Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

(Luận văn thạc sĩ) khảo sát lỗi dùng từ trong bài viết văn miêu tả của học sinh lớp 4 ở trường tiểu học thực hành sư phạm thành phố cao lãnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KH&CN CẤP CƠ SỞ NĂM HỌC 2018 – 2019

KHẢO SÁT LỖI DÙNG TỪ
TRONG BÀI VIẾT VĂN MIÊU TẢ CỦA HỌC SINH
LỚP 4 Ở TRƯỜNG THỰC HÀNH SƯ PHẠM,
THÀNH PHỐ CAO LÃNH, ĐỒNG THÁP
SPD 2018.02.31

Chủ nhiệm đề tài: Dương Ngọc Hân
Người tham gia thực hiện: Phan Thị Minh Nguyệt
GV hướng dẫn: TS. Trần Đức Hùng

Đồng Tháp, 5/2019

1

Luan van


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KH&CN CẤP CƠ SỞ NĂM HỌC 2018 – 2019

KHẢO SÁT LỖI DÙNG TỪ
TRONG BÀI VIẾT VĂN MIÊU TẢ CỦA HỌC SINH


LỚP 4 Ở TRƯỜNG THỰC HÀNH SƯ PHẠM,
THÀNH PHỐ CAO LÃNH, ĐỒNG THÁP
SPD 2018.02.31

Xác nhận của Chủ tịch hội đồng
(ký, ghi rõ họ tên)

Đồng Tháp, 5/2019

2

Luan van

Chủ nhiệm đề tài
(ký, họ tên)


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu với tên Khảo sát lỗi dùng từ trong bài
viết văn miêu tả của học sinh lớp 4 ở Trường Thực hành sư phạm, thành phố
Cao Lãnh, Đồng Tháp. Chúng tôi đã nhận được sự cộng tác nhiệt tình của
thầy cơ giáo và các em học sinh. Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
các thầy cô trong khoa Giáo dục, các cô giáo và học sinh trường tiểu học
Thực hành sư phạm. Đặc biệt, tôi vô cùng cảm ơn TS. Trần Đức Hùng, người
đã trực tiếp hướng dẫn chúng tơi để hồn thành đề tài nghiên cứu này.
Chúng tơi xin chân thành cảm ơn!

3

Luan van



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu về phân mơn Tập làm văn
2.2. Tình hình nghiên cứu về lỗi dùng từ
3. Mục tiêu
4. Đối tượng nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Cấu trúc đề tài
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm về từ
1.1.2. Lỗi dùng từ trong tiếng Việt
1.2. Một số vấn đề về lỗi ngôn ngữ
1.2.1. Khái niệm Lỗi ngôn ngữ
1.2.2. Quan điểm về phân tích lỗi
1.2.3. Yêu cầu chung của việc dùng từ trong tiếng Việt
1.3. Chương trình phân mơn Tập làm văn và văn miêu tả lớp 4
1.4. Tâm sinh lí của học sinh tiểu học
1.4.1. Tâm lí của học sinh tiểu học
1.4.2. Khả năng nhận thức của học sinh lớp 4
1.5. Tiểu kết chương 1
CHƯƠNG 2: CÁC LOẠI LỖI DÙNG TỪ, BIỆN PHÁP SỬA LỖI
DÙNG TỪ TRONG BÀI VIẾT VĂN MIÊU TẢ CỦA HỌC SINH LỚP 4

Ở TRƯỜNG THỰC HÀNH SƯ PHẠM, THÀNH PHỐ CAO LÃNH,
ĐỒNG THÁP
2.1. Mục đích, nội dung, địa điểm, phương pháp khảo sát
4

Luan van


2.1.1. Mục đích khảo sát
2.1.2. Thời gian, địa điểm khảo sát
2.1.3. Phương pháp khảo sát
2.2. Giới thiệu về Trường Thực hành sư phạm, thành phố Cao Lãnh
2.3. Kết quả khảo sát
2.3.1. Lỗi dùng từ khơng đúng âm thanh và hình thức cấu tạo
2.3.2. Lỗi dùng từ không đúng nghĩa
2.3.3. Lỗi dùng từ không đúng về quan hệ kết hợp
2.3.4. Lỗi dùng từ không đúng về phong cách văn bản
2.3.5. Lỗi lặp từ, thừa từ
2.4. Tiểu kết chương 2
CHƯƠNG 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐỀ XUẤT CẢI THIỆN THỰC
TRANG LỖI DÙNG TỪ CHO HỌC SINH LỚP 4 Ở TRƯỜNG THỰC
HÀNH SƯ PHẠM, THÀNH CAO LÃNH, ĐỒNG THÁP
3.1. Nguyên nhân mắc lỗi
3.1.1. Nguyên nhân khách quan
3.1.2. Nguyên nhân chủ quan
3.2. Một số đề xuất cải thiện thực trạng lỗi dùng từ trong các bài văn miêu tả
3.2.1. Một số đề xuất nâng cao hiệu quả dùng từ của học sinh
3.2.2. Một số bài tập củng cố và chữa lỗi dùng từ của học sinh
3.3. Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

5

Luan van


MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Nội dung chương trình phân môn Tập Làm Văn lớp 4
Bảng 2.1: Phân loại lỗi từ của học sinh lớp 4, Trường Thực hành sư phạm
Bảng 2.2:Phân loại lỗi dùng từ không đúng nghĩa của học sinh

6

Luan van


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GD: Giáo dục
HS: Học sinh
GV: Giáo viên
VD: Ví dụ
SGK: Sách giáo khoa
TLV: Tập làm văn
LTVC: Luyện từ và câu

