Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Nghiên cứu " Sự hỗn dung thể loại trong Tam tổ thực lục " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.95 KB, 47 trang )


Nghiên cứu

Sự hỗn dung thể loại
trong Tam tổ thực lục

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề 6
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài 10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 11
5. Phương pháp nghiên cứu 12
6. Kết cấu luận văn 13
Chương 1:
TAM TỔ THỰC LỤC VÀ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM
1.1. SÁCH TAM TỔ THỰC LỤC 15
1.2. THIỀN PHÁI TRÚC LÂM 20
1.2.1. Tiền đề cho sự ra đời và phát triển
của thiền phái Trúc Lâm 20
1.2.2. Vai trò của thiền phái Trúc Lâm
trong đời sống Phật giáo 29
1.3. TRÚC LÂM TAM TỔ 33
1.3.1. Trần Nhân Tông 33
1.3.2. Pháp Loa 36
1.3.3. Huyền Quang 38
Chương 2
SỰ HỖN DUNG THỂ LOẠI TRONG
TAM TỔ THỰC LỤC
2.1. KIỂU KẾT CẤU BỐN GIAI ĐOẠN NHƯ LÀ
ĐẶC TRƯNG CỦA LOẠI TIỂU TRUYỆN THIỀN SƯ 41


2.1.1. Về khái niệm “tiểu truyện thiền sư” 41
2.1.2. Kết cấu chung của ba truyện tổ 41
2.1.2.1. Sự ra đời thần kì 42
2.1.2.2. Quá trình giác ngộ 52
2.1.2.3. Công tích hành đạo – giáo hóa 60
2.1.2.4. Qui tịch 61
2.2. THỦ PHÁP HUYỀN THOẠI HÓA NHƯ LÀ SỰ
ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN 66
2.2.1. Từ một motif phổ biến trong truyện kể
dân gian – motif sinh đẻ thần kì 67
2.2.2. Những chi tiết hoang đường, kì ảo 71
2.3. LỐI GHI CHÉP THEO TRÌNH TỰ THỜI GIAN TUYẾN TÍNH
NHƯ LÀ SỰ GIAO THOA GIỮA TRUYỆN
VÀ THỂ LOẠI SỬ BIÊN NIÊN 73
2.4. SỰ TÍCH HỢP CÁC YẾU TỐ THI CA VÀ HÌNH THỨC
ĐỐI ĐÁP CỦA NGỮ LỤC VÀ CÔNG ÁN THIỀN 78
2.4.1. Sự tích hợp các yếu tố thi ca 78
2.4.2. Sự tích hợp hình thức đối đáp của ngữ lục
và công án thiền 93
Chương 3
TỪ CHỨC NĂNG TÔN GIÁO ĐẾN GIÁ TRỊ VĂN HỌC
CỦA TAM TỔ THỰC LỤC
3.1. DẤU ẤN VĂN HỌC CHỨC NĂNG
VÀ TÍNH THUYẾT GIÁO 101
3.1.1. Dấu ấn văn học chức năng 101
3.1.2. Tính thuyết giáo 103
3.2. TÍNH VĂN HỌC VÀ GIÁ TRỊ VĂN HỌC 107
3.2.1. Tính văn học 107
3.2.2. Đề tài Huyền Quang – Điểm Bích
trong văn chương của các nhà nho 110

PHẦN KẾT LUẬN 121
THƯ MỤC THAM KHẢO 123

2.1. KIỂU KẾT CẤU BỐN GIAI ĐOẠN NHƯ LÀ ĐẶC TRƯNG
CỦA LOẠI TIỂU TRUYỆN THIỀN SƯ
2.1.1. Về khái niệm “tiểu truyện thiền sư”
Hiện nay, khái niệm “tiểu truyện thiền sư” đang ngày càng trở nên quen
thuộc và được vận dụng rộng rãi.
Theo định nghĩa của Nguyễn Hữu Sơn, “khái niệm “tiểu truyện thiền sư” là
sự chuẩn hóa hơn nữa cách gọi “truyện thiền sư” nhằm để chỉ loại truyện
thiền sư được viết theo nguyên tắc tiểu sử. Ở đây, bản thân chữ “tiểu truyện”
không nhằm vào sự liên hệ, so sánh mức độ với các chữ “đại”, “đoản thiên”,
“trường thiên tiểu thuyết” chẳng hạn, mà chủ yếu bao hàm ý nghĩa là tiểu sử,
truyện tiểu sử, tiểu sử thiền sư, Phật tích … ” [56, tr.32].
Như vậy, theo định nghĩa này thì các cách gọi khác nhau của cùng một kiểu
truyện ghi chép tiểu sử của các thiền sư trước đây vẫn dùng như “truyện thiền
sư”, “truyện các nhà sư”, “sự tích thiền sư”, “ghi chép về các thiền sư”,
“truyện kể thiền sư”, “hành trạng thiền sư”, “cuộc đời thiền sư” … đều thống
nhất là một và được gọi chung là “tiểu truyện thiền sư”. Các sách như Nam
tông tự pháp đồ (thiền sư Thường Chiếu, hiện không còn), Thiền uyển tập
anh, Thánh đăng lục, Tam tổ thực lục… đều được xem là thuộc loại “tiểu
truyện thiền sư”.
Khái niệm “tiểu truyện thiền sư” chúng tôi dùng ở đây cùng thống nhất cách
hiểu như trên.
2.1.2. Kết cấu chung của ba truyện tổ
Một trong những đặc trưng cơ bản của các tiểu truyện thiền sư là cốt truyện
được kết cấu theo bốn giai đoạn: sự ra đời thần kì, quá trình giác ngộ, công
tích hành đạo - giáo hóa và qui tịch (riêng Nguyễn Hữu Sơn trong Loại hình
tác phẩm “Thiền uyển tập anh” chia làm ba giai đoạn: khi sinh, quá trình
hành đạo và sự trở về cõi Phật [56]). Tuy nhiên, trong mỗi tiểu truyện cụ thể,

