Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tái cơ cấu ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 86 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


ĐINH CƠNG NHẬN

TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2013

Luan van


BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


ĐINH CƠNG NHẬN

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC NGÂN
VIỆN CHÍNH
TRỊ
CẤU
HÀNG


TÁI CƠ


ĐẦU TƢ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Chuyên ngành:
KINH
TẾ CHÍNH TR
Lấ TH
TUYT
Mó s: 60 31 01 02

TáC động của đô thị hóa
Ngi kinh
hng dn
khoanông
hc: PGS,
TS NGUYN
XUN
đến
tế
thôn
hà TRNG
nội hiện
nay

Chuyờn ngnh: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 60 31 01 02
HÀ NỘI - 2013

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS ĐỖ VĂN NHIỆM


Luan van


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Chữ Viết đầy đủ

Chữ Viết Tắt

Ngân Hàng Thương mại cổ phần Á Châu

ACB

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - VBARD

Agribank

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (nay là Ngân hàng thương

BIDV

mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam)
Ngân Hàng Thương mại cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam - EIB

Eximbank

Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội

MB

Ngân hàng nhà nước


NHNN

Ngân hàng thương mại

NHTM

Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gịn Thương tín - STB

SacomBank

Thương mại cổ phần

TMCP

Công ty cho thuê máy bay

VALC

Ngân hàng phát triển Việt Nam

VDB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - VCB

Vietcombank

Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - CTG

Vietinbank


Luan van


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1

3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁI
CƠ CẤU NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT
8

NAM
1.1.

1.2.
Chƣơng 2

Một số vấn đề lý luận về tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam

8

Thực trạng tái cơ cấu BIDV thời gian qua

29

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TÁI CƠ CẤU

NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

48

2.1.

Quan điểm chỉ đạo thúc đẩy tái cơ cấu BIDV

48

2.2.

Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tái cơ cấu BIDV

51

KẾT LUẬN

88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

PHỤ LỤC

93

Luan van



MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Những thập kỷ qua, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập, hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam đã có nhiều thay đổi quan trọng, trong đó có sự đóng góp khơng nhỏ
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Tuy nhiên từ năm 2008 đến nay,
trong bối cảnh thị trường thế giới khó khăn, tình hình kinh tế vĩ mơ của Việt Nam cũng có
những diễn biến phức tạp. Kinh tế khó khăn, tổng cầu giảm mạnh, doanh nghiệp khơng
tiêu thụ được hàng hóa, do đó nhu cầu vay và khả năng trả nợ vay ngân hàng của các
doanh nghiệp và hộ sản xuất giảm sút. Vốn tín dụng cung ứng cho nền kinh tế khơng tăng.
Trong khó khăn của nền kinh tế, những tồn tại, hạn chế nội tại của hệ thống ngân hàng Việt
Nam được tích tụ trong nhiều năm qua chưa được giải quyết triệt để đã bộc lộ ngày càng
nhiều.
Trước những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, trước yêu cầu
của giai đoạn phát triển mới, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (Khóa
XI) đã ra Kết luận số 10-KL/TW ngày 18/10/2011 nêu rõ: “Trong 5 năm tới, cần tập trung
vào ba lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư cơng; cơ cấu lại
thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính; tái cơ cấu DNNN mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà
nước”. Hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung, BIDV nói riêng ngày càng hội nhập sâu
rộng và chịu tác động đa chiều từ những biến động của thị trường tài chính tồn cầu, đặc
biệt sau thời điểm 01/01/2011, khi Việt Nam chính thức mở cửa toàn diện hoạt động ngân
hàng theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự tham gia của các
ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam làm gia tăng cạnh tranh cũng như áp lực
đối với các ngân hàng trong nước, trong đó có BIDV. Điều đó đặt ra cho BIDV phải đổi
mới hoạt động theo hướng hiện đại và chuẩn mực hơn. Với định hướng trở thành 1 trong 2
ngân hàng ngang tầm khu vực đến 2015, BIDV cần phải tập trung tái cấu trúc để nâng cao
năng lực cạnh tranh, tính minh bạch. Thời gian qua, BIDV đã tích cực cơ cấu lại và bước
đầu đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, cũng
còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục trong quá trình cơ cấu lại của BIDV. Làm thế nào để

cơ cấu lại BIDV có hiệu quả là một câu hỏi lớn cần phải được trả lời có cơ sở khoa học.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài:

Luan van


Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là BIDV giai đoạn hiện nay là một
nhiệm vụ trọng tâm xun suốt và có tính quyết định đến sự phát triển bền vững của
toàn hệ thống ngân hàng và cho bản thân BIDV, nên đã đƣợc nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu và cho đăng tải các cơng trình trên các báo, tạp chí, các trang Websete.
Tiêu biểu là:
Hà My với bài “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc - giải bài toán chất lƣợng
hiệu quả”, đăng trên Báo Sài Gịn giải phóng ngày 25 tháng 10 năm 2011; Tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nƣớc để xứng đáng với kỳ vọng “quả đấm thép”, đăng trên Báo Đại
đoàn kết, ngày 14/10/2011, của Thúy Hằng; “Tái cơ cấu mạnh mẽ doanh nghiệp Nhà
nƣớc” của Đỗ Phú Thọ, đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày 9/9/2012; “Tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nƣớc: Khơng thể trì hỗn”, của Linh Đan, đăng trên Báo điện tử
Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam, ngày 24/7/2012... “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nƣớc: Chấm dứt đầu tƣ ngồi ngành”, của Việt Nguyễn đăng trên Báo Gia đình ngày
23/7/2012.
Các bài viết trên đây đều khẳng định tái cơ cấu nền kinh tế nƣớc ta, mà trọng
tâm là tái cơ cấu đầu tƣ công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc, tái cơ cấu hệ thống
tài chính (trọng tâm là tái cơ cấu ngân hàng thƣơng mại) là một vấn đề tất yếu, mang
tính cấp bách. Đặc biệt các bài viết đã tập trung phân tích tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nƣớc và đều khẳng định: hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nƣớc không tƣng xứng với đầu tƣ của nhà nƣớc; để doanh nghiệp nhà nƣớc làm tốt
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thì tất yếu phải tái cơ. Một số tác giả đã đề
xuất nguyên tắc, giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc.

Kinh nghiệm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thƣơng mại một số nƣớc Đông nam
Á, Tài liệu hội thảo tái cơ cấu các NHTM Nhà nƣớc, NHNN Việt Nam Hà nội 2005 của
Bùi Thị Thuỷ, Phan Thị Diệu Hƣơng; Phạm Chí Quang (2000), Cạnh tranh trong hoạt
động ngân hàng giai đoạn hiện nay, Tạp chí Ngân hàng`, số 6. Hai bài viết này của các
tác giả mặc dù chƣa đề cập đến khái niệm, nội hàm của tái cơ cấu ngân hàng, song đã
phân tích khá sâu sắc bối cảnh cạnh tranh hiện nay của các ngân hàng thƣơng mại trên
thế giới và đặc biệt là ở Đơng Nam Á; từ đó chỉ ra những kinh nghiệm quý mà các ngân
hàng thƣơng mại Việt Nam có thể nghiên cứu học tập trong q trình tái cơ cấu.

