Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ NGHỆ THUẬT TUỒNG – HÁT BỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.97 KB, 40 trang )

BỘ VĂN HOÁ THỂ THAO VÀ DU LỊCH
NHẠC VIỆN TP HỒ CHÍ MINH
------------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
NGHỆ THUẬT TUỒNG – HÁT BỘI

Sinh viên thực hiện: Nhóm 06
GVDH: Th.S Đào Thị Nhu Mỳ

TP Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2022


MỤC LỤC
SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT TUỒNG – HÁT BỘI .. 3

I.
1.

Khái niệm ................................................................................................................... 3

2.

Tên gọi ........................................................................................................................ 3

3.

Nguồn gốc – Quá trình hình thành và phát triển................................................... 4

II.


a.

Thời kỳ phôi thai - thời Tiền Lê.............................................................................. 4

b.

Thời kỳ phát triển - thời nhà Lý Trần ..................................................................... 4

c.

Thời kỳ suy vi – thời nhà Hồ .................................................................................. 4

d.

Thời kỳ từ thế kỷ XVII – XVIII ............................................................................. 5

e.

Thời triều Nguyễn - thế kỷ XIX.............................................................................. 5

f.

Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945 ................................................................. 6

g.

Thời kỳ sau năm 1945 đến nay ............................................................................... 6

ĐẶC ĐIỂM SÂN KHẤU NGHỆ THUẬT .................................................................... 7


1.

Kịch bản ..................................................................................................................... 7

2.

Hệ thống nhân vật ..................................................................................................... 7
a.

Mơ hình Kép ........................................................................................................... 7

b.

Mơ hình Đào ........................................................................................................... 8

c.

Mơ hình Tướng ....................................................................................................... 9

d.

Mơ hình u đạo .................................................................................................... 9

e.

Mơ hình Nịnh .......................................................................................................... 9

f.

Mơ hình Lão .......................................................................................................... 10


3.

Sân khấu .................................................................................................................. 10

4.

Phục trang................................................................................................................ 11

5.

Hố trang ................................................................................................................. 12

6.

Đạo cụ....................................................................................................................... 14

7.

Điệu bộ - Động tác - Biểu cảm................................................................................ 15
a.

Đôi mắt: ................................................................................................................ 16


b.

Điệu bộ tay: ........................................................................................................... 16

c.


Điệu bộ chân: ........................................................................................................ 17
Vũ đạo ...................................................................................................................... 17

8.

III. ĐẶC ĐIỂM ÂM NHẠC TUỒNG – HÁT BỘI ............................................................ 19
1.

Thang âm ................................................................................................................. 19

2.

Giai điệu ................................................................................................................... 21

3.

Ngữ khí – Kỹ thuật Thanh nhạc ............................................................................ 22

4.

Tiết tấu ..................................................................................................................... 23

5.

Làn điệu ................................................................................................................... 25
a.

Làn điệu Xướng .................................................................................................... 25


b.

Làn điệu Hát .......................................................................................................... 28

c.

Bài lẻ ..................................................................................................................... 35

6.

Dàn nhạc Hát Bội .................................................................................................... 35
a.

Bộ gõ ..................................................................................................................... 36

b.

Bộ hơi .................................................................................................................... 37

c.

Bộ dây ................................................................................................................... 37

IV. NGHỆ THUẬT TUỒNG – HÁT BỘI NGÀY NAY .................................................... 38

2


I.


SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT TUỒNG – HÁT BỘI

1. Khái niệm
Tuồng – Hát Bội là nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam có lối kịch hát cách điệu
cao, có nhạc đệm. Tuồng – Hát Bội là một kiểu sân khấu tự sự, trình bày nỗi lịng của nhân
vật, diễn biến tình cảm của nhân vật, chú ý đặc tả con người bằng hành động và điệu bộ
sân khấu.
Đặc điểm chung của Tuồng – Hát Bội là tính kịch, tính bi hùng, mang theo những tấm
gương nhân vật tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của
con người giữa cái chung và cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng là một đặc
trưng thẩm mỹ của nghệ thuật Tuồng – Hát Bội. Có thể nói đây là sân khấu của những
người anh hùng. Loại hình này khác biệt với cải lương xã hội, cải lương Hồ Quảng (cải
lương tuồng cổ), thoại kịch, opera là những hình thức diễn xướng sân khấu mới ra đời trễ
và được chuộng hơn.
2. Tên gọi
Tuồng còn được gọi là “Hát Bộ” hoặc “Hát Bội”. Tên gọi “Tuồng” phổ biến ở miền
Bắc và được giới nghiên cứu sân khấu gọi chung trong những tài liệu đã được xuất bản.
-

Theo Giáo sư Đồn Nồng trong cuốn «Sự tích và Nghệ thuật Hát Bộ», “Bộ” nghĩa
là bước đi, đi bộ; “hát bộ” nghĩa là vừa hát vừa đi, và làm bộ tịch để biểu diễn cảm
giác, cảm tình với câu hát. Khơng một thể loại nào nhiều điệu bộ bằng hát tuồng.
Hát nói, hát xẩm, hát xoan, hát trống quân, ca Huế, hát giã gạo, hát chèo đò, chỉ
dùng câu hát với giọng đàn, người hát không làm điệu bộ, cho đến cả nét mặt cũng
thản nhiên, vì thế, người ta gọi là “tuồng hát bộ” để tôn cái đặc sắc ấy lên.

-

Theo tác giả Trần Văn Khải trong cuốn «Nghệ thuật sân khấu Việt Nam», ông nhận
định trong điệu hát này việc gì cũng “gia bội” - thêm lên. Một người tướng có tính

nóng thường vẽ mặt rằn rực q dữ, bộ tịch hung hăng, nói năng nóng nảy. Thật
ra, tướng hồi xưa đâu có những cử chỉ, ngơn ngữ và mệt mày quá hung tàn như thế.
Nhưng muốn cho khán giả dễ thấy tính cách bên trong của vai tuồng, nên diễn viên
phải gia tăng điệu bộ và hóa trang cách hung bạo như vậy. Tiếng “Hát Bội” do chữ
“Bội” trong gia bội, bội nhị mà ra, nghĩa là “thêm bằng hai, bằng ba”.

