Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Khắc phục biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở hà tĩnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.12 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

ĐẶNG QUỐC VINH

KHẮC PHỤC BIỂU HIỆN SUY THOÁI
VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MỘT BỘ PHẬN
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

ĐẶNG QUỐC VINH

KHẮC PHỤC BIỂU HIỆN SUY THOÁI
VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MỘT BỘ PHẬN
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01


Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Phùng Hữu Phú

Hà Nội – 2013

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung
thực. Những kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đặng Quốc Vinh

iii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ ......................................................................................................8
1.1. Một số khái niệm ........................................................................................8
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về suy thoái tư
tưởng chính trị ................................................................................................. 13
Chương 2: NHẬN DIỆN BIỂU HIỆN SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN
NAY ................................................................................................................ 23
2.1. Tình hình chung về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ

Hà Tĩnh ........................................................................................................... 23
2.2. Một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay ................................................................... 26
2.3. Nguyên nhân của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ
phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh .................................................................. 39
Chương 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC BIỂU HIỆN SUY THOÁI TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở
HÀ TĨNH HIỆN NAY .................................................................................. 48
3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên ............................................................................................ 48
3.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng; nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên ............................................................................... 55
3.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng . 60
3.4. Đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường công tác quản lý nhà nước
trên các lĩnh vực .............................................................................................. 64
3.5. Tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; không ngừng nâng cao đời
sống vật chất tinh thần cho nhân dân .............................................................. 66
3.6. Kiên quyết đấu tranh, thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm .................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 77

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, việc làm thường xuyên
nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,

đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Xây dựng Đảng có nhiều nội dung, trong đó xây dựng Đảng về tư
tưởng chính trị là một nhiệm vụ quan trọng nhất. Nhờ làm tốt công tác xây
dựng Đảng về tư tưởng chính trị, thường xuyên chăm lo bồi dưỡng tư tưởng
chính trị cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nên trong mọi giai
đoạn cách mạng, Đảng ta luôn phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, tranh thủ sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả của nhân dân tiến bộ trên thế
giới, đưa sự nghiệp cách mạng giành nhiều thắng lợi vĩ đại.
Mặc dù vậy, so với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới,
công tác xây dựng Đảng còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt, tình trạng một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống như Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng” đã chỉ ra đang làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ở Hà Tĩnh, từ trước đến nay, công tác tư tưởng chính trị luôn được các
cấp uỷ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Đa số cán bộ, đảng viên giữ vững bản chất
của người cộng sản; tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước và chính quyền các cấp; gương
mẫu đi đầu trong mọi phong trào; Đảng bộ đoàn kết, thống nhất, nhân dân
đồng thuận cao; thường xuyên nâng cao cảnh giác, đấu tranh ngăn chặn và
làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững trận địa tư
tưởng, góp phần vào những thành tựu chung của tỉnh trên các lĩnh vực.
1


Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, tình hình tư
tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay có biểu
hiện suy thoái. Đáng chú ý là một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút lòng tin

vào chủ nghĩa Mác - Lê nin; thiếu tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị; hoài nghi vào
mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như mục tiêu phát triển của Hà
Tĩnh; thiếu ý chí chiến đấu, ngại va chạm; chưa thực hiện đúng nguyên tắc tổ
chức sinh hoạt Đảng; chưa đấu tranh mạnh mẽ trước những luận điệu sai trái,
lệch lạc của những phần tử cơ hội và các thế lực thù địch.
Những biểu hiện của sự suy thoái tư tưởng chính trị nói trên diễn ra
trong những thời điểm khác nhau, ở nhiều cấp độ khác nhau, có khi phức tạp,
gây mất đoàn kết nội bộ ở một số cơ quan, đơn vị, là cơ hội để các phần tử
xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá. Vì vậy, cần phải có sự nhìn nhận khách
quan, bình tĩnh, đề ra giải pháp khắc phục có hiệu quả, nhằm không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Xuất phát từ tình hình trên, tôi chọn đề tài: “Khắc phục biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh
hiện nay” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề đặt ra của luận văn, đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu tình hình tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên ở phạm vi
khác nhau. Những vấn đề này chủ yếu được đề cập nhiều trong các văn kiện
của Đảng, các giáo trình đạo đức công dân dùng trong hệ thống giáo dục quốc
dân và một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí như:
Nhận diện đúng tính chất, mức độ của sự suy thoái để kết hợp tốt giữa
“xây” và “chống” của Nguyễn Hữu Chính (Báo Quân đội Nhân dân, ngày
8/5/2012) nêu lên một trong những nguy cơ lớn nhất của đảng cầm quyền là
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên,
2


