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng của cán bộ, đảng viên
vào chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm để tổ chức thực hiện.
- Tăng cường thanh tra một số lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như:
đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, hoạt động xuất nhập khẩu, thu - chi ngân sách, quản lý tài sản công, công tác cán bộ.
- 100% kết luật thanh tra, kiểm tra, giám sát về phịng, chống tham
nhũng, lãng phí được thực hiện; kết quả xử lý sau thanh tra, kiểm tra, giám sát
được công khai theo đúng quy định; các vi phạm, thiếu sót phải được khắc
phục nghiêm túc, kịp thời.
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN
- Nâng cao ý thức, tinh thần, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức, các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng
viên và quần chúng; thực hiện nghiêm túc cơng tác phịng, chống tham nhũng
của cán bộ, đảng viên.
- Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế, chính sách về quản lý
kinh tế, xã hội để phịng ngừa, ngăn chặn, có cơ chế phát huy vai trò của cán
bộ, đảng viên, quần chúng, Nhân dân trong phát hiện, xử lý các hành vi tham
nhũng của cán bộ, đảng viên.
- Thực hiện tốt công tác tổ chức, cán bộ, nhất là trong công tác chuyển
đổi vị trí cơng tác, điều động, ln chuyển cán bộ, thực hiện tốt đạo đức cơng
vụ, văn hóa ứng xử.

- Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của tổ chức đảng và đảng
viên, tăng cường vai trò của chi bộ trong quản lý, giáo dục đảng viên nhằm
bảo đảm tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng; đưa
nhiệm vụ cơng tác phịng, chống tham nhũng của cán bộ đảng viên trở thành


4
một nhiệm vụ được tổ chức thực hiện thường xuyên của các tổ chức đảng,
đảng viên, tạo động lực thúc đẩy sự tham gia tích cực của các cấp chính
quyền, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên, các cơ quan, đơn vị và
quần chúng, Nhân dân.
- Phát huy vai trị trong cơng tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, cơ
quan dân cử và nhân dân nhằm bảo đảm các cấp ủy đảng thực hiện tốt vai trị
lãnh đạo, chỉ đạo, các cấp chính quyền, các cơ quan, đơn vị; kịp thời phát
hiện, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện.
- Phát huy hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử
để phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham
nhũng liên quan đến các biểu hiện suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên.
- Ðổi mới tổ chức, hoạt động, nâng cao năng lực của cơ quan tham mưu
cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất,
thông suốt, hiệu quả từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở.
1.4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN
- Phạm vi đối tượng: Đề án tập trung nghiên cứu, đánh giá việc thực
hiện cơng tác phịng, chống tham nhũng của cán bộ, đảng viên trên địa bàn
tỉnh Lào Cai.
- Phạm vi khơng gia: Đề án nghiên cứu tình hình phòng, chống tham
nhũng của cán bộ, đảng viên trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
- Phạm vi thời gian: Đánh giá thực trạng cơng tác phịng, chống tham

nhũng của cán bộ, đảng viên trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua, số liệu và
thông tin thu thập từ thời điểm năm 2010 đến năm 2015. Đề xuất các mục
tiêu, giải pháp, nhiệm vụ cho cơng tác phịng, chống tham nhũng của cán bộ,
đảng viên trên địa bàn tỉnh Lào Cai trong thời gian 2016 -2020.


5
PHẦN 2. NỘI DUNG ĐỀ ÁN
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận
Tham nhũng là một hiện tượng đã và đang xảy ra phổ biến trong xã
hội, trở thành quốc nạn chung của các quốc gia, làm tổn hại đến chính phủ,
làm mất uy tín của cơ quan công quyền đối với nhân dân.
Pháp lệnh phòng chống tham nhũng số 03/1998/PL-UBTVQH10, ngày
26/02/1998: Tham nhũng là “hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ơ, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì
động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, xâm phạm hoạt động
đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”.
Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 qui định: “Tham nhũng là
hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó
vì vụ lợi”. Đây là một khái niệm tương đối bao quát, để xác định bản chất của
hành vi tham nhũng phổ biến trong xã hội Việt Nam hiện nay.
2.1.1.1. Nguồn gốc tham nhũng
- Tham nhũng xuất hiện từ khi có sự phân chia quyền lực và hình thành
nhà nước. Có ý kiến cho rằng tham nhũng bắt nguồn từ nền văn hóa độc tài đề
cao cá nhân, coi trọng biếu xén. Ý kiến khác cho rằng: xã hội thay đổi các
chuẩn mực về đạo đức, xã hội biến đổi liên tục, nền kinh tế biến đổi mạnh
sinh ra tham nhũng. Tham nhũng thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có
nền kinh tế kém phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân đầu người thấp.
Tại các nước này con người thường có ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng

ngũ lãnh đạo để tham nhũng. Tham nhũng là căn bệnh mn thủa và cội
nguồn của nó là thuộc tính tự nhiên của con người. Khi xây dựng một lý luận,
một tiêu chuẩn trong lĩnh vực tư tưởng hay đạo đức xã hội, một khuynh
hướng thường thấy là người ta khơng hoặc cố tình khơng nhìn nhận những gì
đang tồn tại trong thực tế với đầy đủ các khuyết tật tự nhiên của nó. Nếu nhìn
nhận một cách tỉnh táo, chúng ta không thể không thừa nhận sự tồn tại của
những mặt khuyết tật, cái mà chúng ta thường gọi là các căn bệnh xã hội.
Trong vấn đề đang nghiên cứu, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng tham


6
nhũng tồn tại trong mọi xã hội. Mọi thời đại, mọi hệ thống chính trị và mọi
dân tộc ở mọi nơi trên thế giới đều phải đối mặt với tham nhũng với nhiều
biến thái tinh vi. Thậm chí nếu nhìn nhận một cách nghiêm khắc, người ta sẽ
thấy rằng tham nhũng cịn diễn ra dưới cả các mái nhà ít nhiều yên ấm, nơi
các bậc gia trưởng dựa vào quyền của mình để phân phối vật chất và tinh thần
một cách khơng bình đẳng. Mặc dù là một hiện tượng muôn thuở, tham nhũng
ở mỗi quốc gia, mỗi thời đại lịch sử, chịu tác động của những nhân tố kinh tế
- chính trị - xã hội khác nhau. Để chống tham nhũng hiệu quả cần phải dựa
trên cơ sở phân tích khoa học những nhân tố đó. Dưới đây đưa ra những phân
tích sơ bộ.
- Về mặt chính trị: Tham nhũng là kết quả của hệ thống chính trị thiếu
khả năng tự kiểm sốt. Một hệ thống chính trị khơng xây dựng được các tiêu
chuẩn, khơng tự kiểm sốt được, để cho quyền lực bị đánh cắp đại trà trên quy
mơ xã hội, dưới mọi hình thức, mọi mức độ sẽ tạo cơ hội tốt cho tham nhũng
phát triển. Hệ thống chính trị thiếu khả năng tự kiểm sốt sẽ làm xuất hiện sự
nhập nhằng trong nhận thức và những cơ cấu khơng được pháp chế hóa. Tất
cả những yếu tố này giải thích tại sao trong thời đại chúng ta, tham nhũng lại
nở rộ tại những quốc gia có nền chính trị khơng chun nghiệp, hay nói một
cách giản dị, tại những quốc gia trong đó nền chính trị tuột khỏi tầm kiểm

soát của xã hội.
Tham nhũng là kết quả của tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt
chính trị. Nó gắn liền với bản chất con người, nhưng khơng phải bất kỳ ai
cũng tham nhũng và cũng có thể tham nhũng. Để tham nhũng phải có quyền
hoặc quyền lực. Ngoài ra, tham nhũng phụ thuộc vào các cơ chế xã hội có
nhiệm vụ ức chế hành vi tham nhũng. Khi một quốc gia lâm vào tình trạng
thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính trị, những người thốt khỏi sự ức chế của
các cơ chế xã hội sẽ lợi dụng, lạm dụng quyền lực, địa vị, uy tín xã hội để
thực hiện hành vi tham nhũng. Cùng với tình trạng thiếu dân chủ trong sinh
hoạt chính trị, sự thiếu cơng khai trong đời sống chính trị cũng tạo ra không
gian đen tối cho hiện tượng tham nhũng phát sinh và phát triển.
- Về mặt Nhà nước: Tham nhũng là con đẻ của những thể chế tồn tại
bất hợp lý và bị độc quyền lũng đoạn. Chúng ta đã thấy tham nhũng phát triển


7
cả về hình thức lẫn quy mơ cùng với sự phát triển của xã hội, nhưng điều đó
khơng có nghĩa là có một sự tương quan tỷ lệ nào đó giữa tham nhũng và phát
triển. Quy mô tham nhũng lệ thuộc nhiều vào tính chất của thể chế nhà nước.
Chẳng hạn tại các quốc gia nghèo khổ Châu Phi, nơi tập trung nhiều thể chế
lạc hậu và phi dân chủ, các quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị bị phân
chia một các tùy tiện hoặc không được bảo vệ và sử dụng cẩn trọng, tức là các
quyền lực này dễ bị tham nhũng để mở đường cho nạn tham nhũng tràn lan
trong xã hội. Các thể chế này không đủ năng lực để tự kiểm soát, nhưng lại ra
sức ngăn cản việc xây dựng một thể chế mới có thể quản lý xã hội hữu hiệu
hơn. Tình trạng bất hợp lý của thể chế có thể thấy rõ ở những quốc gia mà
một bộ phận nhân lực quan trọng của nó được trả lương quá thấp so với nhu
cầu tối thiểu của cuộc sống. Thể chế bất hợp lý đã buộc nhiều người phải
tham nhũng để sống, để tồn tại.
Một nhà nước có mơi trường kinh tế thiếu minh bạch là điều kiện tốt