Luan van


Lê Xuân Nghĩa, Một số vấn đề về chiến lƣợc phát triển ngành ngân hàng Việt
Nam đến năm 2010 và định hƣớng đến năm 2020, Tài liệu hội thảo khoa học về Vai
trò của hệ thống ngân hàng trong 20 năm đổi mới ở Việt Nam, tháng 1/2006 – Hà nội.
Cơng trình đã đề cập đến vai trị của ngân hàng thƣơng mại; trên cơ sở đó đề xuất
giải pháp chiến lƣợc phát triển ngân hàng thƣơng mại đến năm 2010 và định hƣớng
đến năm 2020.
PGS.TS Nguyễn Thị Mùi - Trƣờng Đào tạo & PTNNL VietinBank đã có bài viết
“Hệ thống Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam và những vấn đề đặt ra”, đăng trên trang
tin nội bộ VietinBank. Bài viết đã hệ thống hóa ngân hàng thƣơng mại Việt Nam, phân
tích những ƣu điểm, hạn chế, bất cập hiện nay của hệ thống ngân hàng thƣơng mại, từ
đó khẳng định tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thƣơng mại nƣớc ta là một tất yếu, mang
tính cấp bách. Tuy nhiên, bài viết chƣa đề cập sâu đến hệ thống giải pháp để tái cơ cấu
ngân hàng thƣơng mại.
Tổng quan về tái cơ cấu hệ thống tài chính tiền tệ của Tiến sỹ Nguyễn Thị
Kim Thanh - Viện trƣởng Viện Chiến lƣợc phát triển Ngân hàng đăng trên
; Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam của Tiến sỹ Vũ Đình
Ánh, đăng trên Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng Việt Nam
của của Tiến sỹ Vũ Văn Thực, đăng trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập; Lê Xuân

Nghĩa, Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc theo đề án, Tạp
chí Tài chính số tháng 8/2004.
Các bài viết của các tác giả trên đã phân tích sự cần thiết phải tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam và đề xuất các giải pháp để tái cơ cấu. Tuy nhiên,
trong mỗi bài viết các tác giả chƣa đề cập một cách hệ thống các vấn đề lý luận, thực tiễn
của tái cơ cấu ngân hàng thƣơng mại Việt Nam mà mới bàn đến các khía cạnh khác
nhau của tái cơ cấu ngân hàng thƣơng mại.
Vũ Duy Tín, Một số vấn đề về xây dựng mơ hình quản trị rủi ro hiệu quả tại
các NHTM Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 18/2006. Trong bài viết này tác giả đã
phân tích khá sâu sắc biện pháp kỹ thuật trong xây dựng mô hình quản trị rủi ro tại
các ngân hàng thƣơng mại.

Luan van


Lê Xuân Nghĩa (2004), Những vƣớng mắc và một số giải pháp thực hiện thành cơng
cổ phần hố NHTM Nhà nƣớc, Tạp chí Ngân hàng số chuyên đề Cổ phần hố. Tác giả đã
phân tích những bất cập vƣớng mắc trong tái cơ cấu ngân hàng thƣơng mại; từ đó đề xuất
hệ thống các giải pháp khá đồng bộ để tái cơ cấu ngân hàng thƣơng mại trong thời gian tới.
Định hƣớng chiến lƣợc của BIDV trong giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến
2020 trên trang BIDV Internet 27/12/201. Bài viết đã đề cập đến thực trạng BIDV, mục
tiêu và giải pháp định hƣớng chiến lƣợc phát triển BIDV đến năm 2020.
Tuy nhiên, hiện nay chƣa có cơng trình nào bàn đến tái cơ cấu BIDV một cách
hệ thống hoàn chỉnh với cơ sở lý luận, thực tiễn, và hệ thống giải pháp khả thi để thúc
đẩy tái cơ cấu BIDV. Vì vậy đề tài lựa chọn khơng trùng lặp với các cơng trình đã
đƣợc cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích: Luận giải những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn của tái cơ cấu BIDV; trên cơ sở đó đề
xuất quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện tái cơ cấu BIDV trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:

- Phân tích cơ sở lý luận của tái cơ cấu BIDV
- Phân tích thực trạng của tái cơ cấu BIDV thời gian qua.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy tái cơ cấu
BIDV trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tái cơ cấu ngân hàng
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (Từ tháng 5/2012 là Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam), thời gian nghiên cứu từ năm 2001 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm chủ trương của
Đảng và Nhà nước về doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu
lại hệ thống tài chính ngân hàng.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa kinh tế chính trị là
phương pháp trừu tượng hóa hoa học; cùng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học của việc tái cơ cấu BIDV hiện nay.

Luan van


- Luận văn góp phần giúp các nhà quản lý BIDV tham khảo các giải pháp để thúc
đẩy thực hiện tái cơ cấu BIDV có hiệu quả.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo giảng dạy, học tập mơn kinh tế chính trị
trong các học viện, trường đại học ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; phụ lục và
danh mục tài liệu tham khảo.

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG
ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
1.1.1. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam
* Ngân hàng
Hệ thống ngân hàng trên thế giới đã ra đời từ những năm đầu thế kỷ XV và có sự
phát triển lâu dài, từ ngân hàng sơ khai đến ngân hàng hiện đại như ngày nay. Cùng với sự
phát triển đó có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về Ngân hàng.
Nghiên cứu tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra: Tư bản cho vay
dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản tiền tệ trong tuần hồn của tư bản cơng
nghiệp tách ra và vận động độc lập. Lợi tức cho vay là cái giá mà nhà tư bản hoạt động (tư bản
công nghiệp, tư bản thương nghiệp) phải trả cho người sở hữu tư bản cho vay về quyền được
tạm thời sử dụng khoản tư bản tiền tệ của người đó. Nguồn gốc duy nhất của lợi tức là một
phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra trong lĩnh vực sản xt. Trong chủ nghĩa tư bản, tính
dụng chính là hình thức vận động của tư bản cho vay. Có hai hình thức tín dụng là tính dụng
thương nghiệp và tính dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa những
người có tiền và cho những người sản xuất kinh doanh vay tiền qua ngân hàng làm mơi giới.
Ngân hàng là xí nghiệp kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người cho vay và người đi vay.
Theo WordBank: “Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng
không kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi khơng kỳ
hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm). Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động tín dụng, người ta
chia ngân hàng ra thành: Ngân hàng thương mại chỉ tham gia vào các hoạt động nhận tiền
gửi, cho vay ngắn hạn và trung dài hạn; Các ngân hàng đầu tư hoạt động bn bán chứng
khốn và bảo lãnh phát hành; Các Ngân hàng nhà ở cung cấp tài chính cho lĩnh vực phát
triển nhà ở và nhiều loại khác nữa. Tại một số nước cịn có các ngân hàng tổng hợp kết hợp

Luan van



hoạt động ngân hàng thương mại với hoạt động ngân hàng đầu tư và đôi khi thực hiện cả
dịch vụ bảo hiểm”. [12 - tr24]
Theo Peter S.Rose: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục
các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh tốn.
Và cũng thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế”. [27 - tr 30]
Theo luật pháp nước Mỹ: “bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép
khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và
cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một Ngân
hàng”. [27 - tr31]
- Theo luật 6 - 41 của Pháp “những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xun, nhận
của cơng chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng vào các
nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay tài chính thì được coi là Ngân hàng”. [28 - tr 38]
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế, dưới sự tác động của môi trường cạnh
tranh và hợp tác đã tạo nên sự xâm nhập lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại với các
định chế tài chính phi ngân hàng, với các cơng ty hình thành nên những tập đồn kinh tế
lớn. Từ đó làm cho việc rút ra một định nghĩa chính xác về ngân hàng thương mại không
phải là điều dễ dàng.
- Theo quy định tại Điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được Quốc hội khố X thơng qua, thì:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện tồn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các
loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng chính sách và các loại hình ngân hàng khác”. [9 – tr12]
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng
các dịch vụ thanh tốn”. [9 – tr12,13]
Từ những cách định nghĩa khác nhau trên về ngân hàng, có thể rút ra:
- Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính làm cầu nối giữa những người tiết

kiệm và đầu tư.
- Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt - đó là
tiền tệ, tín dụng và thanh tốn. Vì vậy có thể nói các ngân hàng thương mại là những doanh