7

Luan van



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Dạy - học từ ngữ từ trước đến nay luôn được xác định là một nhiệm
vụ quan trọng trong giáo dục phổ thơng, đặc biệt là trong bộ mơn Ngữ văn. Vai
trị của dạy học từ ngữ trong nhà trường được cụ thể hóa bằng những yêu cầu,
mục tiêu và phương pháp cụ thể gắn liền với nội dung dạy học này. Tuy nhiên,
trên thực tế, hiệu quả dạy - học từ ngữ chưa đáp ứng được những yêu cầu đã
đặt ra. Xoay quanh việc dạy và học từ ngữ còn nhiều vấn đề tồn tại, trong đó
phải kể đến vấn đề về lỗi sử dụng từ ngữ của học sinh trong nhà trường.
1.2. Từ ngữ có vai trị quan trọng trong hoạt động giao tiếp của con
người, trong đó có học sinh tiểu học. Ở tiểu học, học sinh lớp 4 có số lượng
vốn từ phát triển khá phong phú. Nhưng chúng tơi thấy ở lứa tuổi này do trình
độ ngơn ngữ còn hạn chế, vốn tiếng mẹ đẻ còn chưa phong phú, do đặc điểm
lứa tuổi còn chi phối nhiều đến việc tiếp nhận từ của các em…Vì vậy các em
mắc rất nhiều lỗi về dùng từ thuộc nhiều kiểu, dạng lỗi khác nhau với những
nguyên nhân và cơ chế mắc lỗi rất phong phú đa dạng. Một câu hỏi đặt ra với
tôi là làm thế nào để khắc phục được lỗi dùng từ sai của học sinh và liệu có
biện pháp gì giúp các em phịng ngừa được những lỗi thường mắc hay khơng?
1.3. Văn miêu tả có vai trò quan trọng rất lớn đối với học sinh tiểu học.
Viết văn miêu tả giúp HS có thói quen quan sát, biết phát hiện những điều
mới mẻ, thú vị về thế giới xung quanh; biết truyền những rung cảm của mình
vào đối tượng miêu tả; biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, những
câu văn sáng rõ về nội dung, chân thực về tình cảm. Một bài văn hay là một
bài văn mà khi đọc, người đọc thấy hiện ra trước mắt mình: con người, cảnh
vật, đồ vật…cụ thể, sống động như nó vẫn tồn tại trong thực tế cuộc sống.
Như vậy, có thể xem văn miêu tả là một bức tranh về sự vật bằng ngôn từ. Và
để làm tốt một bài văn miêu tả, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng
5


Luan van


hợp của các môn học. Kiến thức của các môn học này cộng với vốn sống thực
tế sẽ giúp học sinh trình bày suy nghĩ của mình một cách mạch lạc và sống
động. Qua đó, bồi dưỡng cho các em tình u q hương đất nước, vốn sống,
vốn ngơn ngữ và khả năng giao tiếp.
1.4. Hiện nay, có nhiều học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp 4 không
hiểu hết được nghĩa của từ đó là một vấn đề cấp thiết cần được quan tâm.
Trên thực tế, không phải bất cứ ai cũng có thể hiểu từ và sử dụng một cách tối
ưu khi nói và viết nhất là học sinh tiểu học. Chúng tôi thấy ở lứa tuổi này do
trình độ ngơn ngữ cịn hạn chế, vốn tiếng mẹ đẻ còn chưa phong phú, do đặc
điểm lứa tuổi còn chi phối nhiều đến việc tiếp nhận từ của các em. Từ việc
không hiểu được hết nghĩa của từ, dẫn đến việc các em gặp khó khăn trong
q trình viết văn bản nói chung và các bài văn miêu tả nói riêng. Do đó, các
bài viết của các em sẽ kém hấp dẫn và thuyết phục.
Xuất phát từ thực tế này, chúng tôi chọn đề tài: “Khảo sát lỗi dùng từ
trong bài viết văn miêu tả của học sinh lớp 4 ở trường tiểu học thực hành sư
phạm thành phố Cao Lãnh Đồng tháp” với mong muốn sửa lỗi dùng từ cho
học sinh sẽ giúp các em dùng từ đúng hơn trong văn bản, trong giao tiếp,
đồng thời giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt và giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu về phân mơn Tập làm văn
Phân môn Tập làm văn được chia thành nhiều kiểu bài khác nhau, mỗi
kiểu bài có vị trí và vai trị nhất định trong việc cung cấp kiến thức cho các
em. Đối với phân môn Tập làm văn ở Tiểu học, văn miêu tả có vị trí đặc biệt
quan trọng. Ở Việt Nam, có khơng ít nhà nghiên cứu đã nghiên cứu đề tài liên
quan đến bài văn miêu tả của học sinh tiểu học.
Năm 2000, tác giả Nguyễn Trí trong cuốn Dạy tập làm văn ở trường

Tiểu học đã nêu những nhận xét khái quát về văn miêu tả: thế nào là văn miêu
6

Luan van


tả? đặc điểm của văn miêu tả và văn miêu tả trong trường Tiểu học. Đồng
thời, tác giả cũng đưa ra phương pháp dạy văn miêu tả ở Tiểu học và một số
kinh nghiệm bài tập làm văn cho tốt.
Năm 2007, tác giả Nguyễn Thị Thư đã có cơng trình nghiên cứu về
Chữa lỗi dùng từ, đặt câu cho học sinh tiểu học lớp 4,5 qua các bài tập làm
văn. Trong khóa luận của mình, tác giả Nguyễn Thị Thư chỉ mới đề cập đến
hai loại lỗi về dùng từ và đặt câu của học sinh lớp 4, 5 ở tiểu học.
Năm 2008, tác giả Đặng Thị Nghiêm đã nghiên cứu về vấn đề Biện
pháp khắc phục lỗi dùng từ sai văn cảnh của học sinh tiểu học.
Năm 2012, Tác giả Hồng Thị Nga đã nghiên cứu về Tìm hiểu những lỗi
thường gặp trong các bài văn miêu tả của học sinh tiểu học. Trong bài nghiên
cứu này tác giả tác giả đã phân loại được 4 lỗi như sau: lỗi về chữ viết, lỗi về
dùng từ ngữ, lỗi câu, lỗi về tổ chức văn bản, đoạn văn bản. Nhưng chưa tìm
hiểu sâu sắc về lỗi dùng từ cho học sinh.
Cũng trong năm 2012, tác giả Nguyễn Thị Hồng Liên đã nghiên cứu về
vấn đề Xây dựng hệ thống bài tập luyện viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4,5.
Trong cơng trình của mình, tác giả đã xây dựng những bài tập luyện viết câu,
luyện viết đoạn văn, luyện viết bài văn. Như vậy, tác giả tập trung vào hệ
thống bài tập văn miêu tả theo các phần cụ thể.
Năm 2013, tác giả Đinh Thị Yến có cơng trình nghiên cứu về Một sô
biện pháp rèn luyện kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4,5 trường tiểu
học Tường Hạ huyện Phú Yên tỉnh Sơn La. Tác giả đã đưa ra một số biện
pháp: Giúp học sinh hiểu rõ đối tượng của văn miêu tả; Rèn kỹ năng quan sát
cho học sinh; Hướng dẫn học sinh tìm ý và lập dàn ý; Hướng dẫn học sinh

tích lũy vốn từ miêu tả và tưởng tượng khi miêu tả; Rèn kỹ năng viết câu,
đoạn trong bài tập làm văn cho học sinh; Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở
bài thân bài kết bài và xây dựng bố cục, Bổ sung vốn hiểu biết và kỹ năng
sống của học sinh, ra đề bài văn miêu tả.
7