cho các hành vi tham nhũng, lãng phí sinh sơi nảy nở. Điều này lý giải tại sao
tham nhũng tại các nước đang phát triển trầm trọng hơn nhiều so với các nước
phát triển, nơi có môi trường kinh tế minh bạch hơn. Tại những nước có mơi
trường kinh tế kém minh bạch, việc trốn thuế diễn ra phức tạp, lý do đơn giản
là tại đó hành vi này dễ dàng thực hiện trót lọt hơn tại các quốc gia khác.
Trong môi trường kinh tế thiếu minh bạch, sự can thiệp thái quá và nhiều khi
thô bạo của các cơ quan nhà nước vào hoạt động kinh doanh làm méo mó các
quan hệ kinh tế - xã hội. Đó là tình trạng thích hợp, là cơ hội vàng để các
quan tham dễ bề trục lợi.
Tham nhũng là kết quả của tình trạng các quyền và lợi ích cá nhân bị
hạn chế hoặc chưa được hợp pháp hóa. Tình trạng nhiều quyền lợi chính đáng
của cá nhân khơng được hợp pháp hóa hoặc bị hạn chế có thể quan sát thấy tại
nhiều quốc gia chậm phát triển. Ta có thể lấy ví dụ như tình trạng “ngăn sông
cấm chợ” tại Việt Nam trước đây hay sự hạn chế các hoạt động của nữ giới tại
Afghanistan mới đây, khi chỉ vì những suy nghĩ thiển cận, người ta muốn tối
thiểu hóa khơng gian sống của mỗi cá nhân. Điều này trên thực tế đã đẩy nhiều
người vào vòng xoáy tham nhũng để thỏa mãn các khát vọng thật ra là chính
đáng của họ. Điều nguy hiểm là ở chỗ tình trạng này sẽ tạo ra sự nhập nhằng về


8
nhận thức. Việc thay thế các quy định của pháp luật bằng những thỏa thuận
ngầm trên quy mô xã hội hoặc đạo đức xã hội khiến các nhóm lợi ích luôn chèn
ép, chen lấn lẫn nhau trên cùng một cá nhân. Nếu chúng ta tạo cho cá nhân một
không gian sống tốt, nếu chúng ta hợp pháp hóa các quyền cá nhân chính đáng
để mỗi cá nhân có thể phát huy tối đa sức sống, sức sáng tạo của họ trong khn
khổ pháp luật, chắc chắn rất nhiều người bình thường sẽ sống và ứng xử theo
những chuẩn mực được chấp nhận rộng rãi trong xã hội.
- Về mặt văn hóa xã hội: Tham nhũng bắt nguồn từ sự đạo đức giả của
hệ thống chinh trị - xã hội. Hệ thống xã hội được xây dựng trên nền tảng đạo

đức giả này đã đẩy nhiều người phải sống với bộ mặt giả tạo. Chẳng hạn, việc
trả công chủ yếu không theo hình thức tiền lương mà dưới hình thức các tiêu
chuẩn hưởng thụ là cơ sở kinh tế của một lối sống đạo đức giả. Một ví dụ
khác có thể thấy ở nhiều nền kinh tế chuyển đổi, khi người ta thủ tiêu chế độ
đặc quyền đặc lợi, nhưng lại khơng có biện pháp cân bằng các lợi ích bị đột
ngột xóa đi ấy, dẫn đến kết quả là một số người tìm đến những biện pháp phi
pháp để giành lại những gì đã mất. Với cách nhìn như vậy, chúng ta thấy rằng
đôi khi các vị quan tham vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của một hệ thống
xã hội xa lạ với bản chất con người. Tham nhũng còn được hỗ trợ bởi những
yếu tố tiêu cực trong nền văn hóa, chẳng hạn tính gia trưởng vốn là một đặc
điểm rất rõ nét tại nhiều nước Châu Á. Tham nhũng là hậu quả của quan niệm
lệch lạc và thái độ thiếu tôn trọng các giá trị cá nhân. Các giá trị cá nhân
không được tôn trọng sẽ dẫn đến sự xâm hại các giá trị công cộng. Trên thực
tế, việc chống chủ nghĩa cá nhân một cách thái q ln ln dẫn đến một
tình trạng cực đoan trong đời sống tinh thần của xã hội. Tâm lý xem nhẹ, nếu
khơng muốn nói là bài bác các giá trị cá nhân khiến người ta tìm mọi cách tối
thiểu hóa khơng gian sống của cá nhân, làm cho con người thiếu ý thức trách
nhiệm về hành vi của mình, dễ dàng bằng lòng với thực tại, dễ dàng tham
nhũng, tiếp tay hoặc ít nhất là mặc nhiên thừa nhận tham nhũng. Sự ngộ nhận
về giá trị cá nhân và giá trị tập thể còn dẫn đến cả hiện tượng tham nhũng
mang tính tập thể, nghĩa là có sự kết cấu, đồng tình để tiến hành hành vi tham
nhũng trên quy mơ lớn hơn. Đó là gì nếu khơng phải là mầm mống của tội
phạm có tổ chức. Cịn nếu cá nhân nào không chịu tham nhũng, họ sẽ không