Hai danh từ “Hát Bội” và “Hát Bộ” đã làm cho nhiều người phân vân vì khơng biết
phải gọi như thế nào cho đúng. Nhưng dù là “hát bội” hay “hát bộ”, trong dòng chảy lịch
3


sử nghệ thuật dân tộc, đây vẫn là loại hình biểu diễn cổ truyền độc đáo được hình thành
trên cơ sở ca, vũ, nhạc và các trò diễn xướng dân gian.
Trong bài tiểu luận này, nhóm 6 xin được sử dụng tên gọi “Tuồng - Hát Bội” – bởi tên
gọi này thân thuộc và được sử dụng phổ biến hơn trong thời nay.
3. Nguồn gốc – Quá trình hình thành và phát triển
Hát Bội có nguồn gốc từ lối hát “Thần hí” trong tục cúng thần, cúng tổ tiên của người
Việt từ thời xưa. Lối hát này có dấu vết xuất xứ trong những hình thức diễn trị, hát nghi lễ
trong dân gian như hát Xuân Phả (Thanh Hóa - mang mặt nạ múa hát), trị Trám, trị Cờ
người (tích Thánh Gióng, thần Tản Viên), hát Xoan,…cho thấy nghệ thuật biểu diễn sân
khấu của dân tộc của Việt Nam đã có từ rất sớm nhưng nằm trong dạng ca múa nhạc (thể
hiện trên trống đồng).
a. Thời kỳ phôi thai - thời Tiền Lê
Hình thức ca – diễn đầu tiên được ghi chép trong sử là trò hề của Liễu Thủ Tâm. Trò
diễn này gồm các trò vui kể lại sự tích các nước và truyện Tam Quốc, có con hát vẽ mặt và
những người làm trò vui cho các quan, khách trong triều xem.
b. Thời kỳ phát triển - thời nhà Lý Trần
Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta ở hậu bán thế kỷ XIII, vào năm 1285 Ất Dậu,
quân ta đại phá quân Nguyên ở trận Tây Kết, bắt được một Kép hát tên là Lý Nguyên Cát
vốn là diễn viên hí kịch Trung Quốc, giữ lại và lập một ban hát giúp vui cho vua quan nhà

Trần. Lý Nguyên Cát dựa theo các truyện cổ làm ra các tuồng tích hát theo điệu phương
Bắc. Thời kỳ này múa hát, diễn trò cũng đang được nhà Trần ưa chuộng, yêu thích nên ban
hát của Lý Nguyên Cát gặp thời cơ thuận lợi, phát triển mạnh mẽ với nhiều lý do: lối đóng
tuồng mới lạ, có các bài nam (kép) - nữ (đào) vừa hát vừa múa diễn các điệu bộ theo từng
vai trị trong sự tích, cốt truyện cổ, hóa trang đẹp, y phục lộng lẫy, giọng hát hòa hợp với
âm nhạc, dễ gây cảm xúc lòng người.
c. Thời kỳ suy vi – thời nhà Hồ
Cuối thời nhà Trần, từ đời nhà Hồ (1400 – 1407), đầu thế kỷ XV trở về sau, khơng có
sử sách nào ghi lại những cuộc diễn trò Hát Bội cả. Nhà Hồ cũng chỉ phiên chế ca nhạc,
múa vũ điệu. Nhà Lê (1428 – 1788) sau mười năm gian khổ, trường kỳ kháng chiến chống
giặc Minh, các vua Lê chú trọng đến ổn định chính tình. Vua giao cho quan Thái thuờng

4


cai quản Triều nhạc (âm nhạc cung đình), cịn Dân nhạc (âm nhạc dân gian) thì do Giáo
phường trơng coi, chú ý vào nghi lễ chứ khơng thấy trình diễn Hát Bội vui chơi.
d. Thời kỳ từ thế kỷ XVII – XVIII
Đến cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII, Hát Bội mới trở thành một nghệ thuật sân
khấu hoàn chỉnh với đầy đủ những luật lệ, quy tắc và bài bản.
Ảnh hưởng bởi tình hình của đất nước thời bấy giờ, Hát Bội thời kỳ này bị phân tán
khắp nơi, từ cung đình lan ra ngồi dân chúng, nhưng không tàn lụi. Miền Bắc gọi là Hát
Tuồng, từ Thanh Hoá trở vào miền Trung gọi là Hát Bộ, miền Nam lại gọi bằng Hát Bội.
Nghệ thuật Hát Bội phát triển ở Đàng Trong khá mạnh. Vì vốn được nhân dân yêu
mến, phổ biến rộng rãi trong nhân dân, lại được chính quyền chúa Nguyễn chủ trương phát
triển để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của họ nên nghệ thuật Hát Bội đã tiến lên một bước
mới rực rỡ. Ở Đàng Ngồi thì nghệ thuật này vẫn được phát triển trong dân gian.
Thời kỳ này, Đào Duy Từ (1571 – 1634) đã giúp chúa Nguyễn sửa sang các lễ nghi có
hát múa điệu múa cổ, phổ biến trong dân gian, đặt ra những điệu múa mới như Song Quang
nữ tướng xuất quân. Do đó, Hát Bội phát sinh ở Bình Định, coi nơi đây là cái nơi Hát Bội

của miền Trung.
e. Thời triều Nguyễn - thế kỷ XIX
Đây là giai đoạn hưng thịnh của nghệ thuật Hát Bội vì được sự ưa chuộng của vua và
giới quý tộc, dưới thời Lê Văn Duyệt, tổng trấn Gia Định thành. Ngay cả ở các vùng hẻo
lánh miền Tây Nam Bộ cũng có tuồng hát bội trình diễn ngồi trời hay trong đình làng.
Xuống các tỉnh miền Tây các đồn hát bội di chuyển bằng ghe thuyền, gánh hát bội vì thế
cũng được gọi là “ghe hát bội”.
Năm Minh Mạng thứ 7 (1824 - 1826), trên nền cũ của nhà hát Thanh Phong đường,
vua cho xây dựng nhà hát đầu tiên của Việt Nam gọi là Duyệt Thị Đường. Từ 1847 đến
1880, vua Tự Đức cho lập ban Hát bội cung đình có đến 300 đào kép giỏi, chọn quan giỏi
vào cung soạn tuồng. Vua Thành Thái (1889 - 1909) rất mê hát bội, có lần vua cùng đóng
tuồng ra diễn.
Người có cơng nhiều nhất trong việc phát triển hát bội bấy giờ là cụ Đào Tấn (1844 1907). Ông làm quan dưới thời vua Tự Đức, Thành Thái, được giao phó soạn tuồng đến 20
vở và lập trường dạy hát có tên là Học Bộ Đình.
Những vở tuồng nổi tiếng thời kỳ này có thể kể đến:
5


-

Tuồng cung đình: Vạn Bửu trình tường (với 100 hồi, phải diễn 100 buổi), Quần
phương hiến thụy (phải diễn đến 40 buổi), Quần phương học lâm, Bình Địch, Đãng
Khấu Chí, Võ Nguyên Long,..