Luan van


Như vậy, qua các cơng trình trên, chúng tơi thấy đã có nhiều tác giả
nghiên cứu về vấn đề văn miêu tả của học sinh. Các tác giả tập trung nghiên
cứu các vấn đề: Khái quát về văn miêu tả, đặc điểm văn miêu tả; làm thế nào
để các em viết văn hay hơn, trau chuốt hơn? Đề xuất một số biện pháp, một số
hệ thống bài tập để giúp học sinh luyện viết văn hay hơn.
2.2. Tình hình nghiên cứu về lỗi dùng từ
Trong quá trình phát triển tư duy, xét từ nhiều góc độ khả năng cảm thụ
và sử dụng từ của học sinh tiểu học giữ một vai trị hết sức quan trọng. Bởi vì
vốn từ càng phong phú thì khả năng diễn đạt càng đa dạng. Đã có rất nhiều
tác giả nghiên cứu về vấn đề này.
Năm 1997, hai tác giả Nguyễn Minh Thuyết – Nguyễn Văn Hiệp trong
“Tiếng Việt thực hành” NXB ĐHQG Hà Nội nêu lên một số kiểu lỗi như: “
Lỗi do lặp từ” tác giả đã nêu lên khái niệm lặp từ và các ví dụ phân tích để
thấy lặp từ sẽ làm cho câu văn mất đi giá trị, chứng tỏ sự nghèo nàn về vốn từ
của người viết, người nói, đồng thời tác giả còn đưa ra cách khắc phục là bỏ
từ trùng lặp hoặc thay nó bằng từ đồng nghĩa; “Lỗi dùng từ không đúng
nghĩa” do người viết, người nói khơng nắm được nghĩa của từ, nhất là từ Hán
Việt, ngôn ngữ khoa học, nhầm lẫn từ gần âm, gần nghĩa dấn đến dùng từ
diễn đạt không đúng với nội dung cần thiết; “Lỗi dùng từ không hợp phong
cách” - là lựa chọn từ khơng hợp văn cảnh, hồn cảnh giao tiếp hay thể loại
văn bản dẫn đến sai nội dung văn bản. Bên cạnh đó, các tác giả cịn đưa ra

một số bài tập để phân tích từng loại lỗi.
Năm 1998, nhóm tác giả Bùi Minh Tốn – Lê A – Đỗ Việt Hùng trong
giáo trình Tiếng Việt thực hành, đã nêu lên một số kiểu lỗi về dùng từ trong văn
bản và cách sửa chữa như: “Lỗi về âm thanh và hình thức cấu tạo từ” theo các
tác giả thì “từ” là một đơn vị có nhiều bình diện trong đó khơng thể thiếu mặt âm
thanh và hình thức cấu tạo. Âm thanh và hình thức cấu tạo là mặt vật chất, là cái
biểu đạt của từ. Trong chữ quốc ngữ, thứ chữ theo nguyên tắc ghi âm, âm thanh
và hình thức cấu tạo của từ được ghi lại bằng các chữ cái. Khi viết văn bản cần
8

Luan van


ghi lại đúng âm thanh và hình thức cấu tạo của từ được sử dụng. Nếu không sẽ
không biểu hiện được chính xác và khơng làm cho người đọc văn bản lĩnh hội
được hết nội dung, ý nghĩa một cách chính xác nhất. “Lỗi về nghĩa của từ” - từ
được dùng phải phù hợp với nội dung định thể hiện, phù hợp với đối tượng được
nói đến trong câu; dùng từ cần đạt các yêu cầu: đúng nghĩa biểu vật, biểu niệm,
biểu thái. Đôi khi do không phân biệt nghĩa đen, nghĩa bóng cũng dẫn đến việc
dùng từ sai nghĩa. “Lỗi về kết hợp từ” - là các từ kết hợp nhau không đúng bản
chất ngữ pháp, không đúng quan hệ ngữ nghĩa, dùng từ thiếu hụt từ, thừa các
quan hệ từ, không đúng đặc điểm kết hợp. Dùng từ trong văn bản tránh bệnh sáo
rỗng, công thức - nghĩa là dùng những từ sáo mòn, những chữ sẵn, điệu nói sẵn
như con vẹt bất kể nội dung diễn đạt như thế nào. Bệnh sáo rỗng, công thức tạo
ra những câu văn “đao to búa lớn” mà nội dung chung chung nghèo nàn. Qua đó,
nhóm tác giả đã đưa ra phần lớn các lỗi mà HS thường mắc phải do không nắm
vững kiến thức hay cẩu thả dẫn đến dùng từ.
Năm 2002, các tác giả Hồ Lê (chủ biên) – Trần Thị Ngọc Lang – Tơ
Đình Nghĩa trong “Lỗi dùng từ và cách khắc phục” Nxb KHXH đã chỉ ra lỗi
từ vựng thường gặp và cách khắc phục bao gồm: “Lỗi viết sai âm gây ra

những lẫn lộn về nghĩa”; “Lỗi do hiểu sai nghĩa từ” trong đó có các từ bị hiểu
sai nghĩa hoàn toàn hoặc sai một phần; “Lỗi do sự phối hợp nghĩa một số từ
không khớp hoặc bị trùng lặp”. Các tác giả đã đưa ra các ví dụ cụ thể về từng
loại lỗi và phân tích cái sai của từng ví dụ, đưa ra cách khắc phục. Ngồi ra
các tác giả cịn đưa ra một số bài tập sửa lỗi từ vựng và rèn cách dùng từ sao
cho phù hợp nhất.
Năm 2015, tác giả Võ Thị Hà Giang đã nghiên cứu về Thực trạng lỗi
dùng từ trong bài tập làm văn của học sinh lớp 2, 3 và biện pháp khắc phục.
Năm 2015, tác giả Bùi Thị Thu đã nghiên cứu về: “Lỗi dùng từ của học
sinh lớp 4 nguyên nhân và biện pháp khắc phục”. Trong cơng trình nghiên
cứu tác giả đã đưa ra các căn cứ phân loại lỗi dùng từ: dùng từ đúng âm thanh
và hình thức cấu tạo, dùng từ phải đúng về nghĩa, dùng từ phải đúng về quan
9