Luan van


nghiệp đặc biệt. Thể hiện ở số vốn điều lệ, dịch vụ thực hiện và những ràng buộc về hạn
mức kinh doanh.
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp cung cấp các danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế.
* Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (nay là Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Đầu tư và Phát triển Việt Nam)
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập ngày 23/4/2012,
theo Giấy ph p số 84/GP-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cùng ngày, Thống
đốc NHNN có văn bản số 2454/NHNN - TTGSNH xác nhận BIDV đã đăng k bản Điều lệ
tổ chức và hoạt động của BIDV (đính k m văn bản số 252/TTr-HĐQT ngày 15/3/2012 của
BIDV) với NHNN.
Theo đó Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập trên cơ
sở cổ phần hóa và chuyển đổi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 100

vốn Nhà

nước chính thức từ tháng 5/2012. (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được chính
thức thành lập ngày 26 tháng 4 năm 1957 theo quyết định 177/TTg của Thủ tướng Chính
phủ. Theo thời gian, Ngân hàng có các tên gọi khác nhau: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam
từ ngày 26 tháng 4 năm 1957; Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam từ ngày 24 tháng 6
năm 1981; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 14 tháng 11 năm 1990; Ngân hàng

Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 01 tháng 5 năm 2012).
Tên đầy đủ của ngân hàng này bằng Tiếng Việt là Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam; tên đầy đủ bằng tiếng

nh là: Joint Stock

Commercial Bank for Investment and Development of Vietnam; tên giao dịch là: BIDV.
BIDV được thành lập dưới hình thức cơng ty cổ phần, có tư cách pháp nhân, có con
dấu riêng theo quy định của Pháp luật Việt Nam. BIDV có vốn điều lệ là 28.251.382 triệu
đồng và có thời hạn hoạt động là 99 năm kể từ ngày cấp giấy ph p thành lập và hoạt động.
BIDV thuộc loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mơ hình
Tổng cơng ty Nhà nước (Tập đồn). BIDV là NHTM hoạt động đầy đủ các chức năng của
một ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa năng, bao gồm: nhận tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, trái phiếu, tín phiếu; cấp tín dụng; mở tài khoản thanh tốn cho khách hàng; cung

Luan van


ứng các phương tiện thanh toán; cung ứng các dịch vụ thanh tốn; vay vốn của NHNN
dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam; vay vốn
của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước và ngồi nước theo quy định của pháp
luật; mở tài khoản tiền gửi tại NHNN, tài khoản thanh tốn tại tổ chức tín dụng khác và mở
tài khoản tiền gửi, tài khoản thanh toán ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về ngoại
hối; tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán; góp vốn, mua cổ phần; tham gia đấu thầu
tín phiếu kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho
bạc, tín phiếu NHNN và các giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tệ; kinh doanh, cung
ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh; ủy thác, nhận ủy thác, đại l trong lĩnh vực
liên quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản l tài sản theo quy định của
NHNN; các hoạt động kinh doanh khác của NHTM. Các nội dung hoạt động này của

BIDV được quy định cụ thể, chi tiết trong giấy ph p thành lập và hoạt động.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của BIDV : “Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
có trụ sở chính tại Tháp BIDV, số 35 Hàng Vơi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ngân hàng đã phát
triển mạng lưới truyền thống và hiện đại rộng khắp, phủ kín 63 tỉnh thành phố trên cả nước, tổng
số mạng lưới của BIDV đến 31/12/2012 với 118 chi nhánh và trên 528 điểm mạng lưới, 1.295

Cây rút tiền tự động/Máy chấp nhận thanh toán thẻ, với 18.000 cán bộ nhân viên, là một
trong 3 ngân hàng thương mại Nhà nước có mạng lưới rộng nhất Việt Nam. Ngồi ra BIDV cịn
có 5 cơng ty con: Cơng ty cho th tài chính Trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên 100% vốn BIDV
(BLC) ; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Quản lý Nợ và khai thác tài sản BIDV (BAMC) 100%
vốn BIDV; Công ty cổ phần chứng khoán BIDV (BSC) vốn 88,12% của BIDV; Tổng công ty cổ
phần Bảo hiểm BIDV (BIC) vốn 82,30% của BIDV; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Quốc tế
BIDV vốn 100% BIDV). BIDV tham gia góp vốn liên doanh: Ngân hàng liên doanh Việt – Nga
(BRB, vốn 51%); Ngân hàng Lào – Việt (LVB, vốn 50%); Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Capuchia (BIDC, vốn 50%); Ngân hàng liên doanh Việt nam – Malaysia (VID – Public Bank,
vốn 50%); Công ty liên doanh quản l đầu tư (BVIM, vốn 50%); Công ty liên doanh tháp BIDV
(BTC, vốn 55%) Tiến tới Ngân hàng Việt Nam – Myanma); tham gia góp vốn Công ty cổ phần
đường cao tôc (BEDC, vốn 25%); Công ty cho thuê Máy bay (VALC, vốn 20%)”. [1]

* Khái niệm, nội dung tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam (nay là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam)

Luan van


Cơ cấu ngân hàng, là mối tương quan tỷ lệ giữa các yếu tố cấu thành theo các tiêu
chí khác nhau của một ngân hàng. Mỗi ngân hàng có những đặc thù riêng sẽ có những cơ
cấu riêng phù hợp với ngân hàng mình. Tuy nhiên, khơng phải mọi mối tương quan tỷ lệ
đều nói lên cơ cấu (dù cơ cấu là tỷ lệ). Chỉ có những tỷ lệ quan trọng, quyết định đến sự an

toàn và sinh lợi của ngân hàng mới tạo nên cơ cấu. Nhìn chung, cơ cấu của ngân hàng
thương mại bao gồm: cơ cấu tài chính; cơ cấu hoạt động; cơ cấu tổ chức; cơ cấu nhân lực.
Khi nghiên cứu cơ cấu của các ngân hàng thương mại, chúng ta thường chú trọng
đến thực tế cơ cấu hiện tại của các ngân hàng có phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế hay
không. Cơ cấu chỉ một trạng thái thông qua các tỷ lệ, do đó nó có thể ổn định trong một
khoảng thời gian nhất định, cũng có thể có sự thay đổi nếu các ngân hàng cần thay đổi cho
phù hợp với tình hình cụ thể. Q trình thay đổi đó cũng chính là q trình tái cơ cấu.
Theo tác giả thì: Tái cơ cấu ngân hàng là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, một số
phần hay toàn bộ cơ cấu tài chính, cơ cấu hoạt động, cơ cấu tổ chức và quản lý, cơ cấu nguồn
nhân lực để đạt được hiệu quả trong kinh doanh, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh bền vững, nâng
cao vị thế trên trường quốc tế. Trong đó những tỷ lệ quan trọng về vốn, tài sản, năng lực quản
lý nhằm giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn, nâng cao sức cạnh tranh và sinh lợi cho ngân hàng
đóng vai trị đặc biệt quan trọng.
BIDV là một ngân hàng TMCP Nhà nước, được thành lập và hoạt động theo hiến
pháp, pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, BIDV cũng phải hoạt động trong môi trường
cạnh tranh quyết liệt. Để đứng vững trong môi trường cạnh tranh, doanh nghiệp phải
không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh. Tái cơ cấu doanh nghiệp
là công việc diễn ra thường xuyên, đặc biệt vào những thời điểm có sự thay đổi lớn của
môi trường kinh doanh như khủng hoảng kinh tế, tài chính, tình trạng cạnh tranh gia tăng,
chính sách thay đổi hoặc có sự xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh mới cần được triệt để
khai thác... Đây là một q trình tạo ra sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong quá trình
phát triển của doanh nghiệp.
Tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả cho rằng: Tái cơ cấu Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam là việc tổ chức sắp xếp lại Ngân hàng TMCP Đầu tư
và Phát triển Việt Nam cho phù hợp với điều kiện tình hình mới, bảo đảm nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt vai trò chủ đạo của BIDV trên thị trường; các nội
dung phải tái cơ cấu là cơ cấu lại tài chính, cơ cấu lại hoạt động, cơ cấu lại tổ chức, cơ cấu