nhất là cán bộ có chức, có quyền. Đặc biệt, tác giả đã có những nhận diện về

các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên, chỉ ra nguyên
nhân và hậu quả của nó. Từ đó, tác giả đã nêu lên biện pháp cơ bản để khắc
phục là kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”.
Nhận diện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên của Nguyễn Văn Hào đã chỉ ra một số biểu hiện
suy thoái về tư tưởng chính trị và biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống;
mối quan hệ giữa suy thoái tư tưởng chính trị và suy thoái đạo đức, lối sống.
Từ đó gợi mở một số vấn đề tham khảo trong việc nhận diện để khắc phục
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.
Tìm hiểu nguyên nhân tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay của Đoàn Thế Hanh.
Trên cơ sở những nguyên nhân cơ bản mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) chỉ ra, tác giả bàn thêm về nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Trong hai nhóm nguyên
nhân nói trên, nhóm nguyên nhân chủ quan là vấn đề hàng đầu cần có giải
pháp khắc phục hiệu quả.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị hiện nay - Thực trạng
và quan điểm của Đảng ta của Lê Hữu Nghĩa đã chỉ ra một số nguyên nhân
chủ yếu tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng
viên như âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch;
tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, chủ nghĩa tư bản còn nhiều tiềm năng
để phát triển, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào; mặt trái của kinh
tế thị trường. Từ đó, tác giả nêu những quan điểm của Đảng ta trong việc đấu
tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ Đảng và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Công trình cũng chỉ ra một số hạn chế, yếu kém cần khắc
phục trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị.
3



Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng chống suy thoái tư
tưởng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên (2011) do Vũ Văn Phúc và
Ngô Văn Thạo (đồng chủ biên). Công trình đã tập trung phân tích cơ sở lý
luận của việc chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán
bộ, đảng viên; nêu kinh nghiệm của Liên Xô (trước đây), Trung Quốc, Hàn
Quốc, Sinhgapo và Cu Ba trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, suy thoái
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đánh giá thực trạng suy thoái và phòng
chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên
hiện nay; nêu mục tiêu, quan điểm, giải pháp, điều kiện thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ phòng chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
cán bộ, đảng viên hiện nay.
Đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống
của Bùi Thanh Sơn cho rằng đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một việc làm rất khó khăn. Vì vậy cần
phải nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những vấn đề cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng, lựa chọn phương pháp thực hiện, xây dựng
chương trình, kế hoạch thực hiện, kết hợp xây và chống, dựa vào quần chúng
nhân dân, cấp trên gương mẫu để cấp dưới noi theo... Đồng thời phải thường
xuyên nâng cao cảnh giác với những âm mưu chống phá của các thế lực thù
địch nhằm kích động, chia rẽ đoàn kết nội bộ.
Nâng cao hiệu quả đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” và phòng,
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của Nguyễn Xuân Thành phân tích âm
mưu và hoạt động của chiến lược “diễn biến hoà bình”; chỉ ra thủ đoạn của các
thế lực thù địch là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ hệ
thống chính trị Việt Nam, đặc biệt là tập trung làm biến chất lực lượng vũ
trang. Cuối cùng, tác giả nêu giải pháp đẩy mạnh công tác chính trị, tư tưởng
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp để đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” và
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong lực lượng vũ trang.
4



Nhìn chung, đã có nhiều tác giả tiếp cận nghiên cứu vấn đề đấu tranh,
ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên ở những phạm vi khác nhau. Đã có những nhận diện bước đầu về biểu
hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên. Các công trình khoa học đã chỉ ra được một số nguyên
nhân dẫn đến tình hình suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên nhưng chưa phân tích làm rõ từng nguyên nhân,
đặc biệt là những nguyên nhân trực tiếp, cơ bản nhất. Các công trình chưa đi
sâu phân tích làm rõ biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
hiện nay; chưa chỉ ra mối liên hệ giữa âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà
bình” với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ và suy thoái
tư tưởng chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Nhiều công
trình đã đề xuất được một số giải pháp nhằm khắc phục biểu hiện suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tuy vậy các giải pháp
còn chung, thiếu cụ thể, chưa đồng bộ, chưa chỉ ra cơ sở khoa học để đề ra và
thực hiện các giải pháp.
Mặt khác, không gian và đối tượng nghiên cứu của các công trình
khoa học rất rộng, bao gồm phạm vi cả nước và nhiều đối tượng. Việc
nghiên cứu biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và đề ra giải pháp khắc phục biểu hiện suy thoái đó ở các địa
phương nói chung, ở Hà Tĩnh nói riêng đến nay chưa có công trình khoa học
nào thực hiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ ra biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm khắc phục biểu
hiện suy thoái tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà

Tĩnh hiện nay.
5


3.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất: Phân tích cơ sở lý luận về tư tưởng chính trị và suy thoái về
tư tưởng chính trị.
Thứ hai: Nhận diện biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ
phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay.
Thứ ba: Đề xuất các giải pháp cơ bản để khắc phục biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính
trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Về thời gian: Từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chủ trương, biện pháp của tỉnh Hà
Tĩnh về khắc phục biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên. Trong đó coi trọng các phương pháp nghiên cứu như: phân
tích, tổng hợp, so sánh, logic - lịch sử, thống kê,…
6. Đóng góp của luận văn
- Chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ
phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm khắc phục biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay,
nhằm nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Hà