có thể khuyết đi một trong số những giai đoạn đó. Tam tổ thực lục, mặc dù
không có sự thống nhất về nguồn gốc văn bản ở các tiểu truyện như đã trình
bày, dẫn đến sự cách biệt khá xa về bút pháp biên lục nhưng đều thống nhất
nhau ở phương thức kết cấu cốt truyện này.
2.1.2.1. Sự ra đời thần kì
Sự ra đời thần kì được xem là một thứ “lễ tiết” cần phải có của một số tiểu
truyện thiền sư. Điều này có truyền thống, gốc rễ sâu xa trong văn hóa Phật
giáo. Theo đó, hầu hết các nhân vật thiền sư khi sinh ra đều gắn với một hiện
tượng kì lạ, nhằm ngụ ý về nguồn gốc thần thánh của họ, phù hợp với yêu
cầu truyền bá và tạo niềm tin tôn giáo.
B.L.Ríp-tin từng nêu lên vấn đề này như là một đặc trưng của văn học trung
đại:
Một đặc điểm tiêu biểu khác của văn học trung cổ là sự hiện hữu của thứ lễ
tiết văn học étiquette líttéraire tức một quan niệm về sự “lịch thiệp” văn học
(décence) mà theo đó các hình tượng nhân vật (thường là có tính chất lí tưởng
hóa) được sáng tạo ra chẳng hạn như vua chúa và các quan đại thần trong lịch
sử. Từ đó mới có sự nhất thiết phải miêu tả sự ra đời thần kì và thời thơ ấu
anh hùng cũng như rất nhiều điểm nói lên tính chất ưu việt của nhân vật và
tiên đoán ngôi báu sẽ thuộc về người đó. (Trong một loạt triều đại lịch sử thời
trung cổ ở Trung Quốc, nhà vua được miêu tả bằng những lễ tiết vay mượn từ
kinh Phật, mà trong đó chúng được áp dụng đối với chính đức Phật Thích Ca
Mâu Ni) [50, tr.116-117].
Và đương nhiên, với chức năng tôn giáo, Tam tổ thực lục còn cần hơn nữa
một thứ “lễ tiết” như vậy. Các nhân vật thiền sư trong Tam tổ thực lục đều
được sinh ra gắn với một điềm mộng và những hiện tượng lạ, đậm màu sắc
huyễn ảo của tôn giáo.
Những giấc mộng tiên tri …
Sự ra đời thần kì của Trần Nhân Tông gắn với giấc mơ kì lạ của mẹ ngài là
Nguyên Thánh Hoàng thái hậu: “Trước đó, Nguyên Thánh Hoàng thái hậu
nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm, bảo: “Có lệnh của thượng

đế, cho phép ngươi được chọn lấy”. Vì ngẫu nhiên được cây kiếm ngắn, thái
hậu bất giác mất vui, do đó có thai” [57, tr.17].
Sự ra đời của Pháp Loa cũng được lí giải bằng một giấc mộng: “Trước đó,
vào tháng 8 năm Quý Mùi (1283), mẹ sư là Vũ Thị, đêm nằm mộng thấy dị
nhân giao cho kiếm thần, bà vui mừng ôm vào lòng, đến khi thức giấc, bà
biết có thai” [57, tr.37].
Về Huyền Quang cũng thế:
Mẹ tổ là Lê Thị, vốn là người đàn bà hiền đức, chiều chuộng chồng con, kính
thờ cha mẹ chồng. Năm 30 tuổi mà chưa có con trai nối dõi, nên thường đến
cầu nguyện tại chùa Ngọc Hoàng. Chùa này cầu nguyện thường được linh
ứng. Đời vua Thánh Tông (1258 – 1278), đất nước mất mùa, nhân dân bị
bệnh dịch. Một hôm, Lê Thị đến núi Chu Sơn hái thuốc, vừa tới chùa Ma Cô
Tiên thì gặp lúc trời hè nắng gắt, bà liền nghỉ dưới bóng chùa. Gió đông phe
phẩy, nhật gác non tây, chợp mắt mơ màng, bà bỗng thấy một con khỉ lớn,
đầu đội mũ triều thiên, mình mặc áo hoàng bào, ôm mặt trời hồng ném vào
lòng bà. Lê Thị kinh hãi thức giấc, thấy lòng rung động, trở về thuật lại với
một vị tôn túc. Vị này bảo: “Trong núi ấy có động Thân Dương, đã làm cho
tinh anh của loài khỉ kia không tan biến, nên có điềm mộng ấy, chớ lấy làm
lạ”. Nhân đó, ông suy đoán: ném mặt trời vào bụng là điềm Lê Thị sẽ có thai.
Năm sau, thuộc năm Giáp Dần vào ngày đầu năm, thầy trụ trì chùa Ngọc
Hoàng là thiền sư Tuệ Nghĩa, sau khi lên chùa tụng kinh trở về liêu phòng,
tựa ghế thiền định, ông bỗng mơ thấy các tòa trong chùa đèn chong sáng rực,
chư Phật tôn nghiêm, kim cang long thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ tôn
giả A-nan bảo: “Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông đô, và phải nhớ duyên
xưa”. Bỗng tiểu đồng từ ngoài vào gõ cửa, Tuệ Nghĩa chợt tỉnh, liền ngâm kệ
rằng:
“Người đời học đạo khá xa xăm!
Tâm tức Phật chừ, Phật tức tâm.
Trí tuệ cát tường gây ảnh hưởng,
Kiếp này ắt gặp bạn tri âm”.