Luan van


hệ kết hợp, dùng từ phải thích hợp với phong cách ngơn ngữ của văn bản,
dùng từ phải đúng tính hệ thống của văn bản, cần tránh hiện tượng lập, thừa
từ không cần thiết và sáo rỗng công thức. Bên cạnh đó tác giả đã đưa ra biện
pháp khắc phục lỗi dùng từ cho học sinh lớp 4: xây dựng các bài tập nhằm
sửa chữa, khắc phục lỗi dùng từ sai về nghĩa; dùng từ không đúng quan hệ kết
hợp và dùng từ khơng đúng phong cách.
Nhìn chung, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về văn miêu tả và lỗi
dùng từ của học sinh nói chung, học sinh tiểu học nói riêng. Những cơng trình
nghiên cứu trên đã có những tác động nhất định đối với việc giáo dục cho học
sinh, nhưng chưa có cơng trình nào quan tâm một cách toàn diện về việc chữa
lỗi dùng từ trong văn miêu tả của học sinh tiểu học tại trường thực hành sư
phạm thành phố Cao Lãnh. Do đó, tìm hiểu về thực trạng về “lỗi dùng từ
trong bài viết văn miêu tả của học sinh tiểu học tại trường Thực hành sư phạm

thành phố Cao Lãnh” là một yêu cầu khách quan và cần thiết.
3. Mục tiêu
- Giới thiệu được những cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát được các loại lỗi dùng từ trong bài viết văn miêu tả của học
sinh lớp 4 ở Trường Thực hành sư phạm, thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp.
- Xác định nguyên nhân mắc lỗi và đề xuất cải thiện thực trạng lỗi dùng
từ cho học sinh lớp 4 ở Trường Thực hành sư phạm, thành phố Cao Lãnh,
Đồng Tháp.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là lỗi dùng từ trong bài viết văn
miêu tả của học sinh lớp 4 ở trường Thực Hành sư phạm Thành phố Cao Lãnh
Đồng Tháp.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: chúng tôi sử dụng phương pháp này
nhằm thu thập, phân loại, phân tích, tổng hợp các sách báo, tài liệu, sách giáo
khoa… có liên quan nhằm làm cơ sở lí luận cho đề tài.
10

Luan van


- Phương pháp điều tra: chúng tôi sử dụng phương pháp này để điều tra,
đánh giá thực trạng lỗi dùng từ trong văn miêu tả của học sinh lớp 4 ở trường
Thực hành sư phạm Thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đồng thời, chúng
tơi khảo sát tính khả thi của hệ thống bài tập đã xây dựng.
- Phương pháp thống kê: đây là phương pháp được sử dụng để thống kê,
phân loại các lỗi trong bài viết văn miêu tả của học sinh mà chúng tôi khảo sát
được.
6. Cái mới của đề tài
Lần đầu tiên nội dung khảo sát lỗi dung từ của học sinh Tiểu học trên

địa bàn trường Thực hành sư phạm thành phố Cao lãnh được tìm hiểu, khảo
sát, phân tích, miêu tả: ngun nhân và những biện pháp giải pháp ngôn ngữ
học nhằm hạn chế lỗi dung từ được đề xuất
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài chúng tôi bao gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.
Chương 2: Thực trạng lỗi dùng từ trong bài viết văn miêu tả của học
sinh lớp 4 ở trường Thực hành sư phạm.
Chương 3: Nguyên nhân và đề xuất cải thiện thực trạng lỗi dùng từ cho
học sinh lớp 4 ở trường Thực hành sư phạm.

11

Luan van


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm về từ
Trong cuộc sống hàng ngày, hoạt động giao tiếp của con người cần phải
sử dụng từ ngữ để tạo lập văn bản (nói, viết), để phục vụ những nhu cầu cần
thiết của mình. Thế nhưng con người vẫn chưa biết chính xác thế nào là từ.
Cho đến thời điểm hiện tại, đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này.
Nhưng đa số chỉ đưa ra một số đặc điểm của từ, chưa có một khái niệm hay
định nghĩa chung hoàn chỉnh. Từ là một số các đơn vị nhỏ nhất của ngơn ngữ,
có cấu tạo ổn định, mang nghĩa hoàn chỉnh được dùng để cấu tạo nên câu. Từ
có thể làm tên gọi của sự vật (danh từ), chỉ các hoạt động (động từ), trạng
thái, tính chất (tính từ). Từ là cơng cụ biểu thị khái niệm của con người đối
với hiện thực. Trong ngôn ngữ học, từ là đối tượng nghiên cứu của nhiều cấp

độ khác nhau, như cấu tạo từ, hình thái học, ngữ âm học, phong các học, cú
pháp học…
Từ là ngôn ngữ đã có sẵn, thuộc kho từ vựng của ngơn ngữ và tồn tại
trong tiềm năng ngôn ngữ của mỗi người. Nó là tài sản chung của xã hội. Khi
giao tiếp mỗi người huy động vốn tài sản đó để tạo ra lời nói hoặc văn bản.
Mỗi người có thể có phong cách ngơn ngữ cá nhân, có thể có đóng góp và
sáng tạo trong việc dùng từ. Tuy thế trong giao tiếp cũng như tạo lập văn bản
là một hoạt động xã hội, muốn biểu lộ được chính xác ý tưởng của mình và
muốn người khác lĩnh hội được chính xác ý tưởng đó thì mỗi người phải biết
dùng từ đúng – dùng từ theo những yêu cầu chung. Việc hiểu từ và sử dụng từ
đúng sẽ mang lại hiệu quả cao trong giao tiếp cũng như tạo lập văn bản.
Các nhà ngôn ngữ học đều thừa nhận sự tồn tại hiển nhiên của từ, thừa
nhận tính chất cơ bản trung tâm của từ trong ngôn ngữ nhưng từ đó đi đến
12