9
còn là người của tập thể, họ sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Điều này giải thích tại
sao tham nhũng tại những nước có sự nhìn nhận sai lạc về cá nhân và tập thể
lại càng trầm trọng và khó đẩy lùi hơn nhiều nước khác.
2.1.1.2. Các hình thức tham nhũng

- Nhìn nhận dưới góc độ kinh: Tham nhũng gắn với những lĩnh vực có
liên quan trực tiếp đến những hoạt động kinh tế, tài chính ở khu vực cơng như
mua sắm cơng, xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội sử
dụng vốn ngân sách. Ở những lĩnh vực này, tham nhũng thường là việc lợi
dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý, điều hành, nhưng cũng có liên quan
đến sự chi phối của yếu tố quyền lực, tạo nên nhiều cách “bòn rút” cơng quỹ,
hệ quả của loại hình tham nhũng này thường là làm giảm hiệu quả sử dụng
vốn ngân sách, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hạn chế số lượng các dịch
vụ cơng cộng được cung cấp, qua đó tác động nhiều mặt đến phát triển kinh tế
– xã hội của đất nước. Tham nhũng xuất hiện dưới dạng lợi dụng sức mạnh
“quyền lực” để mưu toan lợi ích kinh tế cho cá nhân hoặc cho một nhóm
người nhất định. Hành vi này thường xảy ra ở những cơ quan công quyền và
được thực hiện bởi những người nắm quyền lãnh đạo, điều hành các cơ quan
công quyền, hoặc có ảnh hưởng quyết định đến các thiết chế vận hành của hệ
thống. Thơng thường, với loại hình tham nhũng này, cái mất trước mắt là thiệt
hại kinh tế cho mục tiêu, chiến lược phát triển chung của cộng đồng, nhưng
nguy hại hơn là làm mất lòng tin của người dân đối với bộ máy lãnh đạo, đối
với chủ trương, đường lối của bộ máy Nhà nước và điều đó nếu để phát triển
rộng, thì nguy cơ mất ổn định xã hội là khá rõ ràng và định hướng xã hội chủ
nghĩa có lẽ chỉ cịn là ước nguyện xa vời.
- Nhìn nhận dưới góc độ chính trị: Tham nhũng qua việc bổ nhiệm hay
bầu chọn quan chức công thường được thực hiện dưới dạng người có quyền
lực chính trị cao hơn, tạo ra các cơ hội, các ưu tiên riêng cho các đối tượng họ
muốn được lựa chọn, để có được những đặc ân này, các đối tượng được lựa
chọn phải “chăm lo” cho các quan chức cấp trên dưới nhiều hình thức quà
biếu, quà tặng hay những cơ hội có tiền, có lợi khác nhau và hứa hẹn tiếp tục
duy trì nguồn lợi này cho người tiến cử khi đã được đắc cử. Có thể nói, về
mặt chính trị xã hội, thiệt hại và nguy hại lại vô cùng lớn bởi loại hình tham