Rồi thiền sư viết bài kệ ấy lên vách [57, tr.77-79].
Cách lí giải về sự ra đời của các thiền sư dựa trên một điềm mộng không phải
ngẫu nhiên mà xuất phát từ một truyền thống Phật giáo và có liên quan mật
thiết đến giai thoại về sự ra đời của chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni (về giấc
mộng thấy voi trắng chui vào sườn bên phải của phu nhân Maya). Những
chuyện mộng mị như thế không phải chỉ để tô vẽ cho sự ra đời của các vị tổ
thêm huyễn hóa, hư hư thực thực mà đằng sau đó có một ý nghĩa khác. Theo
đó, mỗi giấc mộng tiên tri chứa đựng những biểu tượng. Mỗi biểu tượng như
vậy lại mang một ý nghĩa riêng. Maya phu nhân nằm mơ thấy voi trắng vào
sườn hữu, ngầm báo bà sẽ sinh ra một đứa con là “cực tôn trong ba cõi”. Mẹ
của Trần Nhân Tông và Pháp Loa đều mộng thấy thần nhân hoặc dị nhân trao
cho kiếm báu. Thanh kiếm ở đây là một vật quí, thần nhân giao cho cất giữ
biểu tượng cho việc những người mẹ sẽ hoài thai một nhân vật đặc biệt, có
một sứ mệnh rất lớn đối với nhân thế. Việc mơ thấy được giao cho giữ thanh
kiếm báu được giải thích như là căn nguyên của sự thụ thai kì lạ. Hành động
trao cho thanh kiếm là hành động rất phổ biến trong văn hóa cả phương Đông
và phương Tây. Đó là biểu tượng của việc kí thác một trọng trách, một sứ
mệnh đặc biệt. Người nhận thanh kiếm sẽ thay mặt người trao hoàn thành
một nhiệm vụ quan trọng nào đó, thông thường là một việc có liên quan trọng
đại đến số phận của quốc gia, dân tộc hoặc một cộng đồng người rộng lớn.
Trường hợp thụ thai thiền sư Huyền Quang lại ứng với một giấc mộng khác.
Mẹ ông mơ thấy một con khỉ lớn đầu đội mũ triều thiên, mình mặc áo hoàng
bào bưng mặt trời đỏ ném vào lòng. Đây cũng là một dạng trao gửi, hình ảnh
con khỉ ở đây cũng có thể xem là dị nhân hoặc thần nhân, là một người kì dị
khác thường. Đặc biệt hơn, con khỉ này lại “đội mũ triều thiên”, “mặc áo
hoàng bào”, chứng tỏ nó là hình ảnh biểu tượng cho một đấng chí tôn. “Mặt
trời đỏ”, theo quan niệm Phật giáo, là điềm báo đứa bé được hoài thai sẽ là
“vua chuyển luân”. Bậc chuyển luân (chakravartin) là người xoay chuyển
bánh xe pháp, đưa con người ra khỏi sinh tử trầm luân. Sự ra đời của cậu bé
Lý Đạo Tái, sau này trở thành thiền sư Huyền Quang, được xem như có một

ý nghĩa rất to lớn đối với chúng sinh. Vì vậy mà điềm mộng tiên tri không chỉ
xảy đến với người mẹ mà còn ứng giáng vào một người khác là thiền sư Tuệ
Nghĩa. Huyền Quang, được điềm mộng ứng báo, là kiếp thác sinh của A-nan
tôn giả. Trong những Phật tích, hiện tượng Bồ-tát hoặc tôn giả thác sinh qua
nhiều kiếp sống để dẫn dắt chúng sinh là rất phổ biến. Đơn cử trường hợp sự
ra đời của Thích Ca, kinh điển Phật giáo cho rằng Thích Ca (Siddhartha
Gautama) là kiếp thác sinh của đại Bồ-tát Hộ Minh (Vessantara). Giấc mộng
của thiền sư Tuệ Nghĩa dường như không có ý nghĩa tượng trưng. Nó là một
điềm báo rõ ràng, có lẽ do ông là người tu hành lục căn thanh tịnh, thân tâm
định tuệ, không có tạp niệm nên điềm báo được sáng rõ.
Thông qua những giấc mộng, nguyên nhân sự ra đời của các vị tổ đã được
bao bọc trong một lớp màng kì ảo. Quá trình hoài thai do đó mà trở nên thanh
khiết và thoát tục. Đó được xem như là bước chuẩn bị cho sự khai sinh của
những nhân vật có ý nghĩa quan trọng của một thiền phái Phật giáo. Những
nhân vật này được gọi là “pháp khí”, tức những người có tư chất đặc biệt có
thể tu hành và đạt thành chính giác.
Khi so sánh với một số tiểu truyện thiền sư Ấn Độ, Trung Hoa trong Sử 33 vị
tổ thiền tông Ấn - Hoa, Thiền sư Trung Hoa (3 tập) (cùng do Thích Thanh Từ
soạn dịch từ các bộ Cảnh Đức truyền đăng lục, Truyền pháp chánh tông kí,
Cao tăng truyện, Phật tổ thống tải, Chỉ nguyệt lục) và Thiền uyển tập anh (do
Lê Mạnh Thát dịch) thì thấy có nhiều điểm tương đồng khi nói về sự ra đời kì
diệu của các thiền sư. Điều này cho phép khẳng định hơn nữa mối tương
quan giữa các truyện Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang trong Tam tổ
thực lục với các tác phẩm thuộc cùng loại hình và với truyền thống văn hóa
Phật giáo.
Ứng với giấc mộng được kiếm thần của Nguyên Thánh Hoàng thái hậu (mẹ
Trần Nhân Tông) và bà Vũ Thị (mẹ Pháp Loa) là các chi tiết có trong tiểu
truyện về tổ Bà Xứ Tư Đa (Basiasita): “Ngài dòng Bà-la-môn, người nước
Kế Tân, cha hiệu Tịch Hạnh, mẹ tên Thường An Lạc. Một hôm, bà Thường
An Lạc mộng thấy lượm được cây kiếm thần, sau đó có thai ngài” [76,