Tĩnh, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách
mạng mới.
6


7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần giúp các cấp uỷ Đảng đấu tranh ngăn chặn biểu
hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và chỉnh
đốn Đảng trong tình hình hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
(khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Luận văn có
thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập tại Trường Chính
trị Trần Phú Hà Tĩnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 3 chương.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
1.1. Một số khái niệm
a.Tư tưởng
Theo nghĩa chung nhất, “tư tưởng là sự suy nghĩ, hoạt động của trí tuệ
nhằm một đối tượng cần thiết, cần nghiên cứu. Là toàn bộ những sản phẩm
của trí tuệ hợp thành một học thuyết”. [26, tr.882]
Như vậy, tư tưởng là khái niệm gắn với con người và xã hội loài người.
Chỉ có con người mới có ý thức, tư tưởng. Quá trình hình thành và phát triển
tư tưởng là quá trình phát triển lâu dài của con người và xã hội loài người,

thông qua quá trình lao động sản xuất và sự hình thành ngôn ngữ - công cụ
vật chất của tư duy.
Có nhiều cách phân loại về tư tưởng. Theo trình độ phát triển có tư
tưởng sơ khai; tư tưởng sâu sắc, hiện đại. Theo xu thế phát triển có tư tưởng
tiến bộ và tư tưởng phản tiến bộ. Theo tính chất giai cấp có tư tưởng của giai
cấp thống trị, tư tưởng của giai cấp bị trị, tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư
sản, tư tưởng nông dân, công nhân. Theo phân ngành khoa học có tư tưởng
triết học, tư tưởng đạo đức, tư tưởng chính trị,…
b. Chính trị
Chính trị là khái niệm gắn liền với giai cấp, nhà nước. Thuật ngữ chính
trị theo nguồn gốc của tiếng Hi Lạp cổ đại là “politika”, tiếng Anh là “politic”,
tiếng pháp là “politique”. Theo nghĩa gốc của những thuật ngữ trên thì chính trị
có nghĩa là những công việc nhà nước hay những công việc xã hội.
Chính trị là phạm trù phức tạp, có quan hệ đến nhiều lĩnh vực như kinh
tế, văn hóa, xã hội,…Tính phức tạp của chính trị bắt nguồn từ tính đa diện và
sự biểu hiện rất đa dạng của chính trị trong đời sống xã hội. Do đó có nhiều
quan niệm khác nhau về chính trị.
8


Thời cổ đại, ở phương Tây, quan niệm phổ biến cho rằng, chính trị là
“nghệ thuật cung đình”, là các tri thức liên quan đến nhà nước và chính phủ
của nhà nước ấy. Theo Platon, chính trị là công việc nhà nước, công việc xã
hội, là nghệ thuật cai trị con người với sự bằng lòng của họ. Aristot thì quan
niệm, chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học tổ chức xã hội.
Ở phương Đông, trong Luận ngữ, Khổng Tử - nhà tư tưởng lớn của
Trung Hoa cổ đại cho rằng, chính trị là sự sắp đặt, lo liệu, quản lý để xã hội
có kỷ cương, nền nếp.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị thể hiện ở những
luận điểm cơ bản sau:

- Chính trị là sự tham gia vào công việc của nhà nước, là sự định hướng
cho nhà nước, xác định các hình thức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của
nhà nước.
- Chính trị là quan hệ lợi ích giữa các giai cấp. Quan hệ chính trị về bản
chất là quan hệ giai cấp. Chính trị chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp. Lợi
ích của các giai cấp quy định nội dung, đặc điểm, bản chất, xu hướng vận
động của chính trị. Khi giai cấp xuất hiện, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay
gắt, đòi hỏi cần phải được giải quyết bởi tổ chức đặc biệt đó là nhà nước.
- Nhà nước là bộ phận trung tâm của chính trị. Nhà nước là một bộ máy
tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai
cấp. Nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho quyền lực chung của xã hội để
quản lý, điều hành mọi hoạt động của xã hội và công dân, thực hiện chức
năng chính trị và chức năng xã hội cùng chức năng đối nội và đối ngoại của
quốc gia. Về thực chất bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ quyền lực thực
hiện chuyên chính giai cấp thống trị, giai cấp nắm giữ được những tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước.
Nhà nước chỉ xuất hiện khi chế độ tư hữu ra đời và giai cấp xuất hiện.
Do đó nhà nước là một hiện tượng lịch sử. Nhà nước ra đời khi có những điều
kiện khách quan và cũng sẽ bị tiêu vong khi không còn các điều kiện của nó.
9