-

Tuồng dân gian: Cổ thành Diễn võ đình, Hộ sanh đàn, Hoàng Phi Hổ quá quan,
Trầm hương các,,…

-


Ngoài ra cịn có nhiều vở đặc sắc khác như Tuồng được viết từ truyện Nôm (Kim
Vân Kiều; Lục Vân Tiên; Nhị Độ Ma; Phạm Công - Cúc Hoa,..), Tuồng châm biếm
xã hội (Ngao, sò, ốc, hến; Trần Bồ; Trương Ngáo; Nghĩa Hổ; Trường Đồ Nhục;…),
Tuồng tích sử Việt (Trưng Nữ Vương; Nga Mao Oán; Đông A song phụng;…),…

Ở miền Nam, Tả quân Lê Văn Duyệt đã giao cho Nhứt Chiêu lập và chỉ huy mội ban
hát gồm những nghệ sĩ tiền bối, lão luyện, nuôi gánh hát riêng trong trấn phủ, dân chúng ở
xung quanh phiên trấn cùng hưởng thu vui nên dân chúng rất mến mộ ông.
f. Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945
Hình thành loại Tuồng lãng mạn, mang nội dung mới, có nhiều ảnh hưởng và mang
nội dung thời đại, xã hội đương thời như Tuồng Xuân nữ, Tuồng Cải lương,…
Đến khoảng năm 1925 – 1945, Hát Bội bị phân hoá bởi những ảnh hưởng của Cải
Lương của miền Nam và phong trào Kịch nói ở miền Bắc. Ở miền Trung, Tuồng bỏ qua
những bài múa, điệu hát nghệ thuật truyền thống để chỉ đặt phần ca – diễn trên bản Xuân
nữ. Ở miền Nam, do ảnh hưởng của những gánh hát Tiều, Hồ Quảng, đã có những thay đổi
về nghệ thuật về cách hát, múa, nhạc điêm, trang phục, hoá trang. Ở miền Bắc, Tuồng cổ
cũng bị loại “Tuồng cải lương” lấn chiếm.
g. Thời kỳ sau năm 1945 đến nay
Với chủ trương bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, Nhà nước đã có những đầu tư
thích đáng cho Tuồng từ những năm chiến tranh.
-

Nhiều hội thảo, nghiên cứu về Tuồng được tổ chức, in ấn.

-

Nhiều vở Tuồng cổ được khôi phục.

-


Thành lập nhà hát tuồng trung ương,

-

Tổ chức truyền dạy, nghệ thuật tuồng được giảng dạy trong các trường nghệ thuật.

6


II.

ĐẶC ĐIỂM SÂN KHẤU NGHỆ THUẬT
Hát Bội có rất nhiều quy tắc về mọi phương diện: hát, diễn xuất, vũ đạo, hoá trang,
phục trang, sân khấu,…Để Hát Bội phát huy được hiệu quả, sân khấu Hát Bội phải có
những nhân tố sau:

1. Kịch bản
Đề tài kịch bản Hát Bội thường lấy trong các truyện dã sử Trung Quốc nhưng chủ yếu
là những mẩu truyện thích hợp với đặc điểm, tính chất và tư tưởng đạo lý Việt Nam. Trong
lịch sử, tuồng có nhiều tên gọi khác nhau. Nhưng theo quan điểm của nhà nghiên cứu Đinh
Bằng Phi trong cuốn Nhìn về sân khấu hát bội Nam Bộ (2005), Tuồng được chia làm hai
bộ phận chính là Tuồng đồ và Tuồng pho.
-

Tuồng đồ: nội dung cốt truyện dân gian, là những kịch bản khuyết danh, xuất hiện
khoảng cuối thế kỷ XX. Cốt truyện Tuồng đồ mang tính châm biếm đả kích quan
lại và chế độ, xã hội, đạo đức suy đồi (Nghêu, Sò Ốc, Hến; Trương Đồ Nhục; Giáp
Kén, Xã Nhộng...).


-

Tuồng pho: là những vở tuồng tuồng mang tính mẫu mực, dùng để dạy nghề, tích
truyện hồn tồn Việt Nam (Sơn Hậu, Tam Nữ Đồ vương...).

Ngồi ra cịn có Tuồng truyện (những vở tuồng được sáng tác dựa theo các tích truyện
của Trung Quốc), Tuồng Kinh (lưu hành ở miền Bắc), Tuồng Sài Gòn, Tuồng Xuân Nữ,
Tuồng lãng mạn.
Kịch bản bằng chữ viết ra đời muộn, sau khi nghệ thuật biểu diễn tướng đối hoàn chỉnh.
Phần lớn kịch bản giai đoạn đầu là khuyết danh, những kịch bản được sáng tác chỉ trong
khoảng thế kỷ XIX – XX.
2. Hệ thống nhân vật
Nhân vật trong nghệ thuật hát bội Việt Nam có thể chia ra thành các kiểu mơ hình: kép,
lão, đào, mụ, nịnh, tướng, u đạo.
a. Mơ hình Kép
Kép là thuật ngữ chỉ nhân vật thuộc giới tính nam. Ngoại hình Kép thông thường là
nam thanh niên hoặc trung niên. Kép thường hóa trang mặt sạch (dùng râu để phân biệt).
Đây là kiểu hóa trang tối giản, được vận dụng để thể hiện nhân vật có tướng mạo khơi ngơ,

7


hoặc bình thường; thường là nhân vật tâm lý khơng dùng các điểm nhấn hóa trang để bộc
lộ tính cách. Tương ứng với mơ hình Kép là kiểu kỹ thuật hát – nói trong sáng, nho nhã.
Mơ hình Kép thường phân chia thành các nhân vật:
-

Kép con: những người tuy tuổi nhỏ nhưng chí lớn và trở thành những bậc anh
hùng hào kiệt, giúp ích cho đất nước khi tuổi đời cịn rất trẻ.


-

Kép nịnh: với hình dung của một kẻ tiểu nhân, chuyên luồn cúi để thăng tiến
và dèm pha trung thần như Đổng Trác, Tào Tháo.

-

Kép núi: các nhân vật này thường là người của triều đình được cử đi lên núi
học đạo và khi xuống núi thì đã thành tài. Nhân vật đặc trưng của vai Kép núi
có thể kể đến như Giang Chấn Tử, Mạnh Lương, Vương Bá Đương.