Luan van


một định nghĩa thỏa đáng về từ thì đa số đều cảm thấy rất khó. Cái khó trong
việc định nghĩa từ một phần do từ trong các ngôn ngữ khác nhau về loại hình,
khác nhau về nguồn gốc, có những đặc trưng rất khác biệt nhau. Cho nên,
không phải ngẫu nhiên mà có nhiều nhà ngơn ngữ học chủ trương rằng khơng
thể tìm được một định nghĩa về từ có tính chất phổ qt cho các ngơn ngữ
khác nhau về loại hình, thậm chí các ngơn ngữ cùng một nhóm. Vì vậy,
phương châm đúng đắn nhất trong việc xác định từ, trong việc đi tìm một
định nghĩa về từ là một mặt phải chú ý tới những điểm đồng nhất, chú ý tới
tính phổ qt của từ nói chung, mặt khác phải chú ý tới những đặc điểm riêng
của từ trong mỗi ngơn ngữ.
Cho đến hiện nay, chúng ta có thể nhận thấy tồn tại nhiều khái niệm về
từ tiếng Việt. Chúng tôi xin điểm qua một số khái niệm. Dưới đây, chúng tôi

xin nêu ba định nghĩa về từ tiếng Việt:
- Theo tác giả Đỗ Hữu Châu quan niệm: “Từ của tiếng Việt là một hoặc
một số âm tiết cố định, bất biến mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định,
nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất
định lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [8; tr.330-331]. Ở định
nghĩa này, tác giả đã cho ta thấy được từ là một số âm tiết cố định, không thay
đổi đặc điểm ngữ pháp, kết cấu nhất định, kết hợp lại để tạo thành câu. Tác
giả đã nói lên được cấu tạo và đặc điểm ngữ pháp của nó.
- Theo Nguyễn Thiện Giáp: “Từ của tiếng Việt là một chỉnh thế nhỏ nhất
có ý nghĩa dùng để tạo câu nói: nó có hình thức của một âm tiết, một “chữ” viết
rời [4; tr.10]. Đối với Nguyễn Thiện Giáp, ông đã có một định nghĩa ngắn gọn
và súc tích hơn, từ là một chỉnh thể nhỏ, một âm tiết, một chữ được viết rời. Ở
đây tác giả đã tác giả đã có một cách nhìn tổng qt về hình thức của từ.
- Theo tác giả Nguyễn Kim Thản: “Từ là đơn vị cơ bản của ngơn ngữ,
có thể tách khỏi các ngơn ngữ khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập
và là một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa và chức năng ngữ pháp” [dẫn
13

Luan van


theo 12; tr.72]. Với định nghĩa này, chúng ta có thể thấy được từ có tính độc
lập, khơng phụ thuộc, mộ mình nó đã là một khối hồn chỉnh về ngữ âm, ý
nghĩa, chức năng.
Chúng ta có thể thấy hiện nay tồn tại rất nhiều cách hiểu, cách định
nghĩa về từ nói nói chung, cũng như từ Tiếng Việt nói riêng. Những cách hiểu
đó, xuất phát từ những góc nhìn, những quan điểm khác nhau. Nhưng tựu
trung lại, qua các định nghĩa trên, có thể thấy được từ tiếng Việt có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Từ là đơn vị cơ bản của ngơn ngữ (tiếng Việt).

- Từ có hình thức ngữ âm cố định, bất biến và có ý nghĩa.
- Từ có đặc điểm về cấu tạo và ngữ pháp.
- Từ có chức năng tạo câu.
Như vậy, để thuận tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi thống nhất cách
hiểu về từ theo định nghĩa của tác giả Đỗ Hữu Châu: “Từ của tiếng Việt là một
hoặc một số âm tiết cố định, bất biến mang những đặc điểm ngữ pháp nhất
định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa
nhất định lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. Đây là định nghĩa
đang được nhiều người quan tâm và sử dụng nhiều nhất.
1.1.2. Đặc điểm của từ Tiếng Việt
1.1.2.1. Đặc điểm về ngữ âm
Hình thức âm thanh của từ tiếng Việt cố định, bất biến ở mọi vị trí, mọi
quan hệ và chức năng trong câu. Tính cố định, bất biến có mối quan hệ mật
thiết với tính độc lập tương đối cao của từ tiếng Việt đối với câu, với ngơn
cảnh. Có thể nói ở các ngơn ngữ biến hình, với những mức độ khác nhau, chỉ
có các “từ - cú pháp” mà khơng có các từ “phi cú pháp”. Các từ tiếng Việt
khác hẳn. Chúng ta có từ sách nói chung, từ sách khơng mang trong lịng
mình bất cứ một dấu vết nào của các quan hệ, các chức năng cú pháp.

14

Luan van


Thuật ngữ ngơn cảnh được hiểu là hồn cảnh ngơn ngữ trực tiếp của từ
như lời nói miệng, bài, đoạn, câu và các từ ngữ khác chung quanh nó. Cần
phân biệt với ngữ cảnh là hoàn cảnh tổng quát của một hành vi giao tiếp.
Trong tiếng Việt cũng như trong tất cả các ngơn ngữ khác - và có thể trong
tiếng Việt thì nhiều hơn - có khơng ít những từ mà hình thức âm thanh gợi tả
cái mà nó biểu thị: đó là các từ tượng thanh, những từ mà hình thức âm thanh