tr.119]. Tiểu truyện thiền sư Chân Không (1046 – 1100) trong Thiền uyển tập
anh cũng có chi tiết tương tự: “Khi mẹ (sư) mang thai, cha mộng thấy một
tăng sĩ trao cho tích trượng, nhân đó có được sư” [64, tr.141]. Ở đây, nên
hiểu hình ảnh thanh kiếm và tích trượng có ý nghĩa biểu tượng như nhau.
Ứng với giấc mộng thấy mặt trời của bà Lê Thị (mẹ Huyền Quang) là các chi
tiết có trong các tiểu truyện về tổ Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta): “Trước khi sanh
ngài, thân phụ nằm mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà. Thuở bé,
ngài mặt mũi khôi ngô, tánh tình thuần hậu, trí tuệ minh mẫn” [76, tr.23].
Trong tiểu truyện về tổ Đề Đa Ca (Dhrtaka) cũng có chi tiết tương tự:
Nhơn (nhân) thân phụ ngài mộng thấy mặt trời vàng ánh xuất hiện trong nhà,
chiếu sáng khắp cả. Lại thấy phía trước hiện ra một hòn núi lớn, trang nghiêm
bằng bảy báu, trên đỉnh núi có dòng suối, nước chảy trong veo, tràn khắp bốn
phía. Sau đó mẹ ngài sinh ra ngài.
Ngài gặp Tổ Ưu Ba Cúc Đa bèn đem điềm mộng của cha thuật lại và nhờ giải
hộ. Tổ giải:
- Núi báu là thân ta. Suối nước tuôn là pháp vô tận, mặt trời xuất hiện trong
nhà là tướng ngươi vào đạo, ánh sáng chiếu khắp là trí tuệ siêu việt của ngươi
[76, tr.29].
Ngoài ra, ở nhiều tiểu truyện khác, tuy về chi tiết không trùng hợp với nhau
nhưng cũng lí giải sự ra đời của các thiền sư bằng giấc mộng. Có thể kể ra
một số truyện như thế: tiểu truyện về Bồ-tát Tu Bàn Đầu (Vasubandhu):
Ngài họ Tỳ Xá Khư ở nước La Duyệt, cha hiệu Quang Cái, mẹ là Nghiêm
Nhất. Nguyên gia đình ông Quang Cái giàu có mà không con. Hai ông bà
đồng đi lễ tháp Phật ở phía bắc thành La Duyệt để cầu con. Sau đó, bà mộng
thấy nuốt hai hạt châu một sáng một tối. Kế bà biết mình có thai [76, tr.99];
tiểu truyện về tổ Hặc Lặc Na (Haklena):
Ngài dòng Bà-la-môn sanh tại nước Nguyệt Chi, cha hiệu Thiên Thắng, mẹ là
Kim Quang. Ông Thiên Thắng đã lớn tuổi mà không con. Một hôm, ông đến
trước Kim Tràng thờ bảy đức Phật dâng hương lễ bái cầu con. Một hôm, bà
Kim Quang mộng thấy một vị thần đứng trên ngọn núi Tu Di, tay cầm vòng

ngọc, nói với bà: “Ta lại đây”. Khi thức giấc, bà biết có thai [76, tr.109];
tiểu truyện thiền sư Đức Thiều (881- 972): “Sư quê ở Long Tuyền, Xử Châu,
cha họ Trần, mẹ họ Diệp. Mẹ sư nằm mộng thấy một luồng sáng chạm vào
thân, nhân đó biết có thai. Đến khi sư ra đời, có nhiều điềm lạ” [73, tr.382];
tiểu truyện thiền sư Nghĩa Hoài: “Sư họ Trần, quê ở Lạc Thanh Vĩnh Gia,
ông cha chuyên nghề chài lưới. Mẹ nằm mộng thấy ngôi sao rơi trong nhà
liền có thai sư. Khi sư sinh ra có nhiều điềm lạ” [73, tr.422]; tiểu truyện thiền
sư Pháp Tú (? – 1090): “Sư họ Tân, quê ở Thành Lũng Tần Châu, mẹ mộng
thấy ông sư già đến ngủ nhờ, tỉnh mộng liền biết có thai” [73, tr.485]; tiểu
truyện thiền sư Chánh Giác (1069 – 1135):
Sư họ Lý, quê ở Thấp Châu, mẹ sư mộng thấy một vị tăng ở Ngũ Đài cởi
chiếc vòng mang vào cánh tay mặt bà. Sau đó, bà thọ thai sư. Trong lúc mang
thai, bà gìn giữ trai giới cẩn thận. Sư sinh ra, cánh tay mặt nổi quầng giống
chiếc vòng. Ông nội và cha sư tham thiền với Phật Đà Tôn đã lâu. Phật Đà
chỉ sư nói với cha sư rằng: Đứa bé này đạo vận rất tốt, chẳng phải là người ở
trong trần ai. Nếu xuất gia ắt làm pháp khí” [74, tr.57]…
Có thể thấy rằng việc lí giải sự ra đời của các vị tổ bằng điềm mộng là một
mô thức phổ biến và mang tính kế thừa trong các tiểu truyện thiền sư, ngoài
thực hiện chức năng tôn giáo còn thể hiện bản chất văn học với tư cách là
một yếu tố mang tính loại hình và tính hư cấu nghệ thuật trong tác động qua
lại với bộ phận truyện dân gian như sẽ trình bày ở phần sau của luận văn.
Đứa hài đồng kì lạ …
Một điểm chung đặc biệt nữa trong các tiểu truyện về ba vị tổ thiền phái Trúc
Lâm đó là khi các vị còn là một thai nhi nằm trong bụng mẹ đã được một thế
lực siêu nhiên phù trợ, đến khi sinh ra lại mang nhiều tướng tốt, đi kèm theo
đó là một số hiện tượng lạ.
Về quá trình thai sinh của các vị tổ, sách Tam tổ thực lục viết về Trần Nhân
Tông: “Những tháng dưỡng thai, thái hậu chẳng cần kiêng cữ, nhà bếp dâng
thức gì thái hậu cứ dùng như thường mà thai cũng chẳng sao, nên thái hậu
biết có nơi che chở” [57, tr.17]. Lại nói về Pháp Loa: “Trước đó, mẹ sư đã