-

Kép võ: là nhân vật đại diện cho sức mạnh và sự trung thành, thường bộc trực
và tính tình nóng nảy, như Nhạc Phi, Phan Định Cơng.

-

Kép văn: thường có màu mặt hồng, thể hiện tính tình điềm đạm hiền hịa, đối
lập với sự nóng nảy bộc trực của Kép võ với khuôn mặt đỏ rực. Đường nét trên
gương mặt Kép văn cũng mềm mại, không cường điệu như Kép võ.

b. Mơ hình Đào
Đào là thuật ngữ chỉ nhân vật thuộc giới tính nữ. Ngoại hình Đào thơng thường là thiếu
nữ hoặc trung niên, phần lớn hóa trang mặt sạch, tác phong đoan trang; hát – nói trong sáng.
Trong mơ hình Đào, chỉ có nhân vật Chung Vơ Diệm, Đào Tam Xuân và Ngọc Kỳ Lân
là hóa trang kiểu mặt nạ, cịn lại hầu như đều là hóa trang mặt sạch.
Trong Hát Bội, các nhân vật nữ không được đa dạng như các nhân vật nam. Nhưng
chúng ta có thể kể tên được các vai diễn thường gặp như sau:
-


Đào văn: tương tự như Kép văn, điềm đạm, hiền hòa và thùy mị, tác phong
đoan trang, dịu dàng, hát - nói trong sáng. Trong đó, “Đào trào” là kiểu nhân
vật nữ tham gia việc triều đình chính thống như Tạ Nguyệt Kiểu (San Hậu).
Còn “Đào trần/Đào trâm cơ” là kiểu nhân vật thiếu nữ bình dân, hoặc xuất thân
trâm anh nhưng lưu lạc dân dã, không đội mũ/ngạch, chỉ cài trâm như Điều
Huê Nữ (Điều Huê Nữ hạ san).

-

Đào võ: tương tự như Kép võ, rất oai vệ, trang nghiêm, thường mặc áo giáp võ,
hát - nói có lực, như vai Thần Nữ (Thần Nữ dâng Ngũ linh kỳ), Đoàn Hồng
Ngọc (Đãi yến Đoàn Hồng Ngọc).

8


-

Các nhân vật hoàng gia: thường sẽ là các vai như hoàng hậu, phi tần, vợ các
quan.

-

Mụ: kiểu nhân vật đào cao tuổi, hóa trang phần lớn là mặt sạch, chân mày kẻ
bạc trắng, tóc bạc, tác phong chậm chạp, hát - nói khàn. Đa số nhân vật thuộc
mơ hình mụ đều là mụ văn, tác phong nho nhã, khoan thai, từ tốn. Ví dụ: Đổng
mẫu (San Hậu), Dương lịnh bà (Mộc Quế anh dâng cây).

c. Mơ hình Tướng

Mơ hình Tướng là mơ hình nhân vật có phong thái, hành động và vũ đạo
của Kép mang thuộc tính võ: oai vệ, nhanh nhẹn, hát - nói có lực mạnh. Tướng thường hóa
trang kiểu “mặt nạ” theo hình thức tượng trưng, cách điệu. Tùy vào vai trò trong vở diễn
chúng ta có Tướng chính diện (tướng thuộc phe lương thiện, trung nghĩa) như Trịnh Ân
(Trảm Trịnh Ân), Hoàng Phi Hổ (Bá Ấp Khảo),… và tướng phản diện như Tạ Ơn Đình
(San Hậu), Từ Hải Thọ (Gia hình loạn tướng), Ơ Lợi Hắc (Thần Nữ dâng Ngũ linh kỳ),…
d. Mơ hình u đạo
Mơ hình u đạo là kiểu nhân vật phản diện, thường có gốc gác là các lồi cầm thú tu
luyện thành người nên hành động, phong thái cũng mô phỏng sâu sắc các lồi vật. Hóa
trang nhân vật vì lẽ đó cũng là một bản gợi ý những cách điệu, tượng trưng cho lai lịch của
nhân vật. Ví dụ như Dư Hồng (Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu) nguyên là chim hồng
nhạn tu luyện thành người nên họa tiết trịng mắt cũng mơ phỏng hình chim, màu nền mặt
là màu đỏ. Tạo hình nhân vật Thầy rùa thường dùng mắt thau để diễn tả mắt lộ kỳ quái,
bụng to để chứa đựng phép mầu (nên con gọi là bụng phép), và phục trang mô phỏng cách
ăn mặc của đạo sĩ Đạo giáo.
e. Mơ hình Nịnh
Mơ hình Nịnh là nhân vật nam thuộc phe phản diện; thường mặt trắng mốc, râu rìa. Mơ
hình nịnh gồm:
-

Nịnh gốc: đã có phe cánh vững mạnh. Ví dụ: Tạ Thiên Lăng (San Hậu).

-

Nịnh mụt: chưa có phe cánh vững mạnh. Ví dụ: Vưu Hồn, Bí Trọng (Bá Ấp
Khảo).

Tuy có sự phân hóa, nhưng hai nhánh mơ hình nịnh này có kỹ thuật biểu hiện khơng
khác nhau mấy về tạo hình, chỉ phân biệt rõ ràng theo phong thái. Nếu như nịnh gốc thường


9


có thái độ ngơng nghênh, xem thường tất cả thì nịnh mụt chỉ bộc lộ phong thái hèn hạ, a
dua, bợ đỡ.
f. Mơ hình Lão
Lão là kiểu nhân vật kép cao tuổi, hóa trang phần lớn là mặt sạch, chân mày kẻ bạc
trắng, ngoại hình râu tóc bạc, tác phong chậm chạp, hát - nói khàn. Mơ hình Lão phân hoá
như sau:
-

Lão văn: mặt trắng, râu bạc, ba hoặc năm chịm dài, sn mượt, có học thức,
tác phong nho nhã. Ví dụ: Vương Dỗn (Phụng Nghi đình), Kiều Quốc cựu
(Người đẹp đất Giang Đông).

-

Lão võ: màu nền gương mặt thường sẽ là đỏ, tác phong oai vệ, nhanh nhẹn,
nghiêm nghị, hát - nói có lực hơn.

-

Lão lỗ: mặt đỏ, có mảng trắng quanh mắt lan ra gò má, râu liên tu bạc, tác
phong nóng nảy, quyết đốn. Ví dụ: Phàn Địch Cơng (San Hậu); Trình Giảo
Kim (Phàn Lê H phá Hồng thủy trận).