của nó mơ phỏng âm thanh của tự nhiên. Không kể những từ như ầm ầm, ào
ào, vù vù, vi vu, róc rách, líu lo... là từ tượng thanh chân chính trực tiếp miêu
tả âm thanh, các từ như (con) bị, (con) mèo, (con) chút chít (đồ chơi của trẻ
em có miệng sáo); cạch (bắn súng cối: “cẩn thận khơng chúng nó cạch cho vài
quả cối bây giờ!”) cũng là tượng thanh, mặc dù chúng chỉ tồn bộ một sự vật,
hoạt động chứ khơng chỉ miêu tả riêng âm thanh do các sự vật, hoạt động đó
phát ra.
Những từ này là “tượng thanh” được là vì thể chất vật chất của ngôn
ngữ (tức thể chất âm học - thính giác) trùng làm một với tồn bộ hoặc một bộ
phận thể chất vật chất của cái được biểu thị thể chất (âm thanh tự nhiên). Nói
như thế cũng tức là nói: điều kiện để cho một từ có thể “gợi tả”, mơ phỏng sự
vật, hiện tượng là thể chất vật chất của từ phải trùng hợp với thể chất vật chất
(toàn bộ hay bộ phận) của sự vật, hiện tượng.
1.1.2.2. Đặc điểm về ngữ pháp
Đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt không được thể hiện ở hình thức
ngữ âm của từ mà chỉ biểu lộ trong cụm từ, trong câu khi từ kết hợp với các từ
khác ở trước và sau nó. Ví dụ từ cây khi đứng một mình thì khơng có dấu hiệu
nào biêu hiện đặc điểm ngữ pháp của nó. Khi tham gia vào việc tạo câu, từ
cây cũng khơng biến đổi hình thức ngữ âm để thể hiện các đặc điểm từ loại.
Chỉ có thể biết được đăc điểm ngữ pháp của nó khi có sự kết hợp với các từ
khác. Chẳng hạn trong câu Chẳng mấy chốc, mà ông đã cày xong thửa ruộng.
Từ cày kết hợp với phụ từ đã ở trước chứng tỏ nó mang đặc điểm ngữ pháp
15

Luan van


của động từ. Tuy nhiên trong các tổ hợp lưỡi cày, cày chia vơi thì từ cày lại
mang đặc điểm ngữ pháp của danh từ.
Cùng với đặc điểm ý nghĩa, đặc điểm ngữ pháp có vai trị quyết định

trong sự kết hợp từ thành cụm từ, thành câu. Nếu sự kết hợp không tương ứng
với đặc điểm ngữ pháp của từ thì sẽ mắc cả lỗi dùng từ và lỗi về đặt câu.
Ví dụ: Hằng ngày cơ đến trường bằng bộ quần áo giản dị.
Ở câu này từ bằng dùng không đúng với đặc điểm ngữ pháp. Bằng là
quan hệ thường được dùng trước danh từ biểu thị một phương tiện hay cách
thức hoạt động do động từ biểu thị. Ở đây bộ quần áo không phải là phương
tiện hay cách thức hoạt động đến trường mà nó được nêu ra để nói về phong
cách, đức đọ của cơ giáo. Do đó, dùng từ bằng là sai, phải thay bằng từ với
mới phù hợp. Có thể chữa Hằng ngày cơ đến trường với bộ quần áo giản dị.
1.1.2.3. Đặc điểm về cấu tạo
Do trong tiếng Việt, hình vị, từ, cụm từ và câu…về mặt ngữ âm đều là
những âm tiết tổ hợp âm tiết, cho nên việc nhận thức một âm tiết hoặc một tổ
hợp âm tiết nào đó có phải là từ hay khơng có ý nghĩa cực kì quan trọng đối
với việc sử dụng từ và lĩnh hội ý nghĩa của câu nói.
Ví dụ: Câu sau đây: “Cái xe đạp nhẹ lắm!”. Có thể hiểu 2 cách: thứ
nhất câu này vừa nhận xét đánh giá về trọng lượng của cái xe đạp, thứ hai câu
này vừa nhận xét vừa đánh giá về đặc điểm vận hành của một cái xe đạp nào
đấy. Theo nghĩa thứ nhất chúng ta hiểu là cái xe đạp nặng tầm 5, 6kg trở lại.
Theo nghĩa thứ hai chúng ta hiểu cái xe đạp đó khi đạp khơng tốn nhiều sức,
ít mệt người, mặc dù trọng lượng thực của nó có vẻ khơng nhẹ.
Hiểu theo cách nào là tùy thuộc vào chúng ta nhận thức tổ hợp âm tiết
xe đạp là một từ (và do đó phát âm liên tục) hay là một cụm từ xe đạp (do đó
có thể phát âm ngắt giọng ở giữa).
Như thế cùng với đặc điểm ngữ pháp, đặc điểm cấu tạo cũng là một
thành phần hình thức góp phần xác định từ và nghĩa của từ.
16

Luan van



Nhận thức tư cách từ và đặc điểm cấu tạo của một tổ hợp âm thanh nào
đó là:
- Nhận thức xem tổ hợp âm thanh đó đã đủ tư cách là từ hay chưa, hay
chỉ là một yếu tố cấu tạo từ, hay chỉ là một tổ hợp của hai hay ba từ…
- Nếu đã là từ thì nó do những yếu tố nào tạo nên và được tạo ra theo
phương thức nào.
Điều đáng chú ý là, về nguyên tắc, cấu tạo từ là những vận động trong
lịng một ngơn ngữ. Vận động cấu tạo từ sản sinh ra không phải chỉ một từ
riêng lẻ mà sản sinh ra hàng loạt từ cùng một kiểu.
Có thể nói rằng, trong tiếng Việt, các yếu tố cấu tạo từ là những hình
thức ngữ âm có ý nghĩa nhỏ nhất - tức là những yếu tố không thể phân chia
thành những yếu tố nhỏ hơn nữa mà cũng có nghĩa - được dùng để cấu tạo ra
các từ theo phương thức cấu tạo từ tiếng Việt. Chúng ta gọi các yếu tố đặc
điểm trên và chức năng trên bằng thuật ngữ quốc tế: hình vị (ví dụ như: xe,
áo, người, bịch, đét, học…).
1.2. Một số vấn đề về lỗi ngôn ngữ
1.2.1. Khái niệm về lỗi ngơn ngữ
Lỗi ngơn ngữ thường được nhìn nhận, đánh giá với những quan điểm
khơng giống nhau.
Nhìn từ góc độ cấu trúc và hành vi luận, lỗi ngôn ngữ thường được xem
là biểu hiện của nhận thức kém hoặc chưa đầy đủ về quy luật ngôn ngữ. Lỗi
ngôn ngữ gắn liền với việc học ngôn ngữ, do không nắm được cấu trúc ngôn
ngữ, đặc biệt là quy tắc hành chức của ngôn ngữ. Lỗi là biểu hiện lệch chuẩn.
do vậy lỗi ngon ngữ là không thể chấp nhận, phải được ngăn chặn bằng mọi
cách trong trường học.
Nhìn từ góc độ chức năng, ngôn ngữ được tạo ra gắn liền với giao tiếp
của từng cá nhân trong xã hội, cho nên lỗi ngơn ngữ là chuyện bình thường.
Có thể hình dung lỗi ngôn ngữ là chuyện thường ngày mà ai cũng có thể mắc
17