sinh liên tiếp tám người con gái; vì sinh quá nhiều con gái, bà đâm ra chán
ngán, nên khi có thai sư, bà âm thầm tìm thuốc công hiệu uống để phá thai,
nhưng uống đến bốn lần mà thai vẫn còn nguyên. Do thế, khi sinh ra sư, bà
vô cùng mừng rỡ, bèn đặt tên là Kiên Cương” [57, tr.37-38]. Về Huyền
Quang cũng thế: “Lê Thị mang thai tổ đến mười hai tháng mà bụng bà không
chuyển động, bà nghi mắc bệnh nên uống nhiều thuốc phá thai mà thai không
hư. Khi tổ sinh ra lại là một đứa bé trai cứng cáp” [57, tr.79].
Dĩ nhiên thế lực phù trợ ở đây được cho là đức Thế Tôn (Phật Thích Ca Mâu
Ni). Những chi tiết này có thể có độ tin cậy xác thực hoặc không nhưng đã là
một cách thức lặp đi lặp lại thì nó phải có một ý nghĩa nhất định. Có thể giải
thích đây là kiểu motif “đứa trẻ được chọn” trong truyền thống các tôn giáo.
Cho nên, dù chịu đựng những hoàn cảnh khắc nghiệt nó vẫn có thể vượt qua
để thực hiện sứ mệnh cao cả của mình. Huống hồ, những bào thai này lại là
kiếp thác sinh của những bậc giác ngộ như Phật Thích Ca đối với Điều Ngự
Giác Hoàng Trần Nhân Tông (bản thân từ Điều Ngự là danh hiệu của Thích
Ca Mâu Ni), như A-nan tôn giả đối với Huyền Quang. Chính nguồn gốc thần
thánh đã giúp thai nhi “kiên cương” vượt qua những thử thách ấy.
Hình ảnh ba vị tổ khi vừa mới sinh ra cũng được các tác giả Tam tổ thực lục
ghi chép lại theo cách thức truyền thống của Phật giáo. Những đứa hài đồng
này khi mới lọt lòng mẹ đã mang những đặc điểm thể chất rất đặc biệt.
Tam tổ thực lục miêu tả Trần Nhân Tông: “Đến khi vua sinh ra, màu da
như vàng ròng, Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Vai phải vua có nốt ruồi đen
như hạt đậu lớn, người biết xem tướng nói: “Đứa bé này ngày sau có thể gánh
vác việc lớn”” [57, tr.17-18] (những chi tiết này có trong Đại Việt sử kí toàn
thư: vua “được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng,
thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng (…) gọi là Kim Tiên đồng tử. Trên vai
trái có nốt ruồi đen nên có thể cáng đáng được việc lớn” [33, tr.235]). Về
phần Pháp Loa: “Khi sư ra đời, có mùi hương lạ bay khắp nhà, hồi lâu mới
hết” [57, tr.37]. Huyền Quang cũng vậy: “Năm ấy tổ sinh ra. Khi sinh có tia
sáng mờ ảo, mùi hương thơm phức. Người ta gọi đó là đứa hài đồng có mùi

hương thanh tịnh” [57, tr.79].
Có thể thấy, các nhân vật ở đây đã được bao bọc trong bầu không khí huyền
nhiệm của Phật giáo. Từ lúc hoài thai đến khi ra đời là tập hợp của những
niềm linh dị. Đi sâu hơn, cách miêu tả những đứa trẻ đặc biệt này với những
đặc điểm kì lạ như “màu da như vàng ròng”, “mùi hương thơm phức”, “có tia
sáng mờ ảo” không phải là cách miêu tả tùy tiện mà có cơ sở của nó. Đó là
cách miêu tả theo 32 tướng tốt (lakkhana) và 80 vẻ đẹp (anuvyanjana)

của
Phật Thích Ca, thể hiện một bậc đại nhân, đại quí. Trong đó có hai đặc điểm
thuộc 32 tướng tốt là “sắc thân sáng như vàng ròng”, “hào quang tỏa chung
quanh một trượng” và một đặc điểm thuộc 80 vẻ đẹp là “lỗ chân lông tỏa
hương” hoặc “miệng thoảng hương thơm, chúng sinh ngửi được vui suốt cả
ngày” [57, tr.92-95].
Tuy rằng các vị tổ không được miêu tả với đầy đủ những đặc điểm thuộc các
tướng trên, nhưng phần nào, cách miêu tả ấy cũng có một giá trị tượng trưng
về nguồn gốc siêu phàm của họ. Những đặc điểm xác thân ấy có giá trị tiên
tri về tương lai, về nguyên do cao thượng mà họ thác sinh vào cõi tục này.
Khi xem tướng cho ấu đồng Tất Đạt Đa, các vị Bà-la-môn đã khẳng định ngài
sẽ trở thành bậc vĩ nhân cao quí của nhân loại, thành vị Chuyển luân thánh
vương cai trị bốn châu thiên hạ. Nốt ruồi đen như hạt đậu lớn trên vai phải
của vua Trần Nhân Tông cũng tiên báo ông là người “ngày sau có thể gánh
vác việc lớn”.
Tóm lại, thông qua việc miêu tả các vị tổ qua hình ảnh đứa hài đồng kì lạ, các
tác giả Tam tổ thực lục một lần nữa lại nêu lên một xác tín rằng Trần Nhân
Tông, Pháp Loa, Huyền Quang là kiếp thác sinh của những nhân vật thần kì
Phật giáo, mang một trong những đặc điểm nhân dạng tương tự như đức Phật
và các vị tôn giả, A-la-hán. So sánh với một số tiểu truyện thiền sư khác, lại
thấy có nhiều điểm tương đồng đáng ghi nhận như trong tiểu truyện về tổ Ma
Ha Ca Diếp (Mahakasyapa) của Ấn Độ: “Thuở bé, ngài dung nghi trang nhã,

toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất xa. Thầy tướng xem tướng ngài nói:
“Đứa bé này đời trước có phước đức phù thắng, lẽ ưng xuất gia” [76, tr.7].
Trong các tiểu truyện thiền sư Trung Hoa, việc các nhà sư sinh ra gắn với
điềm lạ cũng rất phổ biến như tiểu truyện về Tổ Huệ Khả (494 – 601): “Sư họ
Cơ, quê ở Võ Lao, dòng tôn thất nhà Chu. Cha mẹ sư lớn tuổi không con, lắm
phen đến chùa cầu con, sau mẹ sư có thai sinh ra sư. Khi sư lọt lòng mẹ, có
hào quang lạ chiếu sáng trong nhà, nên đặt tên sư là Quang” [76, tr.149]; tiểu
truyện thiền sư Vô Nghiệp (760-821): “Sư họ Đỗ, quê ở Thượng Lạc,
Thương Châu. Mẹ sư họ Lý, một hôm bà nghe trong hư không có tiếng nói
“Cho ở nhờ được chăng?” bà liền biết có thai. Sư lọt lòng mẹ vào lúc ban
đêm, có hào quang sáng đầy nhà. Được bốn, năm tuổi sư đi thì nhìn thẳng,
ngồi thì tréo kiết già” [72, tr.181]; tiểu truyện thiền sư Tề An: “Sư họ Lý, quê
ở quận Hải Môn. Khi sư ra đời có hào quang chiếu đầy nhà, lại có vị tăng lạ
đến nói: “Sứ giả dựng cờ vô thắng, xoay mặt trời Phật soi trở lại, đâu không
phải người này”” [72, tr.204]; tiểu truyện thiền sư Quang Dũng: “Sư họ
Chương, quê ở Phong Thành, Dự Chương. Khi mẹ sinh sư có thần quang soi
sáng khắp sân, ngựa trong chuồng đều kinh hoảng, nhân đó đặt tên sư là
Quang Dũng” [73, tr.185]; tiểu truyện thiền sư Phật Ấn (? – 1098): “Sư họ
Lâm, quê ở Phù Lương Nhiêu Châu. Khi sư sinh, hào quang xông lên, tóc,
móng tay đều đầy đủ, dung mạo đẹp đẽ khác thường. Lúc còn bé, sư nói ra
câu nào cũng phù hợp kinh sử, mọi người đều gọi là thần đồng” [73, tr.434];
tiểu truyện thiền sư Thiệu Bổn: “Sư họ Đổng (…), mẹ sư không con, đến
trước tượng Phật cầu khấn, khấn rằng: Được con sẽ cho làm Phật sự. Sau đó
bà sinh được sư dung mạo trang nhã” [74, tr.44]. Ở Việt Nam có tiểu truyện
thiền sư Vân Phong (? – 956): “Khi mẹ (sư) mang thai, bà thường ăn chay
tụng kinh, lúc sinh có ánh sáng lạ chiếu khắp nhà” [64, tr.19]…
Việc bắt đầu các tiểu truyện thiền sư bằng sự ra đời thần kì đã giúp cho Tam
tổ thực lục mang đậm màu sắc tôn giáo, đầy huyễn ảo, vừa tạo sức hấp dẫn
riêng, vừa nhằm thực hiện chức năng tôn giáo. Các tác giả của Tam tổ thực
lục cũng đã vận dụng những mô thức truyền thống có tính lịch sử và kế thừa

trong kinh điển Phật giáo khi khắc họa hình ảnh của các vị tổ thiền phái Trúc
Lâm, điều đó đã phản ánh một đặc điểm cấu trúc cốt truyện của các tiểu
truyện thiền sư nói chung.
2.1.2.2. Quá trình giác ngộ
Tác giả của các tiểu truyện thiền sư trong Tam tổ thực lục đã giải thích con
đường đến với Phật pháp của ba vị tổ bằng một quá trình dài của những cơ
duyên để cuối cùng dẫn đến sự giác ngộ hoàn toàn. Các nhân vật thiền sư
Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đều được khắc họa là những con
người có thiên tư sáng suốt, có khả năng giác ngộ rất cao và đặc biệt là có
một mối duyên màu nhiệm với Phật giáo.
Thiên tư là tư chất con người có sẵn khi sinh ra, không phải qua quá trình học
tập, trau dồi hay tôi luyện. Người xưa có cách nói nôm na là những đặc tính
“trời phú”. Các nhân vật Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang được mô
tả tuy có mờ nhạt khác nhau chút ít về điểm này hoặc điểm khác nhưng vẫn
có được những tương đồng cơ bản.
Trần Nhân Tông được Tam tổ thực lục miêu tả là người có bẩm tính thông
minh hiếm có: “Điều Ngự thánh tánh (tính) sáng suốt, đa tài, hiếu học, đọc
khắp sách vở, thông hiểu cả nội và ngoại điển” [57, tr.19]. Về phần Pháp
Loa: “Lúc còn bé, sư đã có thiên tư đĩnh ngộ, không nói lời ác, không ăn chất
cay nồng và thịt cá” [57, tr.37]. Về điểm này, Huyền Quang được mô tả
tương đối tỉ mĩ hơn: “Đến tuổi đồng ấu, thể mạo tổ dị thường, có chí của bậc
trác việt vĩ nhân, cha mẹ hết lòng yêu thương dạy cho học nghề. Tổ nghe một
hiểu mười, có tài như Nhan Hồi Á Thánh, nên được gọi là Tải Đạo” [57,
tr.79]; “Năm 20 tuổi, tổ dự khoa thi Hương và đỗ đạt. Vì (triều đình) chọn
người đều dùng những bậc đại khoa, nên tổ phải đợi đến khoa thi lớn năm sau
(…) kết quả tổ đậu được thủ khoa” [57, tr.79]; “Được bổ vào chức quan Hàn
lâm, tổ phụng mệnh tiếp sứ giả phương Bắc, văn thư qua lại, trích dẫn kinh
nghĩa, ứng đối lưu loát. Văn chương ngôn ngữ hơn cả Trung Quốc và các
nước lân bang” [57, tr.80]; “Tổ đọc nhiều, học rộng, tinh thông Phật pháp”
[57, tr.81]; được Trần Nhân Tông đích thân khen ngợi: “phàm sách đã qua