Ngồi ra cịn có mơ hình Lão văn pha, Lão tiều phu, Lão ngư phủ, Lão nhút, Lão
rụi,…song thường ít thấy.
3. Sân khấu
Sân khấu phải được bày biện hợp theo từng cảnh diễn, trang trí đơn giản, theo ngun

tắc tượng trưng, khơng có màn che, khơng thay đổi theo tình huống sân khấu, khơng thay
đổi theo cảnh dù thay đổi hồi, lớp sân khấu. Phông sân khấu phủ một tấm lụa thêu rồng
phụng màu sắc sặc sỡ, có thể vén ra hai bên. Trong tấm màn để một cái rương lớn, trên
rương để lên một cái ghế cao dùng cho vua hoặc tướng sối ngồi khi có thiết đại triều hay
có hội nghị nơi sối đường.
Phơng có hai cửa ăn thông với bên trong. Cửa bên phải từ sân khấu nhìn xuống khán
giả là cửa sinh ghi chữ “Xuất” đặt trống chiến và dàn nhạc, cửa bên trái là cửa tử ghi chữ
“Nhập” đặt trống chầu. Cạnh hai cửa có hai lọng lợp lụa đỏ viền kim tuyến lóng lánh được
treo hay dựng đứng. Có hai tấm lụa thêu chữ “Soái” được để cạnh hai lọng. Nhờ lối dàn
cảnh đơn giản ấy nên rất thuận tiện cho soạn giả sắp đặt lớp lang. Sân khấu hát bội chẳng
khác nào một trang giấy trắng, trên đó soạn giả vẽ vời thế nào tùy ý, chẳng cần đổi cảnh.

10


4. Phục trang
Nghệ thuật phục trang trong Hát Bội cũng đóng vai trị quan trọng góp phần cho Hát
Bội trở thành một nghệ thuật tổng hợp. Phục trang thường được thiết kế theo đúng trang
phục của từng thời kỳ lịch sử.
-

Vua đội mão Cửu Long, mặc áo Long bào hay Long cổn có thêu rồng.

-

Các quan tứ trụ triều đình thì mặc “mãng”. Mãng màu đỏ nếu là quan võ già,
trung chính. Mãng màu tía nếu là Thái sư. Riêng mãng màu vàng vua cũng
thường mặc.



Quan văn đội mão Văn cơng có chóp trịn (qn sư, hoạn quan) hoặc
đội mão Bình thiên có chóp bằng, màu đen (thái sư, hồng đệ). Khi thiết
Thường triều, mặc áo bào tay rộng, còn khi thiết Đại triều phải mặc
Mãng có gai và thêu rồng.



Quan võ đội Ngạch, mặc Long chấn màu xanh hay đỏ, hai ống tay áo
nịt chặt ở cổ tay, có đai, thường có áo giáp bên ngồi. Ở trong triều đình
chầu vua mặc Mãng, khi ra chiến trận mặc Giáp. Quần dài, hai ống cuốn
gọn bỏ vào hia.

-

Tướng ra trận đội mão Kim khôi ba tầng, bằng đồng hay sắt có chóp nhọn. Nữ
tướng Phiên đội mũ có hai lơng chim trĩ dài cong vút lên cao. Sau lưng tướng
có hai chùm cờ “lịnh tiễn” nhỏ, hình vng, dắt chéo nhau.

-

Kép núi đầu chít khăn đen, dưới vành khăn xoè ra hai, ba vành nhỏ vải trắng
và đỏ để đỡ khăn. Vai Kép mặc áo dài đen thường, lưng có thắt Xiêm trường
và Quân giáp từ thắt lưng trở xuống, đi chân không hoặc mang giày đen.

-

Thầy rùa đội mão Hiệp chưởng, mặc áo pháp sư, chân mang giày tàu đen.

-


Lão tu tiên mặc quần áo rộng (áo thụng) màu vàng, ra ngoài mặc áo Bá Nạp.

-

Đạo sĩ mặc áo thụng trắng có gạch đen ngắn, cách khoảng giữa ngực, sau lưng
có hình bát qi màu đen, trung tâm điểm hình nhật nguyệt.

-

Lão Tiều chít khăn đầu rìu màu nâu, áo nâu rách vá, ống tay áo dài rộng quá
khuỷu tay, quần nâu rách vá ngắn quá đầu gối.

-

Quân canh đội nón dấu nhỏ, sơn đỏ, có quai, áo ngắn hai màu đỏ viền vàng,
quần trắng dài quá đầu gối, đi chân đất.

11


-

Hoà thượng mặc áo cà sa màu vàng, đầu trọc. Các sư tăng mặc giống hoà
thượng, tiểu tăng mặc áo màu nâu. Thánh Tăng (Đường Tam Tạng) mặc áo cà
sa đỏ có thêu kim tuyến vàng, đầu đội nón hoa sen. Tất cả tu sĩ Phật đều mặc
quần dài trắng thường, chân đi giày Tàu.

-

Đào thường có vai Hồng Hậu đội mão Cửu Phụng, vợ quan thì cài trâm, mặc

áo rộng thêu, dưới mặc xiêm trường, mang vớ trắng hay mang giày thêu. Đào
chiến đeo đai, trên đầu gắn lông trĩ, thường cầm song kiếm, trừ Lưu Kim Đính
cần siêu.

-

Thị nữ, thị tỳ, nữ nhân hầu hạ trong cung hoặc vương phủ đầu cài trâm (không
đội khăn, mão), đồ trang sức thường, áo dài thường màu lục, thắt lưng lụa, quần
dài chấm gót, đi giày Tàu đen.

Ngồi ra, một nét đặc biệt trong phục trang nghệ thuật tuồng đó là đôi Hia. Hia là một
loại giày dùng cho các nhân vật nam của nghệ thuật Tuồng. Hia cổ đứng có đế cong hình
bán nguyệt. Phần chạm đất của hia nhiều khi chỉ vài phân. Đi hia cong như đi trên quả cầu
trịn, khó đi, phải luyện tập nhiều mới thoải mái được. Nhưng khi đã dùng thành thạo đôi
hia rồi thì nó lại giúp diễn viên biểu diễn rất linh hoạt. Trong tuồng nhân vật rơi vào tình
huống bi kịch thì thường dùng chân hia để bê, xiết thể hiện nội tâm như trường hợp Hoàng
Phi Hổ lăn trướng, Đổng Kim Lân biệt mẹ, Kim Lân thượng thành, Triệu Đình Long thả
con xuống sơng.
5. Hố trang
Ngồi y phục giả trang thì hố trang trên mặt là điểm đặc biệt quan trọng trong Hát
Bội. Nói cách khác, nếu khơng hố trang để tạo nên diện mạo nhân vật thì đó khơng phải
là Hát Bội. Hát Bội của ta thường hoá trang mặt rất kỹ chứ khơng đeo mặt nạ vì việc đeo
mặt nạ có những điểm hạn chế:
-

Đeo mặt nạ làm sẵn có tính cách “tĩnh” khơng linh động, đơi khi không vừa
với khuôn mặt diễn viên, gây vướng.