Quan điểm này phê phán chủ nghĩa duy tâm cho rằng nhà nước là ý chí quyền
lực tối thượng của lực lượng siêu nhân, bất biến, vĩnh hằng. Điều căn bản nhất
của chính trị là tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước như thế nào, quyền lực
thuộc về ai, của quảng đại quần chúng nhân dân lao động hay chỉ nằm trong
tay một nhóm người, hoặc một cá nhân.
- Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị với tư cách là
yếu tố của kiến trúc thượng tầng, do dó chính trị bị chi phối bởi quan hệ kinh
tế, trong đó quan trọng và trực tiếp nhất là lợi ích kinh tế; phụ thuộc vào chế

độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ kinh tế như thế nào thì chế độ chính trị
như thế đó. Giai cấp nào chi phối về kinh tế thì cũng nắm quyền lực thống trị
xã hội về mặt chính trị, tư tưởng, pháp quyền. Ngược lại, chính trị có tác động
tới kinh tế, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Nếu chính
trị phản ánh đúng quy luật khách quan, thì sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, và
ngược lại. Do đó muốn thúc đẩy sự phát triển của xã hội trước hết phải xuất
phát từ đổi mới về kinh tế. Nhưng đồng thời phải từng bước đổi mới chính trị.
- Chính trị là lĩnh vực nhạy cảm. Phạm vi tác động của chính trị là
rất rộng lớn, phổ biến trong quần chúng nhân dân lao động, trong mọi tầng
lớp xã hội. Do đó, một quyết sách chính trị của giai cấp cầm quyền hoặc
của một cá nhân chính trị sẽ có tác động rất lớn đến toàn bộ đời sống xã
hội. Một chủ trương chính trị đúng đắn sẽ có tác động thúc đẩy xã hội phát
triển, ngược lại sẽ kéo lùi, thậm chí có thể gây rối loạn xã hội. Vì vậy việc
đưa ra các chủ trương, quyết sách chính trị phải hết sức thận trọng; phải
được cân nhắc kỹ càng dựa trên những căn cứ khoa học, thực tiễn, phù hợp
với quy luật vận động của xã hội. Mọi sự chủ quan, duy ý chí, nóng vội,
rập khuôn, máy móc đều là những sai lầm đáng tiếc của giai cấp cầm quyền
và của cá nhân chính trị.
- Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Chính trị là khoa học
nghĩa là chính trị bao hàm hệ thống những tri thức của con người và xã hội về
chính trị. Đó là những tri thức phản ánh đời sống chính trị xã hội, về quan hệ
10


giai cấp, về công tác tổ chức và quản lý nhà nước, quản lý xã hội... Do đó,
trong hoạt động chính trị cần phải nắm vững và vận dụng những tri thức đó
vào thực tiễn một cách có hiệu quả. Khi nói chính trị là nghệ thuật, có nghĩa
trong việc tổ chức, quản lý xã hội tuyệt đối không cứng nhắc, rập khuôn, máy
móc, áp đặt, chủ quan, nóng vội, duy ý chí… mà phải thật mềm dẻo, linh
hoạt; kết hợp chặt chẽ giữa nguyên tắc và phương pháp trong từng thời điểm,

từng hoàn cảnh cụ thể. Từ phát ngôn chính trị đến hành động phải tùy thuộc
vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Nếu quá cứng nhắc trong quản lý, điều hành
xã hội có khi lại phản tác dụng. Vì vậy người cầm quyền cần phải thường
xuyên hiểu và nắm chắc môi trường chính trị, đời sống chính trị xã hội để đưa
ra quyết sách chính trị thích hợp nhất.
Từ những luận điểm cơ bản nói trên, có thể rút ra khái niệm chính trị
như sau: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc
gia, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị
mà tập trung là quyền lực nhà nước.
c. Tư tưởng chính trị
Tư tưởng chính trị là hình thái ý thức xã hội, là yếu tố của kiến trúc
thượng tầng, là hệ thống các quan điểm, quan niệm phản ánh tồn tại xã hội
trên khía cạnh quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc
trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Tư tưởng chính trị phản ánh tồn tại xã hội, nhưng không phải phản ánh
một cách thụ động, một chiều. Nếu tư tưởng chính trị tiến bộ, phù hợp với
quy luật vận động khách quan của xã hội thì thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược
lại, nếu tư tưởng chính trị phản tiến bộ, thì sẽ kìm hãm sự phát triển của xã
hội.
Tư tưởng chính trị là hình thái ý thức xã hội, do đó có quan hệ chặt chẽ
với các hình thái ý thức xã hội khác. Ý thức chính trị bao giờ cũng là của giai
cấp thống trị, do đó các hình thái ý thức khác chịu ảnh hưởng rất lớn của ý
thức chính trị. Chẳng hạn, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, ý thức nghệ thuật
11


của một chế độ xã hội bao giờ cũng bị ảnh hưởng bởi sắc màu chính trị của
giai cấp cầm quyền. Đồng thời các hình thái ý thức xã hội khác cũng có sự tác
động trở lại đối với ý thức chính trị.
d. Suy thoái về tư tưởng chính trị và những biểu hiện của nó