tay Huyền Quang biên soạn thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa”
[57, tr.81]. Đó là những phẩm chất cần có của những bậc đại giác. Trí là nền
tảng cơ bản, là phương tiện để đưa đến ngộ. Trí không đơn thuần là tri thức
mà là khả năng lĩnh hội tri thức. Câu chuyện về lục tổ Huệ Năng là một ví dụ.
Cách miêu tả ba vị tổ gắn liền với những đặc điểm trí năng một lần nữa gợi
nhớ tới hình ảnh Phật Thích Ca. Theo giai thoại, năm cậu bé Tất Đạt Đa
(Siddhartha) lên bảy tuổi, cha cậu cho mời các vị thầy học nổi tiếng vào cung
dạy cậu và các vương nhưng trí tuệ của Tất Đạt Đa đã làm họ ngỡ ngàng và
thán phục.
Có thể thấy những nhân vật ở đây được ghi chép lại là những con người trác
việt, hơn nữa còn là những người có một mối duyên lành với Phật pháp. Trần
Nhân Tông là người đặc biệt hơn cả, nhất là do hoàn cảnh xuất thân của ông.
Thuộc dòng dõi hoàng tộc, vốn được chọn sẵn để kế thừa ngai vị nhưng điều
đó chẳng mảy may hấp dẫn gì đối với Trần Nhân Tông, trái lại, ông còn tỏ ra
thờ ơ: “Năm 16 tuổi được lập làm hoàng thái tử, Điều Ngự từ chối đến ba
phen, xin để em mình thay thế, nhưng đều không được chấp thuận. Vua kết
duyên với trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu là Khâm Từ Thái hậu, tình
cầm sắc tuy cùng hòa hợp, nhưng lòng đạm bạc đối với nhà vàng” [57, tr.18].
Thậm chí, Trần Nhân Tông có khi còn trốn bỏ chốn cung cấm, chủ định xuất
gia cầu Phật: “Vào giờ Tý một đêm kia, vua vượt thành ra đi, định vào núi
Yên Tử, nhưng khi đến chùa Tháp, núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, lại vì quá
mệt nên phải vào nghỉ trong tháp. Vị tăng chùa ấy thấy vua tướng mạo khác
thường, liền đem thức ăn đến mời (…). Thánh Tông sai quần thần đi tìm
khắp bốn phương, bất đắc dĩ vua phải trở về” [57, tr.18]. Nhưng cuối cùng,
như một căn duyên nào đó không thể cưỡng lại được, Trần Nhân Tông đã
nhường ngôi cho con từ rất sớm, lúc đó ông 41 tuổi, chuyên tâm học Phật.
“Sau khi truyền ngôi lại cho Anh Tông không bao lâu, khoảng tháng 10 năm
Kỷ Hợi, Điều Ngự vào thẳng núi Yên Tử, tinh cần tu 12 hạnh đầu đà, lấy
hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà” [57, tr.19]. Cuộc đời, xuất thân của Trần
Nhân Tông có những điểm tương tự như cuộc đời Phật Thích Ca, theo một

cách nào đó. Hoàng tử Tất Đạt Đa cũng được chọn làm người kế vị cha mình
nhưng do nhiều căn duyên chỉ muốn ra đi tìm lẽ giải thoát cho nỗi đau khổ
của thế gian. Tất Đạt Đa cũng lấy vợ, sinh con, sống trong cảnh nhung lụa.
Người cha vì muốn chống lại số phận trở thành “chuyển pháp luân” của đứa
con trai nên đã dốc hết tâm sức tạo cho con một cuộc sống không thiếu thốn
thứ gì, không phải nhìn thấy những cảnh đen tối của nhân gian. Ấy vậy mà,
do sự dẫn dắt của các thế lực siêu nhiên, Tất Đạt Đa thấy được bốn nỗi khổ
không thể cưỡng lại được của con người là sinh, già, bệnh, chết (sinh, lão,
bệnh, tử), rồi trốn đi trong một đêm khi mà người vợ vừa sinh đứa con trai
được bảy ngày.
Những điểm tương quan này làm nên nét độc đáo của Trần Nhân Tông. Cuộc
đời của Phật Thích Ca được kể lại với đầy những chi tiết huyền thoại như lời
kêu gọi, sự thần thông biến hóa của chư thiên, những cõi trời xa lạ…. Cuộc
đời của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông được miêu tả gần gũi hơn,
thật hơn. Những chi tiết hoang đường chỉ là những giấc mộng và đã là giấc
mộng thì hoang đường hay không lại không phải là vấn đề nữa. Theo cách
nhìn của tác giả tiểu truyện Trúc Lâm sơ tổ cũng như quan niệm của các tín
đồ thiền phái Trúc Lâm thì Trần Nhân Tông chính là kiếp thác sinh của Phật
Thích Ca. Tiểu truyện Trần Nhân Tông trong Tam tổ thực lục có đoạn:
Khi lên ngôi, tuy ở chốn cửu trùng cao sang mà vua vẫn sống thanh tịnh. Vua
thường ngủ trưa ở chùa Tư Phúc trong đại nội, một hôm thấy trên rún (rốn)
trổ một hoa sen vàng lớn như bánh xe, trên hoa có Phật vàng. Có người đứng
bên cạnh chỉ Điều Ngự hỏi: “Biết vị Phật này không? Đức Biến Chiếu Tôn
đấy” [57, tr.19].
Quả thực đây là giấc mơ có nhiều hình ảnh tượng trưng, yêu cầu phải được
giải thích bằng thứ tư duy hình tượng của Phật giáo. Dễ thấy giấc mơ này có
điểm tương tự như một trong năm giấc mơ điềm báo của Thích Ca trước ngày
thành đạo dưới gốc bồ đề, có ghi lại trong kinh Tăng chi bộ, đó là ngài mộng
thấy từ rốn mình mọc ra một loại cỏ vươn cao mấy tầng mây. Rốn là con
đường sinh. Trần Nhân Tông và Thích Ca đều mơ thấy từ rốn mình mọc ra