-


Không thể hiện được hết những biểu cảm trên khuôn mặt diễn viên. Ví dụ như:
phùng má, trợn mắt, đảo trịng, liếc xéo, cánh mũi phập phồng,…

-

Có những trường hợp khơng thể dùng mặt nạ được, như vai Hạ Hầu Đôn chột
một mắt.

12


Trong nghệ thuật Hát Bội, các nghệ nhân thường dùng màu sắc để biểu hiện cho nhân
cách, tính tình nhân vật. Thủ pháp cách thức hoá, cường điệu hoá lối dặm, vẽ mặt nhiều
đường nét, nhiều màu sắc khiến cho sự tượng trưng tạo ra một sức tưởng tượng hết sức
phong phú. Các màu sắc được sử dụng là đỏ tươi, đỏ bầm, hồng, vàng, vàng kim, tím, xanh
da trời, xanh lá cây, xám tro, bạc, đen và trắng. Mỗi màu tượng trưng cho nhân cách của
nhân vật.
-

Quan văn trung: mặt thật, trang điểm phấn hồng nhạt, nếu là Lão thì vẽ lơng
mày trắng.

-

Quan võ trung: mặt màu đỏ, tượng trưng cho người anh hùng, nghĩa khí, trung
liệt (Quan Cơng, Cao Hồi Đức, Địch Thanh,…). Đơi khi để mặt thiệt có dặm
phấn (Tiết Nhơn Quý, Dương Lục Sứ, Tiết Đinh San, Triệu Tử Long,…).

-


Nịnh thần: mặt màu trắng, màu xám, hồng nhạt, giữa hai mắt có một đốm
trắng (Tào Tháo, Bàng Hồng, Tư Mã Ý,…).

-

Tướng võ: vẽ mặt vằn đen trắng, thường xen ít chấm đỏ, trơng bộ dữ tợn (Tạ
Ơn Đình, Từ Hải Thọ, Đỗ Kiến,…).

-

Tướng Phiên: vẽ mặt rằn rện, xen lẫn nhiều màu.

-

Kép núi: mặt màu xanh xám, mắt tròng xéo, má đỏ, đen hay xanh.

-

Thần tiên: mặt thật, trang điểm phấn hồng nhạt với hai điểm son trên gị má
(Trần Đồn lão tổ, Nam Cực tiên ông, Thái Ất chơn nhơn, Liễu Nhất chơn
nhơn,…).

-

Yêu ma: vẽ mặt nhiều màu rằn rện xen đỏ (Hồ Ly, Mật Đà Tăng,…).

-

Thầy rùa: mặt vằn vện, đeo mắt thau, bụng to chướng lên (Dư Hồng, Dư Triệt,
Hồ Ngươn...).


Ngoại trừ trường hợp các vai đóng giả thú như Tơn Ngộ Khơng, Trư Bát Giới, Ngưu
Thần, Hạc Đồng, Lý Nguyên Bá Tiết Quỳ thì phải vẽ theo nét các loại thú đó cịn lại thường
dùng duy nhất mặt nạ thổ địa.
Ngồi việc áp dụng màu sắc để thể hiện bản tính trung, nịnh, hiền,…của vai tuồng,
Hát Bội còn chủ tâm đến việc vẽ các loại mày, khoen mắt, miệng và trán.
-

Mắt: mắt tròng xéo vẽ cho Kép võ còn trẻ; mắt tròng trứng là võ tướng; mắt
tròng táo là tướng đứng tuổi; trịng lỗ là lão tướng.

13


-

Lông mày: lông mày được vẽ hiền từ là người lành; vẽ thô và lớn là kẻ ác; vẽ
lông mày như uốn lượn là kẻ đắc ý; lông mày dựng đứng là người nóng tính;
lơng mày cau có là người sầu muộn.

-

Miệng: miệng nén bạc, miệng cọp, miệng lôi công, miệng vịm lửa, miệng củ
ấu, miệng quai xách.

-

Râu: thuờng có ba màu trắng, đen, hung (đỏ). Râu ba chòm, năm chịm dài
tượng trưng cho người đơn hậu, trầm tĩnh; râu đen xoắn là người nóng tính dữ
dằn; râu cắt màu đen hoặc hung là người khôi hài, dễ dãi, hay đùa cợt; râu liên

tu đen dành cho vai kẻ gian nịnh; râu liên tu bạc là lão tướng anh hùng; râu liên
tu đỏ là tướng phản phúc, yêu đạo; râu ngắn ba chịm là người dân thường;…

-

Trán: có trán thái cực, trán bắc đẩu, trán quải tượng, tráng não vàng, trán núi
lửa, trán chữ hổ, trán chữ thọ, tráng trái bầu, trán trái chuỳ, trán mặt trăng, trán
trái đào, trán hình vật, trán thường,…

Đồ tuỳ thân của một nghệ sĩ Hát Bội khơng thể thiếu đồ nghề hố trang. Phẩm liệu hố
trang gồm có: son, phấn, lọ, kim nhũ, bột màu cùng với các dụng cụ như tăm, móng, một
số cọ hoặc bút lông. Mỗi nghệ sĩ đều phải tự vẽ mặt cho mình (hoặc hai người tự trao đổi
vẽ mặt cho nhau), vì vậy, người nghệ sĩ nào cũng biết sử dụng cả hai tay và biết tất cả các
sắc mặt tướng. Diễn viên không những phải diễn giỏi, hát hay, múa đẹp, thuộc lòng vai
diễn, mà còn phải khéo léo trong việc hố trang.
6. Đạo cụ
Đạo cụ có của sân khấu Hát Bội có tính ước lệ cao, có tính tượng trưng và ln hài
hịa với trang phục, giúp cho động tác của diễn viên thêm phần thẩm mỹ. Trên sân khấu
hát bội, đạo cụ gồm những dụng cụ lao động (cái búa, cái thúng, mái chèo, cần câu…), tư
liệu sinh hoạt (quạt, chén, rượu), vật trang trí (hoa), vật biểu tượng (cờ các loại), binh khí
(Chùy, cơn, cung, kiếm giáo, kích, mã tấu, đại đao, xà mâu, trường thương…)
Các loại vũ khí dùng tùy tính cách nhân vật và phải hài hòa với trang phục, giúp cho
động tác mua thêm phần thẩm mỹ. Vai nữ tướng thường dùng Song kiếm. Vai kép thì dùng
Trường thương. Kép núi dùng Độc phủ, Kép con dùng Song chày. Vai tướng Phiên hay
dùng Đại đao còn các tướng khác hay dùng Kích. Kim giản vua ban thì cho Thái sư, đại
thần mới có. Ngồi ra cịn theo gợi ý của các pho sử chuyện.