Luan van



lại nhân lực.
Chủ thể tiến hành tái cơ cấu BIDV: là Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc
các đơn vị thành viên của BIDV. Trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng, Pháp luật Nhà
nước, hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước và thực tế của BIDV, Hội đồng quản trị, Tổng
giám đốc, giám đốc các đơn vị thành viên tiến hành tái cơ cấu đơn vị mình trong phạm vi
chức trách được phân cơng. Tái cơ cấu là việc làm trọng đại, liên quan đến mọi lực lượng
trong BIDV nói chung, các đơn vị thành viên nói riêng, do đó muốn tái cơ cấu có hiệu quả
phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp ủy đảng các cấp, sự đồng tình ủng hộ của toàn
thể cán bộ, nhân viên trong BIDV.
Đối tượng của tái cơ cấu BIDV: là tất cả các đơn vị thành viên của BIDV.
Mục tiêu của tái cơ cấu BIDV: là củng cố nâng cao năng lực hoạt động đảm bảo
hiệu quả, an toàn và bền vững, tạo lập nền tảng vững chắc cho BIDV hoạt động nhằm nâng
cao vai trị dẫn dắt, vị trí chủ đạo của BIDV trên thị trường, có năng lực quản trị tiên tiến,
có phạm vi hoạt động và quy mô hàng đầu Việt Nam, kinh doanh an toàn, hiệu quả. Phấn
đấu đến 2015 trở thành một trong hai ngân hàng đạt quy mô và trình độ tương đương với
các ngân hàng khác trong khu vực về quản trị, công nghệ và khả năng cạnh tranh, có
thương hiệu uy tín, phát huy vai trị là đối tác kinh tế lớn và tin cậy trong các mối quan hệ
kinh tế quốc tế quan trọng trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Cụ thể (theo Đề án
Chiến lược kinh doanh giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến 2020):
- Tăng trưởng bình qn qui mơ tổng tài sản ở mức tối thiểu 20 . Giai đoạn 2013-2015
tổng tài sản tăng bình quân 20 , huy động vốn tăng bình qn 25 .
- Năng lực tài chính, năng lực vốn: đảm bảo đạt tăng trưởng lợi nhuận bình quân ở
mức 34

giai đoạn 2013-2015 và hệ số an toàn vốn (C R) đạt trên 10% theo Chuẩn mực Kế

toán Việt Nam (VAS) và trên 8% theo chuẩn mực báo cáo tài chính Quốc tế (IFRS).
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả: Tỷ lệ nợ xấu kiểm soát ≤ 2,4


hết 2013 và ≤ 2

đến 2015; Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (ROA), Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ

sở hữu (ROE) đạt tối thiểu theo thông lệ và trung bình ngành, đảm bảo cạnh tranh trên thị
trường.
- Tăng cường năng suất lao động và đảm bảo nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên.
Đáp ứng đầy đủ lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư, đảm bảo cổ tức cho cổ đông ở mức cạnh
tranh so với thị trường, tối thiểu bằng mức lãi suất tiết kiệm 12 tháng. Trở thành 1 trong những

Luan van


ngân hàng được xếp hạng tín nhiệm tốt nhất tại Việt Nam bởi các tổ chức định hạng tín nhiệm
quốc tế; đảm bảo năng lực nhà phát hành nội tệ và ngoại tệ đạt trần quốc gia.

Nội dung tái cơ cấu BIDV: được tập trung vào 4 lĩnh vực chủ yếu sau:
Một là, cơ cấu lại tài chính của BIDV
Nội dung trọng tâm của cơ cấu lại tài chính của BIDV là xử lý nợ xấu và tăng vốn.
Việc xử lý nợ xấu lành mạnh hố tài chính của BIDV trong chương trình cơ cấu lại
BIDV là vơ cùng quan trọng. Bởi vì: nợ xấu lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ của hệ thống BIDV;
nợ xấu tạo ra gánh nặng chi phí cho BIDV, suy giảm khả năng huy động vốn và cho vay đối
với nền kinh tế, làm giảm lịng tin của dân chúng và uy tín quốc tế đối với hệ thống của BIDV;
nợ xấu làm cản trở quá trình hội nhập, làm giảm khả năng cạnh tranh của BIDV.
Song song với việc giải quyết nợ tồn đọng lành mạnh hóa tài chính của BIDV
là việc tăng cường khả năng về vốn tự có để phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Năng
lực tài chính của BIDV thể hiện trước hết ở quy mơ vốn tự có của BIDV. Quy mơ vốn
tự có như là tấm đệm để đảm bảo cho mỗi ngân hàng có khả năng chống đỡ trước
những rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng như những rủi ro của môi trường kinh
doanh. Vốn tự có của ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng chống đỡ cao hơn

với những “cú sốc” của môi trường kinh doanh. Điều này ngày càng trở nên quan trọng trong
điều kiện môi trường kinh doanh có nhiều biến động khơn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng trong điều kiện hội nhập như hiện nay luôn tiềm ẩn
những rủi ro bất ngờ. Vốn tự có cịn ảnh hưởng đến mức đầu tư và công nghệ ngân hàng vì
ngân hàng chỉ có thể sử dụng vốn tự có để đầu tư vào công nghệ. Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế
(IMF) thì một NHTM Nhà nước phải có số vốn điều lệ lớn hơn 300 triệu Đồng đô la Mỹ
(USD) thì mới được coi là ngân hàng loại trung bình.
Do đó khi tiến hành cơ cấu lại tài chính BIDV địi hỏi phải có những biện pháp
nhằm tăng vốn để có thể tăng khả năng tài chính cho ngân hàng. Giúp BIDV có thể tự
tin và chủ động trong những biện pháp cũng như hoạt động của ngân hàng mình.
Mặt khác cần phải thực hiện các hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực theo tiêu
chuẩn Hiệp ước về vốn (BaselI) và Quy định chủ yếu về 3 nguyên tắc cơ bản về quản

lý rủi ro (Basel II). Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%.