Theo nghĩa chung nhất, suy thoái là sự trở nên yếu kém so với trước và
ở trạng thái kéo dài [26, tr.727].
Trong quá trình vận động và phát triển, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, các sự vật, hiện tượng có thể dẫn đến tình trạng suy giảm, suy thoái,
khủng hoảng và có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại của nó. Đó là trạng thái thụt
lùi, suy giảm, ngược lại với sự phát triển, tiến triển theo chiều hướng tiến bộ,
tích cực.
Trong cuốn “Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng, chống suy
thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên” của PGS.TS Vũ
Văn Phúc và PGS.TS Ngô Văn Thạo (đồng chủ biên) xác định “Suy thoái tư
tưởng chính trị nói chung được hiểu là sự biến đổi về phẩm chất chính trị của
mỗi người, mỗi tổ chức xã hội theo chiều hướng xấu, dẫn đến sự xa rời những
nguyên tắc, quan điểm của đảng chính trị, có thể dẫn tới sự thay đổi hẳn bản
chất của chúng”[ 38, tr.18].
Như vậy, suy thoái về tư tưởng chính trị không chỉ có trong cán bộ,
đảng viên, trong từng cá nhân mà còn biểu hiện trong các tổ chức đảng, tổ
chức chính trị - xã hội. Suy thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ lãnh đạo,
quản lý, và trong tổ chức của Đảng ở cấp càng cao thì càng nguy hiểm, vì
cấp cao là cấp hoạch định đường lối, chiến lược; nếu cán bộ, tổ chức đảng ở
cấp cao suy thoái thì dẫn đến chệch hướng, sai lầm đường lối, do đó nếu chậm
phát hiện, khắc phục hoặc không được phát hiện và khắc phục thì có thể ảnh
hưởng đến sự tồn vong của chế độ.
Trong giai đoạn hiện nay, do sự tác động mạnh mẽ của những mặt trái
cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế, sự chống phá, mua chuộc của các thế
lực bên ngoài, cơ chế quản lý và hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, nên một
12


bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có những biểu hiện khác nhau về sự suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống như: Phai nhạt về lý tưởng, cơ hội;

tham nhũng, tham ô, hối lộ, lãng phí; quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, tự
cao, tự đại, coi thường tập thể, coi thường quần chúng; lợi dụng địa vị, chức
quyền, dung túng, bao che cho người thân làm ăn phi pháp, chiếm đoạt tài sản
bất chính; nịnh hót cấp trên, dọa nạt cấp dưới, thành kiến, hẹp hòi, bảo thủ trì
trệ; phô trương, hình thức, chạy theo thành tích, báo cáo sai sự thật; chạy
danh, chạy lợi, chạy chức, chạy quyền, chạy tội; địa phương, cục bộ, bè phái;
ngại khó, ngại khổ, tranh công, đổ lỗi, lợi mình, hại người; “dĩ hoà vi quý”,
“gió chiều nào, che chiều ấy”, thủ tiêu đấu tranh…
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về suy
thoái tư tưởng chính trị
1.2.1. Quan điểm và những cảnh báo của Hồ Chí Minh về suy thoái
tư tưởng chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt
xuất, nhà chính trị lỗi lạc của Việt Nam, trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Người luôn mong muốn và tích cực đấu tranh để xây dựng
một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân chủ, giàu mạnh, đó là
một chế độ mà nhân dân lao động có quyền làm chủ thực sự, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là nhân dân, vì dân là chủ, dân làm chủ. Cán bộ là công bộc của dân. Bộ
máy chính quyền đều do nhân dân lập ra. Để xây dựng nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân, Người đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng cán bộ.
Người cán bộ cách mạng không phải là “ông quan” mà phải là công bộc, đầy
tớ trung thành của nhân dân, gần gũi nhân dân, học hỏi nhân dân, đặt lợi ích
của nhân dân, của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân mình.
Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục cán bộ, ngăn ngừa cán
bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Theo Người,
13



“cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Vì vậy Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người
làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ.
Sau khi Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời được nửa
tháng, ngày 17-9-1945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (Nghệ An), Bác
căn dặn: “Cán bộ ta nhiều người cúc cung tận tụy, hết lòng trung thành với
nhiệm vụ, với chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có nhiều người hủ hóa,
lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc là dĩ công
dinh tư. Thậm chí dùng phép công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính
phủ và Đoàn thể. Những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng hoang
mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động. Chúng ta phải lập tức sửa đổi
ngay…” [30, tr.20].
Phê phán những thói hư tật xấu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, giáo
dục cách làm người, làm cán bộ là những việc làm thường xuyên, thắm tình
đồng chí, đòi hỏi phải tiến hành bền bỉ, liên tục. Ngày 17-10-1945, trong Thư
gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Bác đã nêu 6 căn bệnh của
cán bộ, công chức thời bấy giờ. Đó là “trái phép” - do tư thù tư oán mà bắt bớ
trái phép, tịch thu bừa bãi; “cậy thế” - cho mình là người của ban này ban nọ,
rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy; “hủ hóa”- muốn ăn ngon mặc
đẹp, chi tiêu ngày càng xa xỉ, lấy của công dùng vào việc tư; “tư túng” - kéo
bè kéo cánh, không tài năng gì cũng đưa vào chức này chức nọ; “chia rẽ”,
bênh vực lớp này chống lại lớp kia; “kiêu ngạo” - lúc nào cũng lên mặt “quan
cách mạng”, coi khinh quần chúng. Người phê phán gay gắt những “lầm lỗi
rất nặng nề nói trên”, đồng thời chỉ rõ: “chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã
nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa”. Sự nghiệp cách mạng phát triển,
công việc ngày càng nhiều, cán bộ đảng viên tăng thêm; do ý thức tư tưởng,
rèn luyện kém, không ít người đã vi phạm khuyết điểm và những khuyết điểm
đó mang nặng dấu ấn của “quan cai trị”, “người cầm quyền” dưới thời kỳ
thống trị của thực dân, phong kiến.
14



Sau ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp tháng 12-1946,
để tiến hành công cuộc chiến đấu thần thánh của nhân dân ta chống kẻ xâm
lược và bè lũ tay sai, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, ngày 1-3-1947, trong
Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Bác đã nêu tám khuyết điểm “phải kiên quyết
tẩy sạch”. Đó là: “Địa phương chủ nghĩa”, chỉ biết đến lợi ích của địa phương
mình, bộ phận mình; “Óc bè phái”, nghe người, dùng người hẩu với mình;
“óc quân phiệt quan liêu”, hống hách, như một “ông vua con” ở nơi mình phụ
trách; “óc hẹp hòi”, không biết dùng chỗ hay của người khác và giúp họ chữa
chỗ dở; “ham chuộng hình thức”, thích hình thức bề ngoài, phô trương cho
oai; “làm việc lối bàn giấy”, thích làm việc kiểu giấy tờ, chỉ tay năm ngón, ít
đi vào quần chúng, bám sát thực tiễn; “vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm”, việc
dễ thì làm, khó thì bỏ, bỏ địa phương khi chiến tranh lan đến; “ích kỷ, hủ
hóa”, thích ăn ngon mặc đẹp, xa hoa, chỉ lo danh lợi của bản thân mình…
Những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai,
công việc thật bộn bề, khó khăn gian khổ chồng chất, Bác cùng Bộ Chính trị
tập trung mọi công sức vào công tác đối nội, đối ngoại của một chính quyền
non trẻ đang còn thiếu thốn mọi bề. Cùng với việc xây dựng bộ máy kháng
chiến, kiến quốc từ trên xuống dưới, Người đã dành nhiều thời gian cho việc
xây dựng, rèn luyện, uốn nắn những lầm lỗi, lệch lạc của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Đúc kết kinh nghiệm hoạt động của bộ máy chính quyền từ sau ngày
giành được độc lập, nhất là trong gần một năm điều hành công cuộc kháng
chiến, kiến quốc, tháng 10-1947, Bác cho ra đời tập sách “Sửa đổi lối làm
việc”, một cẩm nang gối đầu giường của đông đảo cán bộ, đảng viên. Bác
nghiêm khắc đòi hỏi từng tổ chức, từng người: “Ngay từ bây giờ, các cơ quan,
các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm
và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa và
giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế Đảng mới nhanh chóng phát triển,
công việc mới chóng thành công”. Bác Hồ đã nêu lên khá nhiều khuyết điểm