Luan van


khi nói năng giao tiếp. Trong giao tiếp bằng lời, ngơn ngữ được sử dụng ở
dạng nói là tự nhiên nhất phản ánh thói quen con người khác với ngơn ngữ
không tự nhiên khi sử dụng trong viết lách. Do vậy, người ta cho lỗi đó là
bình thường, miễn là người nói diễn đạt được điều định nói và người nghe
hiểu được ý người nói.
Lỗi có thể được nhìn từ góc độ ngơn ngữ học tâm lí. Nhiều nhà ngơn
ngữ cho rằng lỗi gắn liền với tâm lí, gắn với sự phát triển thể chất con người.
Ở một khía cạnh nhất định, lỗi gắn liền với nhận thức, tri thức về ngơn ngữ
qua từng thời kì phát triển lứa tuổi. Trẻ càng phát triển thì lỗi ngơn ngữ càng
giảm dần. Yếu tố tâm lí là một trong những nguyên nhân gây nên lỗi.
Như vậy, về lí luận, dù nhìn từ góc độ nào chúng ta cũng thấy lỗi đi liền
với vấn đề sử dụng ngơn ngữ. Có thể nói đối với các ngôn ngữ và đối tượng
học sinh học ngôn ngữ đó, ở mức độ nhiều hay ít lỗi ln luôn song hành với
người dùng và biểu hiện rõ nhất là ở đối tượng học sinh.
Đối với đối tượng học sinh học tiếng thì người ta thường phân biệt hai
đối tượng mắc lỗi khác nhau. Lỗi đối với học sinh bản ngữ học tiếng mẹ đẻ
của mình. Và lỗi của học sinh học ngôn ngữ thức hai – ngoại ngữ. Thường lỗi
của hai đối tượng này là khác nhau. Nguyên nhân của lỗi cũng khác nhau cho
nên cách chữa lỗi cũng khác nhau.
Đối với người học tiếng bản ngữ - tiếng mẹ đẻ, lỗi sử dụng ngơn ngữ có
thể xảy ra với nhiều hình thức với các loại đơn vị ngơn ngữ, các phương tiện,
cấp độ khác nhau. Có thể đó là lỗi chính tả chữ viết, có thể là lỗi từ vựng, có
thể là lỗi ngữ pháp...
Nguyên nhân của lỗi ngơn ngữ thường rất phức tạp, có thể về cấu trúc
ngơn ngữ, có thể do thói quen, có thể do nhận thức. Lỗi có thể có những loại
lỗi chung với nhiều người lại có thể có những lỗi chỉ đến với từng cá nhân.
Song người ta thường chú ý đến hai loại lỗi, do nhận thức, hiểu biết về ngôn


18

Luan van


ngữ, nhất là quy tắc sử dụng ngơn ngữ đó và lỗi do thói quen, đặc bieekt là
thói quen của dân từng vùng phương ngữ.
Vậy lỗi ngơn ngữ là gì? Theo Cao Xuân Hạo: “Lỗi của người học trong
khi nói hoặc viết là hiện tượng sử dụng một đơn vị ngôn ngữ (một từ, một đơn
vị ngữ pháp, một hành động dạng lời nói) bằng cái cách mà người bản ngữ,
người giỏi thức tiếng đó cho là sai, là lệch chuẩn hoặc chưa đầy đủ”.
1.2.2. Quan điểm về phân tích lỗi
Theo nhiều nghiên cứu về lỗi ngôn ngữ xuất hiện từ những năm 30 của
thế kỷ XX và trải qua nhiều giai đoạn phán triển với những khuynh hướng
khác nhau. Dưới đây, chúng tôi xin khái quát ba lý thuyết cơ bản trong lịch sử
nghiên cứu lỗi ngôn ngữ.
1.2.2.1. Thuyết hành vi
Thuyết hành vi hình thành và phát triển với những cái tên tiêu biểu như
Watson, Skinner. Lý thuyết hành vi gắn liền với hai khái niệm thói quen và lỗi.
Khái niệm thói quen theo các nhà nghiên cứu ở trường phái này xuất
hiện trong q trình thụ đắc ngơn ngữ của con người cả khi học tiếng mẹ đẻ
và khi học ngơn ngữ thứ hai. Thói quen hình thành khi có một kích thích dẫn
đến một phản ứng thơng qua bắt chước và phản xạ.
Lỗi trong thuyết hành vi là hệ quả của những chuyển di tiêu cực trong
quá trình giao thoa giữa thói quen ngơn ngữ cũ và thói quen ngơn ngữ mới.
Thuyết hành vi cho rằng, lỗi là một hiện tượng khơng chấp nhận được. Tuy
nhiên, nó đã bị loại bỏ triệt để bằng những quan điểm khác nhau do N.
Chomsky đưa ra. Ông cho rằng con người chắc chắn phải có một loại khả
năng bẩm sinh nhất định có thể hướng dẫn các khả năng tạo câu và giúp cho

một đứa trẻ có khả năng thụ đắc ngữ pháp của một ngôn ngữ cho đến khi
chúng 5 hoặc 6 tuổi. Và ông gọi khả năng này là “ngữ pháp phổ quát” và cho
rằng đây chính là khả năng của con người mà ngôn ngữ học nhằm mục đích
theo đuổi.
19