10
nhũng này vơ hình chung đang tiếp tay tạo dựng một xã hội phe phái, cơ hội.
Điều này đồng nghĩa với việc hình thành những mâu thuẫn xã hội, tiềm ẩn
những nguy cơ bất ổn chính trị và rối ren hệ thống chính trị xã hội và như vậy
nhân tố tiêu cực sẽ chi phối, điều chỉnh các hành vi xã hội.
2.1.1.3. Đối tượng tham nhũng và các hành vi tham nhũng
- Đối tượng tham nhũng: Theo khoản 3, Điều 1 của Luật Phòng chống
tham nhũng năm 2005 quy định 04 nhóm người có chức vụ, quyền hạn bao gồm:
+ Cán bộ, công chức, viên chức.
+ Sỹ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ
quan, hạ sỹ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan đơn vị thuộc Công an
nhân dân.
+ Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ
lãnh đạo, quản lý người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp.
+ Người được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ.
Nhóm thứ nhất: Đây là nhóm đối tượng chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn về số
lượng trong số người có chức vụ, quyền hạn thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật Phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, cán bộ, công chức, viên chức
cũng là nhóm đối tượng thường nắm giữ những vị trí, cơng việc liên quan đến
vốn, tài sản nhà nước hoặc tiếp xúc trực tiếp, giải quyết công việc của công
dân, doanh nghiệp, có nhiều cơ hội để thực hiện hành vi tham nhũng nên cần
được thể chế hóa và giám sát chặt chẽ để giảm thiểu nguy cơ tham nhũng.
Nhóm thứ hai: Gồm những người có chức vụ, quyền hạn nêu tại điểm b
là nhóm đối tượng có địa vị pháp lý tương đối đặc thù, thuộc các lực lượng vũ
trang nhân dân và được quy định cụ thể tại Luật Quốc phịng và Luật Cơng an
nhân dân.
Nhóm thứ ba: Những cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của
Nhà nước, theo đó, doanh nghiệp của Nhà nước được hiểu là doanh nghiệp
một trăm phần trăm vốn Nhà nước; thứ hai, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người

đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp khác.
Nhóm thứ tư: Là những người nêu tại điểm d cũng đã được quy định là
người có chức vụ, quyền hạn tại Phần các tội phạm về chức vụ của Bộ luật


11
Hình sự. Theo đó, bên cạnh đối tượng là cán bộ, công chức nhà nước, những
người tuy không phải là cán bộ, công chức nhưng được giao nhiệm vụ, công
vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó cũng được coi
là người có chức vụ, quyền hạn và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng
chớng tham nhũng.
Các hành vi tham nhũng: Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người
có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình
thức khác, có hưởng lương hoặc khơng hưởng lương, được giao thực hiện một
công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện cơng vụ”.
Luật Phòng chống tham nhũng đã quy định bổ sung người có chức vụ quyền
hạn cịn bao gồm: "Người được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ có quyền
hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó”, nghĩa là khái niệm chức vụ,
quyền hạn được mở rộng không chỉ trong phạm vi thực hiện cơng vụ, mà cịn
cả trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ được giao. Theo Điều 3 Luật Phòng
chớng tham nhũng năm 2005 thì các hành vi sau đây là hành vi tham nhũng:
Tham ô tài sản; nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ
lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; Giả mạo trong công
tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, mơi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của
Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng
vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi

phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
2.1.1.4. Nguyên nhân tham nhũng
Trong thời gian qua cuộc đấu tranh tham nhũng của Đảng và Nhân dân
ta diễn ra rất quyết liệt và đã thu được kết quả bước đầu song đến nay có thể
nói nạn tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi một cách cơ bản. Tình hình vẫn
diễn ra phức tạp, có nơi có chiều hướng gia tăng với những thủ đoạn hết sức
tinh vi, có trường hợp câu kết, móc nối ngang dọc giữa các phần tử thoái hoá


12
biến chất trong các cơ quan Nhà nước và ngoài xã hội, rất khó phát hiện làm
cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng hết sức khó khăn.
Nguyên nhân đầu tiên: Bản chất là do chế độ người bóc lột người sinh
ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tham ơ, lãng phí, quan liêu là những xấu
xa của xã hội cũ. Nó do lịng tự tư tự lợi, ích kỷ hại nhân mà ra, nó do chế độ
người bóc lột người mà ra”. Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội,
khác với mọi sự vận động vật chất khác trong giới tự nhiên ở chỗ con người
hành động đều tính đến lợi ích hoặc mục đích. Mọi hành vi tham nhũng đều là
nhằm thực hiện một mục đích tư lợi ích kỷ nào đó. Bởi vậy chế độ tư hữu
chính là cơ sở tư tưởng của các hành vi tham nhũng. Khơng có tư tưởng tư lợi
ích kỷ sẽ khơng có tham nhũng thiệt người lợi mình.
Ngun nhân thứ hai: Gây ra tham nhũng là do luật pháp về sở hữu
không rõ ràng, chủ thể sở hữu khơng được định rõ làm cho người có quyền lợi
dẽ biến của cơng thành của tư, cịn quần chúng vì khơng rõ tài sản đó là của
mình nên để mặc kẻ xấu tung hồnh. Chính sự yếu kém của luật pháp trong
quản lý đã làm cho các vấn đề kinh tế trở thành khuất tất, không rõ ràng, tạo
kẽ hở cho kẻ xấu tham nhũng.
Nguyên nhân thứ ba: Gây ra tham nhũng là sự hư hỏng và kéo bè kéo
cánh của các giới lắm giữ guồng máy quyền lực, họ bao che nhau, họ ủng hộ