một loại cây, ấy là tượng trưng cho việc chính từ các ngài sẽ sản sinh ra
nghiệp lạ. Điềm báo của Thích Ca nói lên việc ngài tìm thấy con đường giải
thoát qua bát chính đạo và đem giáo hóa khắp nhân thiên. Trần Nhân Tông
mộng thấy từ rốn mình mọc lên một đóa sen vàng lớn như bánh xe. Đóa sen
này tượng trưng cho bánh xe pháp (pháp luân). Bánh xe pháp nếu có mười
hai nan hoa thì tượng trưng cho thập nhị nhân duyên, nếu có tám nan hoa thì
tượng trưng cho bát chính đạo, bánh xe pháp được xem là phương tiện đưa
chúng sinh ra khỏi trầm luân, khổ ải. Trên hoa sen lại có Phật vàng là đức
Biến Chiếu Tôn (cách gọi Phật Thích Ca của người theo Mật giáo) ngụ ý nhờ
ở thân Trần Nhân Tông mà Thích Ca được thác sinh, nói một cách khác, Trần
Nhân Tông chính là nhục thể của đức Phật. Căn duyên của Trần Nhân Tông
đối với đạo Phật còn thể hiện ở chỗ:
Do đó, vua thường dùng chay lạt, chẳng ăn thức mặn nên long nhan trở nên
gầy yếu. Thánh Tông thấy lạ hỏi thì Điều Ngự nói rõ nguyên nhân. Thánh
Tông khóc nói: ta nay già rồi, trông cậy một mình con, nếu con như vậy thì
thịnh nghiệp của tổ tông biết làm thế nào?” Điều Ngự cũng rơi nước mắt”
[57, tr.19].
So với Pháp Loa, Huyền Quang thì con đường xuất gia của Trần Nhân Tông
khó khăn hơn, phức tạp hơn vì ông bị trói buộc bởi trách nhiệm với dân, với
nước, với hoàng tộc. Nhưng cuối cùng, cũng vẫn không có gì ngăn cản được
một người quyết tâm xuất gia hành đạo.
Lại nói về Pháp Loa, căn duyên với đạo Phật được bộc lộ từ bé: “Lúc còn bé,
sư đã có thiên tư đĩnh ngộ không nói lời ác, không ăn chất cay nồng và thịt
cá” [57, tr.38]. Căn duyên đó còn biểu hiện trong cuộc gặp gỡ giữa Pháp Loa
và Trần Nhân Tông năm ông 21 tuổi, lúc Trần Nhân Tông đi khắp các miền
khuyên dân từ bỏ dâm từ, thuyết pháp và chữa bệnh:
Khi xa giá Điều Ngự đến bờ sông Nam Sách, thì sư đang đi chơi xa, bỗng
cảm thấy tâm thần phiền muộn nên quay về, vừa lúc ấy gặp Điều Ngự đến
thôn mình, sư bèn đãnh lễ xin xuất gia. Điều Ngự vừa trông thấy sư, lấy làm
lạ, bảo: “Đứa bé này có đạo nhãn, sau này hẳn là bậc pháp khí”. Lại thấy sư

tự đến (xin xuất gia), nên vui mừng đặt tên là Thiện Lai [57, tr.38].
Về phần Huyền Quang, căn duyên đến với ông vào lần gặp gỡ với Pháp Loa:
Lúc tổ theo vua tới chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Phượng Nhãn, nhìn thấy quốc
sư Pháp Loa đang hành đạo, liền nhớ lại duyên xưa, bùi ngùi than rằng: “Làm
quan lên Bồng Đảo, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là tiên, cảnh giới
Tây phương là Phật. Phú quí vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu, mây trắng
ngày hạ, há nên lưu luyến mãi!”. Nhân đó, dâng biểu đến ba lần xin từ chức
để xuất gia học đạo tu hành [57, tr.80].
Vua Trần Anh Tông từng có lời khen ông: “Tướng người này có đạo nhãn, có
thể là bậc pháp khí, bậc thánh tăng chân chánh (chính) vậy” [57, tr.80-81].
Khoảnh khắc và nhân duyên giác ngộ của Trần Nhân Tông, Pháp Loa và
Huyền Quang đều được giải thích như là kết quả của lòng mộ Phật. Khoảnh
khắc giác ngộ còn được gọi là “hoát nhiên khế hội”, “phát minh tâm địa”,
“đốn ngộ”, “đại ngộ”, “tỉnh ngộ” … theo các cách diễn đạt khác nhau trong
các tiểu truyện thiền sư. Truyện Trần Nhân Tông không thấy nói đến khoảnh
khắc này mà chỉ có chi tiết “lúc rảnh việc nước, vua mời các khách Thiền đến
giảng dạy tâm tông, lại tham vấn Tuệ Trung Thượng sĩ nhờ thế đạt được cốt
tủy của thiền, nên thờ Tuệ Trung theo lễ của bậc thầy” [57, tr.19].
Việc giác ngộ của Pháp Loa được ghi lại:
Điều Ngự thế phát, trao man y cho sư, rồi bảo đến Quỳnh Lâm học với hòa
thượng Tính Giác. Sư thưa hỏi trăm điều mà Tính Giác rốt cục vẫn chưa thể
khai thị cho sư, nên sư tìm đọc kinh Hải nhãn (kinh Lăng nghiêm), đến đoạn
“Bảy lần gạn hỏi tâm, cuối cùng đến ví dụ khách trần”, sư suy nghĩ giây lâu,
bỗng được thể nhập.
Một ngày kia, từ bên hòa thượng Tính Giác trở về để tham vấn Điều Ngự,
vừa được lúc Điều Ngự thượng đường đọc bài tụng Thái dương ô kê, sư liền
tỉnh ngộ [57, tr.38-39].
Một lần khác: “Một đêm nọ, nhân trình ba bài tụng cốt yếu, đều bị Điều Ngự
sổ toẹt, sư thưa hỏi đến bốn lần mà Điều Ngự vẫn bảo phải tự tham cứu lấy.
Trở về phòng, tâm thần rất xao xuyến, đến nửa đêm, nhân thấy hoa đèn rơi,

sư bỗng nhiên đại ngộ” [57, tr.39].
Ở thiền sư Huyền Quang, khoảnh khắc giác ngộ của ông cũng chính là lúc
chứng kiến Pháp Loa hành đạo ở chùa Vĩnh Nghiêm mà nhớ lại duyên cũ, đi
đến quyết định từ bỏ quan trường, chuyên tâm theo Phật.
Tính phổ biến của việc kể lại quá trình giác ngộ trong các tiểu truyện thiền sư
là rất lớn. Xin nêu ra đây hai ví dụ tiêu biểu trong các tiểu truyện về thiền sư
Hoài Nhượng (677 – 744) và về thiền sư Vô Ngôn Thông (759 – 826).
Thiền sư Hoài Nhượng trong một lần đến tham vấn lục tổ Huệ Năng:
Sư đến Tào Khê, tổ hỏi:

×