Luan van


1.2.2.2. Khuynh hướng phân tích đối chiếu
Khuynh hướng phân tích đối chiếu ra đời vào những năm 40 và kéo dài
đến những năm 60 của thế kỷ XX với những cái tên như C. Fries, R.Lado…
Khuynh hướng này có một số những đặc trưng sau:
Thứ nhất, khuynh hướng này dựa trên quan điểm của lý thuyết hành vi
coi việc thụ đắc ngơn ngữ là hình thành một thói quen.
Thứ hai, khuynh hướng này cũng giống như lý thuyết hành vi cho rằng
lỗi xuất hiện do chuyển di tiêu cực của q trình giao thoa hai ngơn ngữ mà
khơng có những nguyên nhân khác.
Thứ ba, khuynh hướng này cũng cho rằng lỗi là sự thể hiện không
thành công và cần phải loại trừ.
Thứ tư, khuynh hướng này so sánh hai hệ thống ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ
và ngôn ngữ thứ hai) để tìm ra những điểm khác nhau nhằm tiên đốn và ngăn
chặn lỗi.
1.2.2.3. Khuynh hướng phân tích lỗi
Khuynh hướng phân tích lỗi ra đời vào cuối những năm 60 với những
cái tên tiêu biểu S.P. Corder, Selinker, William Nemser, E.Tarone…
Khuynh hướng phân tích lỗi đi vào nghiên cứu và phân tích các lỗi do
người học ngơn ngữ gây ra hay là quá trình xác định sự tác động, bản chất và
nguyên nhân cũng như kết quả của việc học ngôn ngữ khơng hiệu quả.
Khuynh hướng phân tích lỗi cho rằng lỗi là cái gì đó “khơng thể thiếu được”

vì mắc lỗi có thể được coi là một cách thức mà người học dùng thụ đắc ngôn
ngữ đặc biệt là trong q trình học ngơn ngữ thứ hai.
Khuynh hướng phân tích lỗi được S. P. Corder khái quát thành ba giai
đoạn: nhận diện lỗi, miêu tả lỗi, giải thích lỗi.
Nhận diện lỗi là việc người dạy đặt giả định rằng tất cả các câu của
người học đều có thể sai sau đó xác minh giả định đó là đúng hay sai.

20

Luan van


Ở giai đoạn này, chúng ta có ba loại lỗi: lỗi trước hệ thống, lỗi sau hệ
thống, lỗi hệ thống. Trong giai đoạn miêu tả lỗi giáo viên cần chỉ cho người
học thấy được những lỗi mà họ đã mắc phải thông qua so sánh hai câu sai và
đúng đã tạo dựng được ở giai đoan một.
Giải thích lỗi có thể thực hiện theo hai cách: theo lý thuyết hành vi coi
đó là những chuyển di tiêu cực của tiếng mẹ đẻ hoặc coi nó là một bộ phận tất
yếu của q trình tri nhận ngơn ngữ.
Theo khuynh hướng phân tích lỗi, có hai cách phân loại:
- Phân loại lỗi dựa vào nguồn gốc có lỗi giao thoa và lỗi tự ngữ đích.
- Phân loại lỗi dựa vào các đơn vị ngữ pháp: cách thức tiến hành là đi
miêu tả ngữ pháp của các lỗi. Đây là cách phân loại mà các cơng trình thực
nghiệm về phân tích lỗi thường tiến hành. Luận văn của chúng tôi cũng triển
khai theo hướng phân loại lỗi này.
Nguyên nhân mắc lỗi theo khuynh hướng phân tích lỗi xuất phát từ
chiến lược của người học bao gồm chiến lược học và chiến lược giao tiếp.
Chiến lược học bao gồm chuyển di và vượt tuyến. Chuyển di là chiến lược mà
người học vận dụng những tri thức của tiếng mẹ đẻ vào để học ngôn ngữ đích.
Vượt tuyến là việc người học sử dụng những tri thức đã có hoặc tri thức suy

đốn trong q trình tri nhận ngơn ngữ để phát triển năng lực ngơn ngữ của
mình dẫn đến vượt ra khỏi phạm vi của ngôn ngữ.
Trên đây là một vài khái quát về các khuynh hướng nghiên cứu lỗi ngơn
ngữ. Trong đó, chúng tơi nghiêng về những giả thuyết của khuynh hướng phân
tích lỗi và coi đây là cơ sở lý thuyết trong quá trình thực hiện đề tài.
Theo ý kiến của Gs Nguyễn Văn Hiệp và Gs Nguyễn Minh Thuyết
trong các văn bản thường mắc phải các loại lỗi sau:
+ Lỗi lặp, thừa từ
+ Lỗi thiếu từ
+ Lỗi dùng từ sai nghĩa
21

Luan van


+ Lỗi sai về phong cách
Với tác giả Hoàng Anh lại chia thành 4 loại lỗi:
+ Lỗi về phong cách
+ Lỗi về nghĩa của từ
+ Lỗi về kết hợp từ
+ Lỗi về lặp từ
Qua cơng trình nghiên cứu Phạm Thị Hồng Vân đã khảo sát được các
loại lỗi sau:
+ Dùng từ sai nghĩa
+ Dùng từ sai kết hợp
+ Dùng từ sai phong cách
+ Lỗi lặp từ, thừa từ
+ Một số lỗi khác: sai quy chiếu, tự tạo từ mới, dùng từ địa phương, sai
trật tự từ…
Như vậy, có rất nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia lỗi dùng

từ, mỗi quan điểm có ưu nhược điểm riêng. Đề tài này chúng tôi dựa vào “yêu
cầu chung của việc dùng từ” làm căn cứ phân loại. Bao gồm các yêu cầu cơ
bản sau:
+ Dùng từ phải đúng âm thanh và hình thức cấu tạo.
+ Dùng từ phải đúng về nghĩa.
+ Dùng từ phải đúng về quan hệ kết hợp.
+ Dùng từ phải thích hợp với phong cách ngơn ngữ của văn bản.
+ Dùng từ phải đảm bảo tính hệ thống của văn bản.
+ Dùng từ cần tránh hiện tượng lặp, thừa từ không cần thiết và bệnh sáo
rỗng công thức.
1.2.3. Yêu cầu chung của việc dùng từ trong Tiếng Việt
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia lỗi dùng từ, mỗi
quan điểm có ưu nhược điểm riêng. Đề tài này tôi dựa vào “yêu cầu chung
của việc dùng từ” làm căn cứ phân loại. Bao gồm các yêu cầu cơ bản sau:
22

Luan van


×