và chạy tội cho nhau, đây là một thực tế đang xảy ra ở rất nhiều nước.
Nguyên nhân thứ tư: Gây ra tệ nạn tham nhũng là bản chất của nền
kinh tế thị trường, của việc tự do hoá cạnh tranh đã tạo ra.
Nguyên nhân thứ năm: Là sự tê liệt ý chí của cơng dân, do mất lòng tin
vào bộ máy Nhà nước, do khơng có điều kiện, khơng có thơng tin và khơng
có đủ trình độ nhận thức, khơng được bảo vệ để chỉ và phân biệt ra các kẻ
tham nhũng mà trừng phạt chúng.
2.1.1.5. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của
tham nhũng ở những điểm chính sau:
- Tác hại về chính trị: Tham nhũng là cản trở lớn đối với quá trình đổi
mới đất nước và làm xói mịn lịng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước,


13
đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tinh thần đổi
mới đất nước một cách toàn diện đã mang đến cho đất nước ta thế và lực mới.
Những điều chỉnh đúng đắn về chiến lược và sách lược đã phát huy tác dụng
của nó và tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tình trạng tham
nhũng lại là một trở lực lớn đối với quá trình này. Quan điểm và tư duy đổi
mới cùng với cơ chế, pháp luật đúng đắn, phù hợp đã bị tệ tham nhũng làm
cho méo mó. Đối tượng tham nhũng đã lợi dụng sự thơng thống của cơ chế,
chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng. Ngược lại, kẻ tham nhũng lại lợi
dụng yêu cầu tăng cường kiểm tra, giám sát và các biện pháp khác để doạ
dẫm, đòi hối lộ của các đối tượng bị thanh tra, kiểm tra. Cơ chế, chính sách đã
trở thành công cụ để thực hiện những lợi ích cá nhân. Trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài, tham nhũng sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư nếu chúng ta khơng
có biện pháp kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi mặc dù Việt Nam được coi là quốc
gia ổn định, an tồn về chính trị, xã hội. Nhìn vào những thành quả của việc

đổi mới có thể nhận thấy chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng ln
đúng đắn, kiên quyết và mạnh mẽ nhưng khi thực hiện thì bị cản trở rất nhiều
do người thực hiện xuất phát từ mưu lợi cá nhân. Mặc dù cải cách hành chính
tiến bộ bước đầu nhưng cho đến nay, cần thừa nhận rằng, tính phục vụ và tính
cơng tâm nhìn chung vẫn còn là một điều xa lạ của nền hành chính nước ta.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
của việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội hoặc một nhiệm
vụ quản lý nhất định của Nhà nước. Tổng quát hơn, sự nghiệp cách mạng xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của tồn Đảng, tồn
dân. Nhân dân chính là động lực, chủ thể, mục đích của cách mạng. Để nhân
dân mất niềm tin, tức là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vơ cùng to lớn,
thậm chí có tính chất quyết định đối với sự nghiệp cách mạng.
- Tác hại về kinh tế: Tham nhũng, lãng phí gây thiệt hại rất lớn về tài
sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân. Ở nước ta, trong thời gian
qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, gây
thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước. Hàng loạt vụ tham nhũng lớn, nghiêm
trọng đã bị phát hiện và được xử lý nghiêm theo luật định như: vụ Dệt Nam
Định, vụ Tamexco, vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ Vinasin, Vinaline… Giá trị tài


14
sản bị thiệt hại, bị thất thoát liên quan tới tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng
chục, hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỉ đồng. Đó là những con số lớn và
đáng lo ngại so với số thu ngân sách hằng năm của nước ta. Hậu quả của hành
vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể
hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham
nhũng, mà nguy hiểm hơn, hành vi tham nhũng cịn gây thiệt hại, gây thất
thốt, lãng phí một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân.
Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối
với nhân dân trong khi thực thi công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi

hành công vụ khiến cho nhân dân phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền
bạc để có thể thực hiện được cơng việc của mình như: xin cấp các loại giấy
phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác...
- Tác hại về mặt xã hội: Tham nhũng của cán bộ, đảng viên đã làm
thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, tha hố đội ngũ cán bộ,
cơng chức nhà nước. Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi
thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được
phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng, không phục vụ nhân dân mà
hướng tới các lợi ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công
vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng khơng chỉ phát
sinh ở trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ
bản, quản lý đất đai… mà cịn có xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới
nay ít có khả năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục,
thể thao... Thậm chí, cả những lĩnh vực lẽ ra khơng thể có tham nhũng, cả
dưới góc độ đạo đức và pháp luật, như lĩnh vực phúc lợi xã hội hay bảo vệ
pháp luật. Hành vi tham nhũng xảy ra khơng ít trong các chương trình trợ cấp
cho thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách; tham nhũng tiền, hàng hố
cứu trợ xã hội, trong cả xét duyệt công nhận di tích lịch sử, văn hố, thi đua
khen thưởng. Thậm chí tham nhũng còn xảy ra trong các cơ quan bảo vệ pháp
luật. Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình
thường trong quan niệm của một số cán bộ, cơng chức. Đó chính là biểu hiện
của sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Hơn thế,
tham nhũng còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,


15
khi người thực hiện hành vi tham nhũng có khi là giáo viên, bác sĩ, những
người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội - những người
xây dựng đời sống, nền tảng tinh thần cho xã hội.
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý

Luật phịng, chống tham nhũng (Luật số: 55/2005/QH11 ngày
29/11/2005 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2012).
Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ( Luật số: 44/2013/QH13 ngày
26/11/2013).
Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 22/08/2006 tại Hội nghị lần thứ ba
BCH Trung ương Đảng khoá X "Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí".
Nghị định số 158/2007/NĐ-CP, ngày 27/10/2007 của Chính phủ qui
định về danh mục các vị trí cơng tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí
cơng tác đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Thủ tướng Chính
phủ về minh bạch tài sản, thu nhập.
Chỉ thị 03 - CT/TW ngày 14 tháng 5 năm 2011 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khoá XI) ngày 16/1/2012 “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Kết luận số 21- KL/TW ngày 25 tháng 05 năm 2012 tại Hội nghị lần
thứ 5 BCHTW (khóa XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 3 BCHTW (khóa X) “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng
tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí".
2.1.3. Căn cứ thực tiễn
Trong thời gian qua, với quyết tâm cao của toàn Đảng bộ, chính
quyền, sự nỗ lực triển khai của các cấp, các ngành; sự tham gia của cả hệ
thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, cơng tác Phòng
chớng tham nhũng, lãng phí và chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên đã có những chuyển biến tích cực, tham
nhũng đã có bước được kiềm chế. Ý thức, vai trị trách nhiệm của các cấp
ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương



16
trong công tác đấu tranh Phòng chống tham nhũng, lãng phí ngày càng
được nâng cao. Phần lớn cán bộ, đảng viên đều giữ vững phẩm chất đạo
đức cách mạng, tiên phong gương mẫu trong Phòng chớng tham nhũng tạo
lịng tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên, tình hình tham nhũng trên địa bàn tỉnh vẫn còn diễn biến phức
tạp, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, đó là hiện tượng sự sa sút phẩm chất, nhũng
nhiễu gây phiền hà của một bộ phận cán bộ, công chức trong thi hành
công vụ chậm được khắc phục; tình trạng tham nhũng “vặt”, chưa được
quan tâm và xử lý đúng mức; việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ
quan, tổ chức xảy ra tham nhũng được thực hiện nghiêm túc. Chất lượng
điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án tham nhũng còn hạn chế. “Có biểu
hiện hữu khuynh, nể nang, lạm dụng việc bồi thường, khắc phục hậu quả
để xử lý hành chính. Một số vụ việc có dấu hiệu tham nhũng qua cơng tác
thanh tra chậm được xem xét, kết luận". Những hạn chế, yếu kém trên
được cho là đã gây tâm lý hoài nghi của một bộ phận nhân dân đối với các
cơ quan tư pháp, tính nghiêm minh của pháp luật và hiệu quả của cuộc
đấu tranh chống tham nhũng...
Để công tác lãnh đạo, chỉ đạo về phòng chống tham nhũng đi vào
thực chất, sát với tình hình địa phương; trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị,
chương trình cơng tác trọng tâm của Ban Chấp hành Trung ương, của Ban
Chỉ đạo Trung ương về PCTN và của Ban Nội chính Trung ương, căn cứ
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khố X) và Chương trình hành động
của Tỉnh ủy Lào Cai về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa X) “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với
cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí”; Tỉnh ủy đã cụ thể hóa, ban
hành nhiều văn bản để thực hiện: Xây dựng Kế hoạch của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) “về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng,

chống tham nhũng, lãng phí”.
Tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục về phòng, chống tham nhũng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.