Luan van


Hai là, cơ cấu lại hoạt động của BIDV
Cơ cấu lại hoạt động ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng và
đáp ứng các chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Đồng thời tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát
các hoạt động ngân hàng với mục tiêu tăng cường chất lượng tín dụng, dịch vụ ngân hàng
nhưng vẫn đảm bảo quyền tự chủ của ngân hàng trong việc ra quyết định kinh doanh.
Cơ cấu lại hoạt động của BIDV bao gồm các nội dung chính:

- Cơ cấu lại quản lý tín dụng, nhằm mục đích
hướng tới khách hàng đáp ứng các nhu cầu của khách
hàng với chất lượng cao. Đồng thời đảm bảo quản lý
tín dụng một cách an toàn dựa trên các quy định và
nguyên tắc về hoạt động tín dụng theo chuẩn mực ngân

hàng quốc tế.
- Cơ cấu lại công tác quản lý vốn, nhằm phục vụ tốt mục tiêu chiến lược kinh doanh, đồng
thời giảm chi phí huy động vốn, giảm thiểu rủi ro, tăng năng lực tài chính. Thơng thường để đạt
được hiệu quả trong công tác quản lý vốn BIDV phải thành lập ban quản lý tài sản nợ - tài sản có
trực thuộc ban điều hành của ngân hàng.

- Quản lý rủi ro, là một trong những vấn đề quan
trọng trong quản trị của BIDV. Xây dựng các thiết chế
quản lý rủi ro nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động
của ngân hàng: rủi ro tín dụng; rủi ro thanh khoản;
rủi ro lãi suất; rủi ro hoạt động; rủi ro tỷ giá. Về
mặt lý thuyết, quản lý rủi ro là một quá trình quan
trọng được dựa trên cơ sở kết hợp lý thuyết xác suất
và lý thuyết rủi ro. Nó phụ thuộc vào chính sách của
Ngân hàng Nhà nước, chính sách của BIDV. Hoạt động
quản lý rủi ro ngân hàng có thể được xem như một chu
kỳ bao gồm 4 giai đoạn: xác định rủi ro; định lượng
rủi ro; quản lý rủi ro; kiểm soát rủi ro

Luan van


- Hồn thiện hệ thống kế tốn, kiểm tốn, tiến hành áp dụng hệ thống kế toán quốc tế
hoặc phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đánh giá đúng thực trạng tài chính của BIDV, đồng thời
xây dựng các thiết chế an toàn cho hoạt động của BIDV phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Ba là, cơ cấu lại tổ chức và quản lý của BIDV
Cơ cấu tổ chức và quản lý của BIDV hiện còn nhiều bất cập, hoạt động chưa thực sự có
hiệu quả. Bởi vậy khi cơ cấu lại BIDV, nội dung được đề cập đến như một tất yếu đó là cơ cấu
lại mơ hình tổ chức và quản lý ngân hàng.
Các nội dung cơ bản khi tiến hành cơ cấu lại tổ chức và quản lý BIDV là:

- Tổ chức bộ máy và cơ cấu điều hành: Nguyên tắc cơ bản là sự phân tách giữa chức
năng điều hành và chức năng giám sát để đảm bảo sự kiểm tra toàn diện và cân bằng về
nguồn lực.
- Cơng cụ và chính sách quản lý:
+ Cần phải có những cơng cụ và chính sách quản lý hiện đại và có hiệu quả (đặc
biệt là trong lĩnh vực tín dụng).
+ Hệ thống thơng tin báo cáo phải khoa học, tránh sự chồng chéo nhằm cung cấp
kịp thời cho các nhà lãnh đạo của BIDV những biến động của lãi suất, tỉ giá cũng như
những biến động thị trường.
+ Hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ phải có sự phân biệt rõ ràng. Kiểm sốt nội
bộ là một công cụ của Ban Giám đốc nhằm đảm bảo việc tuân thủ những chính sách và thủ
tục, ngăn chặn các hành động lạm dụng và vi phạm quy chế cũng như tăng cường công tác
quản lý rủi ro và điều hành trong tồn hệ thống.
Kiểm tốn nội bộ là đảm bảo tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính do
bộ phận kế tốn lập để cung cấp cho Ban Giám đốc theo định kỳ hoặc tiến hành những
cuộc kiểm tra cụ thể theo yêu cầu của Ban Giám đốc.
- Bộ phận phân tích thị trường: chiến lược kinh doanh càng cụ thể, rõ ràng thì càng dễ
dàng được nhận thức và cụ thể hoá bằng những chính sách và giải pháp kinh doanh hiệu quả. Vì
vậy cần có một bộ phận phân tích thị trường và lập kế hoạch kinh doanh riêng rẽ.
- Mạng lưới chi nhánh và mơ hình tổ chức: Tổ chức theo mơ hình hiện đại, hướng theo
khối khách hàng và sản phẩm. Mơ hình này cho phép BIDV có thể theo sát với nhu cầu của
khách hàng, nhanh chóng nhận ra động thái của đối thủ cạnh tranh để có thể đưa ra giải pháp đối
phó kịp thời khi gặp rủi ro.

Bốn là, tái cơ cấu nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ

Luan van


- Tái cơ cấu nguồn nhân lực: Để BIDV có đủ năng lực cạnh tranh trong nền

kinh tế, bên cạnh những yếu tố nhƣ năng lực tài chính mạnh, mơ hình tổ chức hiện
đại, thì cơ cấu nhân lực phải đảm bảo hợp lý và hiệu quả. Có thể nói trình độ của
nhân viên ngân hàng đóng vai trị rất quan trọng đối với BIDV. Yếu tố con ngƣời góp
phần đảm bảo sự hoạt động hiệu quả của BIDV trong một thị trƣờng và môi trƣờng
công nghệ liên tục phát triển thay đổi. Trong điều kiện hiện nay buộc nhà quản lý
ngân hàng phải chú ý hơn tới hoạt động Marketing và những phản ứng từ phía cổ
đơng. Những hoạt động mới này địi hỏi ngân hàng phải có một đội ngũ nhân viên
quản lý có thể đầu tƣ thời gian và có năng lực trong việc khảo sát nhu cầu, phát triển
các dịch vụ mới thay đổi các dịch vụ cũ cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Hiện nay do sức ép của hội nhập và toàn cầu hố, hoạt động của BIDV có tính
nhạy cảm cao do kinh doanh tiền tệ, tiêu chí của một ngân hàng là kinh doanh đa
năng, cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ hiện đại, ứng dụng đƣợc các thành tựu của
công nghệ thông tin... Do vậy, trong cơ cấu nhân lực của BIDV là phải tạo dựng đƣợc
đội ngũ cán bộ quản lý tinh thông nghiệp vụ, quản lý giỏi và thực sự năng động.
Trong xu hƣớng hiện đại của nền kinh tế, BIDV cần phải xây dựng cho mình
một chiến lƣợc đào tạo nguồn nhân lực dài hạn. Đây là điểm mấu chốt mà trong cơ
cấu nhân lực BIDV phải quan tâm tới. Việc củng cố và nâng cao chất lƣợng cán bộ
đủ năng lực quản lý trong bối cảnh hội nhập kinh tế và tồn cầu hố, vững về chính
trị, tinh thơng nghiệp vụ ngân hàng và các nhạy bén với các vấn đề kinh tế khác, có
khả năng sử dụng ngoại ngữ, phong cách hiện đại, tác phong công nghiệp, kỷ luật cao
và đặc biệt nắm vững kỹ năng quản lý. Xây dựng đƣợc đội ngũ cán bộ nhƣ vậy trong
cơ cấu của mình sẽ góp phần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động của BIDV
trong xu thế hội nhập và tồn cầu hố nền kinh tế hiện nay.
- Phát triển công nghệ: Từng bước hiện đại hóa cơng nghệ của BIDV nhằm nâng
cao chất lượng và đa dạng hố dịch vụ ngân hàng.
Cơng nghệ ngân hàng đóng vai trị rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt là trong
thời kỳ hội nhập, sự cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng mạnh trên thế giới. Theo quy luật, ngân
hàng yếu sẽ bị thất bại, ngân hàng mạnh sẽ giành thế chủ động trong thị trường. Hiện đại hố cơng
nghệ ngân hàng bao gồm:
Hiện đại về trang thiết bị, máy móc, đây là những yếu tố cốt lõi để “sản xuất” ra các

sản phẩm ngân hàng tiện ích.