của không ít cán bộ, đảng viên và chỉ dẫn cách thức chữa từng căn bệnh cụ
15


thể. Những khuyết điểm đó, theo Người, có thể xếp vào ba loại: “Khuyết
điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan. Khuyết điểm về sự quan hệ trong
Đảng và ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp hòi. Khuyết điểm về cách nói và cách
viết, tức là ba hoa. Ba “chứng bệnh nguy hiểm” này nếu không chữa ngay để
nó lây ra thì có hại vô cùng.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác đã nêu lên hàng loạt chứng
bệnh tệ hại khác và mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Kẻ địch bên trong của
mỗi người cán bộ, đảng viên. Người phân tích sâu sắc “Mỗi kẻ địch bên trong
là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ.
Địch bên trong ta đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Những chứng
bệnh này là bước phát triển tất nhiên của những chứng bệnh cũ. Đó là: “Bệnh
nể nang”, làm ngơ trước sai lầm của người quen biết, họ hàng, thân thích;
“bệnh tham lam”, tự tư tự lợi, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích dân tộc,
“bệnh lười biếng”, tự cho mình là cái gì cũng biết, việc gì cũng giỏi, lười suy
nghĩ, lười học tập, dành lấy việc dễ, đẩy việc khó cho người; “bệnh kiêu
ngạo”, tự cao tự đại, ham địa vị, danh vọng, hay lên mặt, thích được tâng bốc;
“bệnh hiếu danh”, tự cho mình là anh hùng, quan trọng, không chịu làm
những công tác thiết thực; “thiếu kỷ luật”, đặt mình lên trên tổ chức, thích sao
làm vậy; “óc hẹp hòi”, khinh người, không cân nhắc người tốt, sợ người ta
hơn mình; “óc lãnh tụ”, làm được một vài việc thì cho mình đáng là lãnh đạo,
lãnh tụ ở địa phương, đơn vị; “bệnh hữu danh vô thực”, làm việc không thiết
thực, làm cho có chuyện, làm ít nói nhiều; “kéo bè kéo cánh”, từ bè phái dẫn
đến chia rẽ, hợp với mình thì dở cũng cho là hay, che đậy cho nhau; “bệnh
cận thị”, không nhìn xa thấy rộng; “bệnh tị nạnh”, cái gì cũng muốn “bình
đẳng”, cào bằng như nhau; “xu nịnh, a dua”, bốc thơm cấp trên và những
người có quyền thế, theo gió bẻ buồm…những chứng bệnh trên bắt nguồn từ

“bệnh cá nhân”, mọi suy nghĩ việc làm đều xuất phát từ lợi ích cá nhân và đặt
lợi ích cá nhân lên trên hết, trước hết. Tất cả đều vì cá nhân, vì gia đình mình,
vì phe nhóm mình. Bác khẳng định: mắc những căn bệnh đó là do “kém tính
16


Đảng”, mắc một trong những bệnh đó “là hỏng việc”. Người nhấn mạnh
“chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình để giúp nhau chữa cho
hết những bệnh ấy”. Từ đây, Bác phê phán gay gắt “bệnh cá nhân”, “chủ
nghĩa cá nhân” trong con người cán bộ, đảng viên.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951), trong Báo cáo chính trị,
Người nhấn mạnh “những khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng” lúc
ấy là “những bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công
thần”. Ngày 2-9-1951, trong bài báo cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”,
Bác chỉ rõ: Bệnh quan liêu mệnh lệnh là do xa nhân dân, khinh nhân dân,
không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không yêu thương nhân
dân, sợ nhân dân… và Người căn dặn: “Bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa
đến một kết quả là hỏng việc. Vì vậy chúng ta phải mau mau chữa bệnh nguy
hiểm ấy.
Bác Hồ thường xuyên lưu ý và kêu gọi cán bộ, đảng viên, nhân dân
phải thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu.
Người nói: Tham ô là kẻ cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song
kết quả cũng rất có hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn
tham ô. Mà có nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu. Muốn trừ nạn
tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
Năm 1954, Hiệp định Giơ - ne - vơ được ký kết, nhân dân miền Bắc
được giải phóng và bước vào giai đoạn khôi phục kinh tế, chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để tiến dần vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh thống nhất nước nhà. Đất nước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, đi
sâu vào lĩnh vực xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, xây dựng cuộc

sống mới. Sống và hoạt động một thời gian dài trong thời kỳ kháng chiến, số
đông cán bộ đảng viên đã được trưởng thành. Song không ít người đã sớm
quên đi những ngày sống cực khổ, khó khăn, chia ngọt sẻ bùi bên nhau trong
thời kỳ kháng chiến. Họ nhiễm nặng “bệnh cá nhân”, chủ nghĩa cá nhân, bắt
đầu suy tính nhiều hơn và trước hết cho lợi ích cá nhân, gia đình và lợi ích
17


phe nhóm. Ở họ, chủ nghĩa cá nhân nảy sinh và chiếm vị trí chi phối trong suy
nghĩ cũng như việc làm hằng ngày, mà trước kia Bác thường gọi là “bệnh cá
nhân”.
Cùng với việc phê phán chủ nghĩa cá nhân, Bác luôn đề cao đạo đức
cách mạng và chỉ rõ người cách mạng phải kiên quyết loại trừ chủ nghĩa cá
nhân ra khỏi đầu óc mình. Bác phân tích rõ nguồn gốc và những tác hại của
chủ nghĩa cá nhân: “Vết tích xấu xa nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là
chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng, là
một thứ rất gian xảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”, nó
“là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt
nó”. Đúng như vậy, người có đầu óc cá nhân chủ nghĩa thường ít hoặc không
nghĩ đến lợi ích chung của cách mạng, của nhân dân và cộng đồng chung
quanh họ, mà thường lo cho lợi ích riêng của cá nhân cũng như của phe nhóm
mình, đặt nó lên trên lợi ích chung của đất nước, của tập thể. Họ là những
người tham danh, hám lợi, thích địa vị, hay so bì, tị nạnh. Có chút thành tích
thì tự cao, tự đại, kiêu ngạo, công thần, gây lủng củng chia rẽ nội bộ. Chủ
nghĩa cá nhân đẻ ra chủ nghĩa tự do, quan liêu mệnh lệnh, tham ô lãng phí,
lười biếng; đẻ ra biết bao thói hư tật xấu và hằng trăm hàng ngàn căn bệnh
nguy hiểm. Kẻ mang nặng chủ nghĩa cá nhân thì việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi
ích cá nhân, của phe nhóm trước hết. Họ ngại gian khổ, khó khăn, chỉ nghĩ
đến hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, biến chất. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị
quyền hành, tự cao tự đại coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc

đoán chuyên quyền, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, không có tinh thần học
hỏi cố gắng vươn lên. Họ thường tạo thành phe nhóm, gây mất đoàn kết, thiếu
tính tổ chức kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường
lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây tổn hại lợi ích cách
mạng…
Hồ Chí Minh chỉ rõ, cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa
cá nhân. Muốn thành người cách mạng, thành người cộng sản chân chính thì
18


phải chống chủ nghĩa cá nhân. Do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm
và đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết,
tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng,
thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Phải cố gắng học
tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt nhiệm vụ.
Những căn bệnh về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
cán bộ, đảng viên được Hồ Chí Minh cảnh báo và những chỉ dẫn của Người
trong công tác xây dựng, rèn luyên, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng
viên có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng hiện nay. Bác
luôn có lòng nhân từ độ lượng đối với mọi người, nhưng cũng rất nghiêm
khắc với những lầm lỗi, vi phạm khuyết điểm, làm tổn hại đến thanh danh của
Đảng.
Phát huy những kết quả bước đầu sau hơn một năm triển khai thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”, mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm khắc với bản thân mình và
thường xuyên nhắc nhở nhau khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, đấu
tranh kiên quyết với những vi phạm, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những
người cố tình đi ngược lại kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước và kỷ cương xã
hội. Những lời căn dặn của Người hãy còn nguyên giá trị thực tiễn trong cuộc

đấu tranh ngăn chặn, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.
1.2.2. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về suy thoái tư tưởng
chính trị
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã vận dụng
sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào việc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị trong
cán bộ, đảng viên. Kể từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) đến nay,
thuật ngữ suy thoái tư tưởng chính trị được Đảng ta đề cập nhiều trong các
19


văn kiện. Trong đó, biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị được chỉ ra ở
những khía cạnh như: mơ hồ, mất cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù
địch; phai nhạt lý tưởng; lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp
nhận thông tin mới; tha hóa đạo đức, lối sống; hoài nghi về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, về sự lãnh đạo của Đảng.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII chỉ rõ: “Năng lực và
phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Điều
đáng lo ngại là không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha
hóa về phẩm chất, đạo đức; sức chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở
đảng suy yếu” [22, tr.67).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã chỉ ra những yếu kém trong việc xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó nổi lên trước hết là
ở nhận thức tư tưởng, đạo đức và lối sống. Về tư tưởng, Nghị quyết nhấn
mạnh:
Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người
dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của
chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Không ít người còn mơ hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước những
luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta…Nghiêm trọng hơn là sự suy
thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong
đó có cả cán bộ có chức, có quyền. [10, tr.46-47]
Trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), thuật ngữ suy thoái tư
tưởng chính trị được Đảng ta chính thức sử dụng lần đầu tiên.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng nhấn mạnh “Tình trạng
tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”[23, tr.76].

20


Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã chỉ
rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ quản lý cao cấp, suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai
nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo
danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc…”[4, tr.22].
Như vậy, suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta cảnh báo từ lâu, coi đó
là kẻ thù nguy hiểm đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, xây dựng Đảng, trước hết là về mặt chính trị tư tưởng phải được xem
là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, việc làm thường xuyên, kiên trì, bền bỉ,
không chủ quan, nóng vội, không lơ là, buông lỏng, nhằm không ngừng nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng.

Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay là cuộc đấu tranh hết sức
khó khăn phức tạp. Vì vậy cần thống nhất một số nguyên tắc cơ bản sau:
Phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trước hết là ban
thường vụ cấp ủy, bí thư cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở, người đứng đầu các cơ
quan, đơn vị. Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị và của các tầng lớp
nhân dân.
Đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị phải gắn liền
với đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội trên các địa bàn; không ngừng nâng
cao đời sống cho nhân dân, cán bộ, đảng viên; quan tâm thực hiện tốt các
chính sách an sinh xã hội.
Gắn chặt đấu tranh ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị với công tác
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; tăng cường sự đoàn kết thống nhất
trong toàn Đảng bộ, từng tổ chức Đảng và đoàn kết toàn dân.
21


×