14



Một đạo cụ vô cùng độc đáo, được coi là hình thức ước lệ đặc sắc, tạo nên một nét văn
hóa rất đặc sắc trong tuồng đó là roi ngựa. Đây là đạo cụ mà diễn viên dùng để biểu diễn
các động tác thể hiện lúc dắt ngựa, lên yên, phóng ngựa, ngựa đi nước kiệu, ngựa phóng,
ngựa phi, ngựa dụm vó, ngã ngựa,…Roi ngựa làm bằng một ngọn roi mây dài độ 0.7m,
quấn suốt bằng một lớp vải mỏng, thường được chẻ làm ba rồi tết lại để cho mềm dịu, khi
huơ lên có thế tạo hình đẹp. Trừ 0.20m cán, cứ mỗi 10 phân, người ta buộc một túm chỉ
màu (tượng trưng sắc lông con ngựa) cho đến đầu ngọn roi. Phần cịn lại là tay cầm, có
buộc một vòng nhỏ ở đầu để khi biểu diễn, người diễn viên đeo vào ngón tay út bên phải.
Khi người diễn viên biểu diễn trên sân khấu với chiếc roi ngựa, nếu có cảnh dùng ngựa
thì chỉ có chiếc roi ngựa diễn viên cầm trong tay, vừa biểu trưng cho con ngựa, vừa thể
hiện cho chiếc đuôi ngựa. Diễn viên thực hiện động tác đưa roi ngựa lên cao, quay tròn
cùng với động tác chân đi gập ghềnh một vòng trên sân khấu, vậy là đủ để khán giả hiểu là
nhân vật đang phi ngựa trên đoạn đường dài đầy gian nan, vất vả. Nếu roi ngựa đưa lên
cao, rung nhẹ, kết hợp với bước đi khoan thai, ấy là thể hiện trạng thái ung dung của người
cưỡi. Còn nếu trên đường đi, ánh sáng có sự thay đổi một lần sáng một lần tối, ấy là thể
hiện cảnh nhân vật ấy đã đi ngựa liên tục trọn một ngày đêm.
7. Điệu bộ - Động tác - Biểu cảm
Động tác, điệu bộ của các nhân vật trong Hát Bội mang tính ước lệ rất lớn. Mỗi động
tác của tay, chân, mắt, mũi,… đều được diễn xuất với tính cách điệu, ước lệ theo một
nguyên tắc nhất định. Điệu bộ cơ bản trong Hát Bội được chia ra thành nhiều bộ, nhằm
hình dung biểu hiện tính cách nhân vật.
-

Bộ bê, bộ sảng: dành cho nhân vật sảng sốt.

-

Bộ nhảy lót: dành cho Kép võ.

-


Bộ đá giáp (che vết thương): dành cho tướng bị thương.

-

Bộ phát mảng: dành cho các quan ra chầu vua.

-

Bộ siếng lỉa - lăn: diễn tả hoàn cảnh bi đát.

-

Bộ nhảy ngựa: với cái roi, diễn viên dùng động tác điệu bộ thể hiện cho lên
ngựa xuống ngựa, ngựa chạy sải, chạy té, ngã ngựa, dắt ngựa đi vòng qua núi,
qua sối, cứu ngựa bị nạn cột ngựa gốc cây.

-

Bộ vuốt râu: diễn tả tâm tư trạng thái nhân vật, tuỳ vào tính cách nhân vật

15


Điệu bộ cơ bản trong Hát Bội được chia ra thành nhiều bộ, gồm bộ chỉ, bộ khoát tay,
bộ vuốt râu, bộ cười,…
a. Đôi mắt:
Đôi mắt là nguyên tắc diễn xuất hàng đầu. Mỗi cách nhìn, cách ngó đều thể hiện một
thái độ, một trạng thái tình cảm cụ thể. Đơi mắt có nhiều cử động: trợn, trừng, liếc, đảo,
ngó, mỗi cử động đều có ý nghĩa tượng trưng:

-

Trợn to: tượng trưng cho sự giận dữ.

-

Trừng: tượng trưng nghiêm huấn, nghiêm trị.

-

Trợn sững: tượng trưng sự kinh khủng.

-

Liếc qua liếc lại: tượng trưng sự oai vệ, hùng dũng của các vai Kép võ và các
vai Đào võ.

-

Ngó đằm, liếc chậm: tượng trưng sự hiền từ.

-

Ngó đằm, chăm chỉ: tượng trưng sự thương hại, thông cảm với nỗi khổ của
người đối thoại.

-

Ngó nghiêng: tượng trưng sự khinh người.


-

Liếc qua láy lại: tượng trưng sự trêu ghẹo người.

-

Đảo lộn không ngừng: tượng trưng bị ma nhập, loạn trí.