Luan van


Hiện nay bên cạnh các nghiệp vụ truyển thống BIDV muốn thu hút khách hàng cần phải
đa dạng hoá các loại hình dịch vụ. Dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn hiện nay chủ yếu là dịch
vụ từ công nghệ. Sản phẩm của BIDV đều liên quan đến công nghệ. Nếu khơng hiện đại hố
cơng nghệ chắc chắn sản phẩm của BIDV sẽ bị lạc hậu. Các sản phẩm công nghệ chủ yếu của
BIDV hiện nay là các loại thẻ thanh tốn. Sự đa năng và tiện ích của các sản phẩm này không
chỉ dừng lại ở một hoặc hai giao dịch mà cịn phải có nhiều chức năng “thơng minh” hơn khi
sử dụng. Để làm được điều đó địi hỏi BIDV cần phải hiện đại hố cơng nghệ của mình.
Hiện đại hố cơng nghệ cịn thể hiện ở các quy trình làm việc trong hệ thống
của BIDV. Giao dịch một cửa; bộ máy làm việc tách rời nhưng cùng hệ thống… tạo
ra sự hiệu quả và làm giảm chi phí nhân lực cho BIDV rất nhiều.
Hệ thống kiểm tra, giám sát, theo dõi khách hàng, hệ thống kế toán… của BIDV địi
hỏi phải có sự chuẩn xác và hợp lý. Giúp cho BIDV trong việc dự báo, phòng ngừa và
khắc phục rủi ro.
Hiện đại hố cơng nghệ là một nội dung tất yếu trong lộ trình cơ cấu lại BIDV. Bởi
không thể tách rời cơ cấu nội dung khác với công nghệ ngân hàng. Muốn nâng cao năng
lực tài chính hay cơ cấu tổ chức, quản lý cho BIDV thì đóng góp của cơng nghệ ngân hàng
là khơng thể thiếu. Đặc biệt là trong giai đoạn là công nghệ bùng nổ hiện nay.
1.1.2. Sự cần thiết phải tái cơ cấu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (
nay Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam)
Trong giai đoạn hiện nay, việc tái cơ cấu BIDV được xuất phát từ những lý do sau:
Một là, tái cơ cấu lại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chính là
việc chấp hành chủ trương của Đảng và Chính phủ về cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín
dụng nhằm tránh rủi ro cho ngân hàng
Hội nghị Trung ương III (khóa XI) của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ tái cơ cấu nền
kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng là nhiệm vụ then chốt đối với kinh tế Việt

Nam. Trong đó, tái cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính là một trong 3 lĩnh vực cần tập trung
thực hiện trong giai đoạn 2011-2015. Thực hiện chủ trương trên, ngày 01/3/2012, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 254 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống
các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Mục tiêu của tái cơ cấu là tập trung lành
mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng;

Luan van


cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các Tổ chức tin dụng; nâng cao trật
tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về tái cơ cấu thị trường tài chính, trong đó
trọng tâm là tái cơ cấu ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính là hồn tồn đúng
đắn. Điều này được xuất phát từ vai trị, vị trí của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính đối với nền kinh tế và từ những nguy cơ gặp rủi ro của tổ chức này hiện nay.
Thực tế cho thấy, tuy đạt được một số kết quả trong hoạt động, song thời gian qua,
các ngân hàng thương mại đã bộc lộ khơng ít dấu hiệu bất ổn thể hiện qua nhiều vấn đề
như nợ xấu gia tăng, tính thanh khoản yếu, dịch vụ nghèo nàn, lách luật, chạy đua lãi suất
gây xáo trộn thị trường. Khi nền kinh tế khó khăn kéo dài, bất động sản và chứng khốn sa
sút, tín dụng đen đổ bể các vấn đề đó càng trở nên gay gắt, địi hỏi phải tái cấu trúc lại hệ
thống ngân hàng thương mại để tránh những hậu quả khó lường.
“Tính đến tháng 12 năm 2012, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm: 5
ngân hàng thương mại nhà nước; 1 ngân hàng chính sách xã hội; 37 ngân hàng thương mại
cổ phần; 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng liên doanh; 47 văn phịng đại
diện ngân hàng nước ngồi; 16 cơng ty tài chính; 13 cơng ty cho th tài chính. Ngồi
ra, Việt Nam cịn có Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) và Quỹ Tín dụng nhân
dân Trung ương với 915 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Hệ thống tài chính của Việt
Nam đã phát triển rất mạnh kể từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay và đã đóng
góp rất lớn vào sự phát triển của đất nước. Với tổng tài sản gấp hơn 2 lần so với


Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), trong đó, tổng vốn tín dụng cho nền kinh tế đã
tăng rất nhanh và lên đến 125% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cuối năm
2010, hệ thống các Tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung, ngân hàng thương mại nói
riêng đã trở thành nguồn cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, cả vốn ngắn, trung và
dài hạn, cả vốn bằng đồng Việt Nam (VND) cũng như bằng ngoại tệ. Một số NHTM
và Tổ chức tín dụng (TCTD) lớn đã vươn lên thành tập đồn tài chính với quy mô
vốn điều lệ tương đương hàng trăm triệu đồng đô la Mỹ (USD), hoạt động đầu tư
trong nhiều lĩnh vực như chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, vàng và ngoại tệ, cho
th tài chính… thơng qua hệ thống hàng trăm chi nhánh, sử dụng hàng vạn lao động,
thành lập nhiều công ty con đạt lợi nhuận mỗi năm tới hàng ngàn tỉ đồng (VNĐ)”. [1]
Tuy nhiên, chính sự “bùng nổ” hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng của hệ
thống ngân hàng trong thời gian vừa qua đã tiềm ẩn những rủi ro và nguy cơ lớn tác động

Luan van


trực tiếp đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống NHTM. Đó là nguyên nhân quan trọng
nhất buộc Việt Nam phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nói riêng, cơ cấu lại hệ thống tài
chính nói chung, nhằm ngăn chặn rủi ro hệ thống, trước khi sự đổ vỡ của một tổ chức tài
chính có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống, như bài học từ các cuộc khủng hoảng kinh
tế tài chính quốc tế đã chỉ ra.
Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó
tích tụ, trở nên q lớn do tác động của các yếu tố bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ mô,
khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản lao dốc;
hay do các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro bất cập, quy trình tín dụng khơng hồn
chỉnh, đầu tư mạo hiểm, trình độ năng lực và đạo đức của đội ngũ khơng đáp ứng u
cầu… thì ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại, cả cơ cấu lại
từng ngân hàng, cũng như cơ cấu lại cả hệ thống ngân hàng. Cho đến nay, hệ thống ngân
hàng Việt Nam đang đối mặt với những rủi ro ngày một gia tăng, nổi bật là:

Rủi ro tín dụng: Một mặt, để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp và người dân, trong khi nguồn vốn kinh doanh chỉ chủ yếu dựa vào
hệ thống ngân hàng, nên đã có hiện tượng “tín dụng nóng”. Tuy nhiên, khi nền kinh tế tăng
trưởng chậm lại, người vay nợ gặp khó khăn thì rủi ro tín dụng gia tăng, nhất là trong
những trường hợp ngân hàng quá dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho vay và khơng thực
hiện trích lập dự phịng rủi ro tín dụng đầy đủ. Đặc biệt, sự hấp dẫn của thị trường bất động
sản và thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua đã khiến nhiều NHTM tập trung quá
nhiều vốn cho những thị trường đầy rủi ro này, góp phần khơng nhỏ vào thổi phồng “bong
bóng” bất động sản và chứng khốn. Song, khi những thị trường này đảo chiều đi xuống thì
nguy cơ rủi ro lại tăng cao.
Mặt khác, do một số NHTM mới thành lập nên mặc dù qui mô vốn khơng lớn song
vẫn cần tăng nhanh qui mơ tín dụng, để qui mô tài sản phù hợp với qui mô vốn, đồng thời
nhằm đáp ứng yêu cầu lợi nhuận của cổ đông, cũng như thỏa mãn tham vọng nhanh chóng
vươn lên bằng các NHTM có qui mơ lớn và bề dày kinh nghiệm khác. Trong điều kiện đó,
những ngân hàng này đã bất chấp các qui tắc về an toàn vốn, về quản trị rủi ro để đạt tốc
độ tăng tín dụng tới hàng chục phần trăm mỗi năm, kể cả tín dụng cho những lĩnh vực rủi
ro cao. Khi Ngân hàng Nhà nước quyết định thắt chặt tín dụng cho bất động sản, chứng
khoán và tiêu dùng xuống thì rủi ro tín dụng của những NHTM này tãng vọt. Ngoài ra, rủi

Luan van


ro ðạo ðức do sử dụng vốn tín dụng sai mục ðích cũng tãng cao, hậu quả là tỷ lệ nợ xấu có
xu hýớng tăng mạnh.
Rủi ro thanh khoản: “Do một số NHTM có tốc độ tăng dư nợ tín dụng và tài sản có
q cao, trong khi quy mơ vốn cịn hạn chế nên tính thanh khoản của những NHTM này
xuống thấp, thậm chí có những thời điểm mất tính thanh khoản. Hậu quả là, để bảo đảm tính
thanh khoản, một số NHTM đã phải chấp nhận lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới
20% - 30 /năm, thậm chí trên 40 / năm bất chấp lãi suất tái chiết khấu do NHNN công bố
hiện nay chỉ là 13 / năm” [1]. Có những giai đoạn NHNN đã phải bơm ròng đến hàng chục

ngàn tỉ đồng (VND) trên thị trường mở và thị trường liên ngân hàng để bảo đảm thanh khoản
cho toàn hệ thống. Rủi ro thanh khoản cịn đi đơi với rủi ro kỳ hạn khi tuyệt đại đa số vốn
huy động có kỳ hạn ngắn, thậm chí rất ngắn song các NHTM lại cấp tín dụng ở tất cả các kỳ
hạn với một tỷ lệ không nhỏ dành cho vay trung và dài hạn.
Rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái: Những bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát
cao và những chính sách thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ thống NHTM trước
những rủi ro rất lớn về lãi suất. Những biến động lớn, đột ngột về lãi suất, cả huy động và
cho vay, cùng với những biện pháp điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính đã
khiến cho các NHTM thường xuyên trong trạng thái đối phó, khi thì chạy đua tăng lãi suất
huy động, khi lại giữ lãi suất cho vay ở mức rất cao để phòng ngừa biến động lãi suất. Vì
vậy, hiện tượng “vượt trần, phá rào, hai lãi suất” diễn ra tương đối phổ biến làm giảm hiệu
lực của các chính sách tiền tệ, đồng thời làm suy giảm đạo đức kinh doanh của khơng ít
cán bộ quản l cũng như cán bộ tác nghiệp trong hệ thống ngân hàng... Hoạt động của
khơng ít NHTM rất bấp bênh, chênh vênh giữa trạng thái lãi - lỗ, kỷ luật kinh doanh không
được tuân thủ triệt để, tạo ra những kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng.
Chính vì vậy, chúng ta phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để khắc phục những yếu
kém tồn tại trong hệ thống, nhằm lành mạnh hóa tồn bộ hệ thống ngân hàng, bảo đảm hệ
thống hoạt động an tồn, thơng suốt, trở thành kênh dẫn vốn đáng tin cậy và hiệu quả, giảm
thiểu các rủi ro. BIDV là một Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà nước cũng nằm trong
tình trạng như các ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước nói riêng, ngân hàng thương
mại nói chung. Vì vậy, việc BIDV phải tái cơ cấu lại là một tất yếu khách quan.
Hai là, tái cơ cấu BIDV nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giành lại vị thế của
BIDV trên thị trường

Luan van


Sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện kế hoạch chiến lược 2006-2010, BIDV đã đạt
được nhiều thành tựu khả quan trong việc đổi mới mơ hình tổ chức và quản trị kinh doanh,
xác lập các dấu mốc quan trọng về quy mô, cơ cấu, chất lượng và hiệu quả hoạt động. Tuy

nhiên, trước xu hướng cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, mặc dù BIDV vẫn
tăng trưởng về quy mô và hiệu quả hoạt động nhưng lại có nguy cơ suy giảm về thứ hạng
trên thị trường. Bên cạnh đó, hệ thống vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, hạn chế chưa
được giải quyết triệt để, sức cạnh tranh trong tương quan ngành còn chưa thể hiện đúng khả
năng, nội lực. Đặc biệt, với việc thực hiện cổ phần hóa thành cơng, BIDV chính thức trở thành
Ngân hàng TMCP địi hỏi tồn hệ thống phải nâng cao chất lượng hoạt động để nâng cao hiệu
quả kinh doanh đáp ứng yêu cầu của cổ đông và nhà đầu tư. Do vậy, tái cơ cấu toàn diện hệ
thống BIDV là một nhu cầu cấp thiết và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với BIDV trong
giai đoạn hiện nay nhằm giành lại vị thế của BIDV trên thị trường.
Về quy mô tổng tài sản: “Kể từ năm 2006, BIDV luôn giữ vị thế thứ hai trên thị
trường cả về quy mô tổng tài sản, huy động vốn và dư nợ tín dụng. Tuy nhiên, từ năm
2010, tổng tài sản của Vietinbank đã bắt đầu vượt lên BIDV đứng thứ 2 trong tồn hệ
thống (Vietinbank: 368 nghìn tỷ, BIDV: 366 nghìn tỷ). Đến hết năm 2011, Vietinbank
lại tiếp tục giữ vị trí thứ 2 về qui mơ tổng tài sản tuy nhiên với khoảng cách này càng
cách xa BIDV (trên 54 nghìn tỷ). Trong năm 2012, Vietinbank đặt mục tiêu tăng quy
mơ tổng tài sản lên 550 nghìn tỷ đồng và tăng gấp đơi trong vịng 5 năm tới với quy
mơ khoảng 50 tỷ USD. Nếu khơng có những chính sách mạnh mẽ, quyết liệt thì BIDV
sẽ khó giành lại vị thế trên thị trường”. [1]
Về huy động vốn: “Trong giai đoạn 2006 - 2008, BIDV là ngân hàng có lợi thế
cạnh tranh trong cơng tác huy động vốn với nguồn vốn tương đối vững chắc, quy mô huy
động vốn (bao gồm tiền gửi của khách hàng và phát hành giấy tờ có giá) của BIDV đứng
thứ 2 toàn hệ thống chỉ sau Agribank. Tuy nhiên, kể từ năm 2008, thị phần huy động vốn
của BIDV giảm đáng kể. Và cho đến năm 2011, thị phần huy động vốn của BIDV đã giảm
xuống dưới mức 10% và Vietinbank lại tiếp tục vượt BIDV để chiếm lĩnh vị trí thứ 2 về thị
phần huy động vốn với khoảng cách huy động vốn giữa hai ngân hàng là trên 20.000 tỷ
đồng”. [1]
Về hiệu quả: “Kể từ năm 2009, BIDV đã vượt qua