17
Công tác kê khai, công khai tài sản thu nhập của cán bộ, đảng viên đã được
các cấp ủy, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh thực hiện nghiêm túc theo
tinh thần Chỉ thị 33-CT/TW của Bộ Chính trị. Bên cạnh đó, Tỉnh thực hiện
tốt cơng tác cải cách hành chính, cơng khai minh bạch trình tự thủ tục, đơn
giản hố thủ tục hành chính. Nhờ làm tốt cơng tác cải cách hành chính, nên
các năm 2013, 2014, 2015 chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI của Lào
Cai ln được xếp vào tốp đầu trên tồn quốc. Việc chỉ đạo, triển khai thực
hiện chuyển đổi vị trí cơng tác đã mang lại hiệu quả trong việc phịng ngừa
tham nhũng, lãng phí trên địa bàn tỉnh. Từ năm 2011 đến nay, đã chuyển đổi
được 536 cán bộ, công chức trên các lĩnh vực nhạy cảm như: Đầu tư xây
dựng, quản lý tài chính, ngân sách, tài sản nhà nước, tuyển dụng cán bộ công
chức, tài nguyên môi trường,…
Cùng với tăng cường các biện pháp quản lý để chủ động phịng ngừa
tham nhũng, lãng phí, Tỉnh hết sức coi trọng chỉ đạo hoạt động thanh tra, kiểm
tra để phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm theo đúng quy định. Tỉnh ủy
thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án tăng cường
phối hợp, nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án đúng thời gian luật định,
đúng người, đúng tội. Mặc dù, có vụ án phức tạp, q trình xảy ra trong thời
gian dài gây khó khăn cho cơng tác điều tra, truy tố, xét xử; nhưng nhờ sự lãnh
đạo, chỉ đạo, đồng bộ nên các vụ án được nhanh chóng đưa ra xét xử nghiêm
minh, đúng pháp luật. Trong quá trình thực hiện cơng tác phòng chớng tham
nhũng, lãng phí và chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên trên địa bàn. Tỉnh Lào Cai luôn gắn công tác này với việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Chỉ thị sớ 03-CT/TW, ngày

14/5/2011 của Bộ Chính trị nhằm nâng cao hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ.
Bên cạnh những kết quả tích cực, thì tình hình tham nhũng trên địa
bàn tỉnh vẫn còn diễn biến phức tạp, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, cơng tác
phòng chớng tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện suy thoái về đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên vẫn còn tồn tại, hạn chế trên một số lĩnh
vực, cụ thể:
Thứ nhất, Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng chống
tham nhũng, lãng phí chưa thường xuyên, liên tục, thiếu chiều sâu. Một số quy


18
định về phòng chống tham nhũng chưa được phổ biến, quán triệt kịp thời; thời
lượng đưa tin phát hiện tham nhũng, lãng phí từ trong nội bộ cịn ít.
Thứ hai, Việc xây dựng chương trình, kế hoạch phịng, chống tham
nhũng ở một số địa phương trên địa bàn tỉnh chưa bám sát tình hình thực
tiễn, nên đề ra nội dung kiểm tra cịn chung chung, triển khai thực hiện
khơng đúng trọng tâm, làm hạn chế đến hiệu quả công tác phòng, chống
tham nhũng.
Thứ ba, Việc thực hiện một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng ở
nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị như: Kê khai tài sản, thu nhập; chuyển đổi vị
trí cơng tác; xử lý trách nhiệm người đứng đầu; xây dựng quy tắc ứng xử, đạo
đức nghề nghiệp,... chưa tích cực, cịn hình thức nên chuyển biến chưa rõ nét.
Thứ tư, Thủ trưởng ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn thiếu
gương mẫu trong việc thực hiện các chế độ định mức quy định của Nhà nước,
sử dụng vượt quy định hoặc trái quy định về ngân sách và tài sản của Nhà
nước.
Thứ năm, Tình hình vi phạm trong sử dụng ngân sách, tài sản Nhà
nước, quản lý dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, đất đai, tuyển dụng, thuyên
chuyển, bố trí, điều động cán bộ, công chức, viên chức,... được phát hiện và
xử lý qua hoạt động thanh tra, kiểm tra cịn ít.

2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
2.2.1. Thực trạng của vấn đề cần giải quyết mà đề án hướng đến
* Ưu điểm
Trong thời gian qua, cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí và
chống các biểu hiện suy thối về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đã
được Đảng bộ, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ
bằng nhiều giải pháp, từ công tác giáo dục chính trị tư tưởng đến ban hành
các cơ chế, chính sách; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử. Trong
giai đoạn 2010 - 2015, qua thực hiện cơng tác phịng, chống lãng phí đã tiết
kiệm được cho nhà nước tổng số tiền trên 2.100 tỷ đồng; qua công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử đã thu hồi về cho nhà nước
tổng số tiền trên 70 tỷ đồng, đưa ra xét xử 09 vụ án tham nhũng (19 bị cáo,



×