gribank đứng thứ 2 về lợi


nhuận sau thuế trên thị trường và tiếp tục giữ vị thế này trong năm 2010, chỉ xếp sau
Vietcombank. Lợi nhuận sau thuế năm 2010 của BIDV cao hơn so với Vietinbank 346 tỷ,

Luan van


so với ngân hàng ACB cao hơn 1.425 tỷ, so với ngân hàng Eximbank cao hơn 1.946 tỷ.
Tuy nhiên, năm 2011, BIDV đã tụt hạng về lợi nhuận sau thuế so với Vietinbank (6.280
tỷ); mặt khác, các ngân hàng thương mại cổ phần lớn cũng đã rút ngắn khoảng cách nhanh
chóng với BIDV về lợi nhuận. Năm 2011, lợi nhuận hợp nhất sau thuế của ACB và
Eximbank đã đạt xấp xỉ so với BIDV”. [1]
“Do phải trích dự phịng rủi ro tín dụng cho vay khách hàng ở mức lớn (4.844 tỷ)
trong năm 2011 cho nên dù chênh lệch thu chi tăng trưởng ở mức cao 47

nhưng lợi

nhuận trước thuế của BIDV giảm 8,8% so với năm 2010. Điều này cho thấy, chất lượng tín
dụng suy giảm đang gây ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sinh lời của BIDV. Bên cạnh đó,
hiệu quả quản lý chi phí ở BIDV còn hạn chế so với các đối thủ cạnh tranh, tỷ lệ chi phí
quản lý so với tổng thu nhập ròng năm 2010 -2011 của BIDV cao hơn hầu hết các Ngân
hàng TMCP và cao hơn so với Vietcombank, Vietinbank”. [1]
“Hiệu quả hoạt động kinh doanh của BIDV chưa tương xứng với tiềm năng và
nguồn lực của BIDV. Đặc biệt, với kết quả năm 2011, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/tổng tài

sản (RO ) đạt 0,83%, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 13,16%, giảm
hơn so với năm 2010 và trung bình 2006 - 2010 (do trích lập dự phịng rủi ro lớn nên lợi
nhuận sụt giảm). Các chỉ số này của BIDV thấp hơn trung bình ngành và đặc biệt thấp hơn
nhiều so với nhiều ngân hàng cổ phần khác như Vietinbank, Vietcombank, CB, MB”. [1]
Các số liệu trên cho thấy năng lực cạnh tranh và vị thế của BIDV đang sụt giảm so
với một số ngân hàng thương mại hiện nay. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, lấy lại vị thế

của BIDV, tất yếu BIDV phải tái cơ cấu lại cho phù hợp với điều kiện, tình hình kinh
doanh mới.
Ba là, tái cơ cấu lại BIDV để đáp ứng q trình tồn cầu hố về kinh tế và tồn
cầu hóa ngân hàng
Q trình tự do hố, tồn cầu hố nền kinh tế thế giới đang phát triển ngày càng
mạnh mẽ cả về quy mơ và tốc độ. Tồn cầu hố kinh tế cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của công nghệ thông tin đã tạo ra sự liên kết thị trường hàng hóa, dịch vụ và tài chính
xun biên giới. Cơng nghệ thơng tin góp phần làm cho thị trường hoạt động hiệu quả
hơn, đồng thời cũng đóng góp vào việc tồn cầu hố q trình sản xuất và phát triển
của thị trường vốn. Công nghệ thông tin vượt qua những khoảng cách về địa lý và thời
gian làm cho các nhà cung cấp phản ứng nhanh chóng đối với sự thay đổi của khách

Luan van


hàng. Để sử dụng có hiệu quả q trình tự động hố và những đổi mới cơng nghệ địi
hỏi các ngân hàng phải có cơ cấu hợp l và đủ lực cả về tài chính lẫn nhân lực.
Cùng với quá trình tồn cầu hóa là sự bành trƣớng về địa lý và hợp nhất
các ngân hàng cũng đã vƣợt ra khỏi ranh giới lãnh thổ của một quốc gia và lan
rộng ra với quy mơ tồn cầu. Các ngân hàng mạnh nhất trên thế giới cạnh tranh
với nhau trên tất cả các lục địa. Mặt khác xu hƣớng hiện nay là hội nhập, do vậy
việc cho phép những ngân hàng ở nƣớc này sở hữu và quản lý chi nhánh ngân hàng ở
nƣớc kia là hồn tồn có thể. Điều này đòi hỏi tất yếu tất cả các ngân hàng đều phải
sẵn sàng có sự chuẩn bị để “tồn cầu hố ”, thậm chí phải thay đổi tồn bộ cơ cấu
thực tại nếu thấy cần thiết.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và chịu tác động đa
chiều từ những biến động của thị trường tài chính tồn cầu, đặc biệt sau thời điểm
01/01/2011, khi Việt Nam chính thức mở cửa tồn diện hoạt động ngân hàng theo cam kết
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). BIDV hơn lúc nào hết phải tập trung tái cấu
trúc để nâng cao năng lực cạnh tranh, tính minh bạch và khả năng ứng phó với những tác

động bất lợi của môi trường xung quanh; chủ động thực hiện lộ trình đáp ứng các quy định
của Ủy ban Basel trong quản trị ngân hàng; phấn đấu mức định hạng tín nhiệm nhà phát
hành cũng như năng lực tài chính độc lập tiệm cận với trình độ, tầm mức của các ngân
hàng trong khu vực.
Ngoài những lý do như trên, BIDV là một Ngân hàng TMCP Nhà nước, ngoài chức
năng hoạt động sản xuất kinh doanh, BIDV còn phải thực hiện vai trò của một doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tức là, phải đi
đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả kinh doanh, chấp hành pháp luật;
dẫn dắt, hỗ trợ các tổ chức tín dụng khác cùng phát triển; là lực lượng quan trọng để Nhà
nước điều tiết nền kinh tế… Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, muốn làm
được vai trò chủ đạo của mình, BIDV phải tái cơ cấu lại để kinh doanh có hiệu quả, trở
thành 1 trong 2 Ngân hàng TMCP Nhà nước đứng đầu trong hệ thống NHTM Việt Nam.
1.2. Thực trạng tái cơ cấu BIDV thời gian qua
1.2.1. Thành tựu và hạn chế tái cơ cấu BIDV
* Thành tựu:
Sau hơn 10 năm thực hiện kế hoạch tái cơ cấu 2001-2012, trong bối cảnh khủng
khoảng kinh tế toàn cầu, nền kinh tế phải trải qua những giai đoạn thăng trầm đầy khó

Luan van


×