b. Điệu bộ tay:
Ngón tay chỉ ln có nghĩa. Khi thì chỉ một ngón, khi thì chỉ hai ngón. Ngón tay chỉ
khi thì nghiêng, khi lại úp. Các chỉ ngón tay, tuỳ vai tuồng, khi thì dịu dàng, ngộ nghĩnh,
khi thì thơ kệch, cộc cằn, khi thì hùng hồn, phẫn nộ,…Đặc biệt khi đối thoại, kẻ dưới không
bao giờ được chỉ vào người trên, bầy tôi không chỉ vào quân thượng, con cái không chỉ vào
cha mẹ.
Khi đào kép chỉ chỗ nào thì mắt phải ngó theo chỗ ấy, khơng được phép tay chỉ một
nơi mà mắt ngó một ngả. Chỉ riêng phép chỉ như trên, chúng ta đã thấy được sự tinh tế của
nghệ thuật Hát Bội. Nó chẳng khác nào một bản nhạc, có nhịp nhàng, có tiết tấu, nếu biết
trình diễn cho đúng điệu, thêm sự diễn xuất sắc sảo của người nghệ sĩ sẽ thực sự đem lại
thích thú cho khán giả.
Điệu bộ vuốt râu cũng có nhiều cách thể hiện được tính cách bên trong của vai tuồng.
Quan văn trung vuốt râu nhẹ nhàng kéo qua bên mặt hay bên trái. Quan võ trung cầm ngọn
râu phía dưới rồi hất qua một bên. Vai nịnh hai tay ôm bộ râu, vuốt xuôi xuống, cười hơi
16


nịnh bợ. Quan cơng nghĩa khí kẹp ngón tay trỏ vào ngón giữa, vuốt râu mép tai, đưa thẳng
ra phía trước.
Mỗi tuyến nhân vật cũng có những cách hố trang râu đặc trưng. Tướng dữ như Trương
Phi, Võ Tam Tư, Võ Văn Thành Đơ, Tạ Ơn Đình,…thì mang râu quắn. Bọn gian hùng, nịnh
thần như Đổng Trác, Tào Tháo, Bàng Hồng, Tần Cối,…mang râu liên tu. Những tướng

canh thường mang râu cắt, còn phường nịnh hạ cấp và hề như Lơi Nhược trong tuồng San
Hậu thì mang râu chuột.
Ngun tắc chung của điệu bộ vuốt râu được tóm gọn như sau:
-

Vuốt nửa chừng rồi ngưng ngụ ý đang có điều thắc mắc cần phải suy nghĩ.

-

Vuốt ln ngụ ý mình đã suy nghĩ và đã tìm được biện pháp giải quyết.

Kẻ trung lương thì mặt trắng, mặt đỏ râu dài đen ba chịm hoặc năm chịm sn đuột,
phường sủng nịnh gian tà thì mặt mốc râu rìa, võ tướng dữ dằn thì mặt đen râu quắn, hành
tướng cạnh thì chỉ mang râu cắt, hề thì râu chuột. Các kiểu râu trong tuồng có giá trị như
một ngơn ngữ, một ký hiệu. Chỉ cần nhìn vào cách vẽ mặt, màu sắc của các bộ phận trên
khuôn mặt và cách sử dụng râu của diễn viên, người xem có thể biết ngay tính cách và vị
trí xã hội của nhân vật trong tuồng.
c. Điệu bộ chân:
Hai chân có những bộ: Niêm, Thinh, Ký, Cầu. Niêm là đặt chân hơi nghiêng, gót chân
hơi dỏng đất. Thinh thì làm bộ chân cong hơi đưa cao lên ngang gối. Ký là đặt gót chân
xuống đất, ngón chân hơi đưa lên. Cầu là chân hơi cong đưa lên cao.
Khi vai võ bước ra sân khấu, phải dùng hai tay múa bộ Khai , chân phải đi bộ Niêm
sau bàn chân trái rồi Thinh lên, Ký xuống trước bàn chân trái, rồi lại Cầu tròn lên cao, thân
xoay trịn 3 vịng, chân trái để xuống đúng hình chữ Đinh.
Đào võ khi bước ra cũng làm y như vậy, tuy nhiên phải múa kín đáo hơn, chân khơng
khơng lên cao, khơng mở rộng như Kép. Chính vì thế bộ múa của Đào võ xem vừa đẹp mắt
mà vừa thanh nhã, không lố lăng.
8. Vũ đạo
Vũ đạo Tuồng là những động tác hình thể, được biểu diễn một cách nhịp nhàng cân
đối với sự kích thích giàu tính tiết tấu và giai điệu theo nguyên tắc của vũ thuật Việt Nam,

theo quan niệm về cái đẹp và phong cách của loại hình nghệ thuật Hát Bội.

17


Múa Tuồng được chắt lọc và hình thành từ cuộc sống hiện thực, từ những động tác
sinh hoạt và hành động tâm lý trong cuộc sống xã hội của con người. Các thế hệ diễn viên
đã tiếp thu tinh hoa của những hình thái múa dân gian, múa tín ngưỡng, tơn giáo, trong tế
lễ, hội hè, trong múa cung đình và trong võ thuật dân tộc để xây dựng vũ đạo. Cũng vì yếu
tố này mà những diễn viên thường phải được yêu cầu biết về các động tác võ thuật và cách
sử dụng binh khí sao cho thật mềm mại, trơn tru và phù hợp với bối cảnh, vở diễn.
Múa Tuồng có chức năng minh hoạ, bài cảnh, có khả năng dùng điệu hát để diễn đạt
tâm trạng, tính cách của nhân vật. Để dựng được cảnh sắc trong trí tưởng tượng của người
xem, người diễn viên phải dùng những động tác tượng trưng với giả định có cảnh thật trước
mắt.
Múa Tuồng có những nguyên tắc nghiêm ngặt “nội ngoại tương quan, tả hữu tương
ứng, thượng hạ tương phù”. Nhân vật nào ra sân khấu từ cánh gà tay mặt đều sống tới cuối
Tuồng, dẫu có bị kẻ gian hãm hại cũng không chết. Ngược lại, nhân vật nào ra sân khấu từ
cánh gà bên trái đều phải chết, dẫu làm tới Hoàng đế.
Múa Tuồng hoàn toàn khác múa Chèo và múa Cải lương hay các loại hình nghệ thuật
khác. Xét về động tác múa như khai, khán, chỉ, khoát, long tranh hay bộ hổ, nhảy thành...
ta đều thấy hai tay xoan, xỏ, bọc úp, chân co, dàn, ký, trả. Hoặc cao hơn là những động tác
được kết thành một tổ hợp múa. Ví dụ như bắt ngựa: xắn tay áo, khán, bắt dây cương giằng
ngựa, lên ngựa, quất ngựa, phi ngựa hay lia xốc, lia vòng, lia êm. Như vậy những động tác
và tổ hợp múa ở trên là tín hiệu thơng báo đặc trưng của sân khấu Tuồng và cũng vì thế mà
múa Tuồng khơng thể lẫn lộn được.
Ngoài ra, người diễn viên khi thực hiện các động tác của vũ đạo Tuồng, ln tn thủ:
“phải có âm có dương, có vay có trả, chân nọ tay kia”.
Khi múa, muốn chỉ qua bên phải, trước hết chân trái phải co, dằn (tức là vay),
chân phải ký (tức là trả), đồng thời phải kết hợp hai tay xoan xỏ, bọc, úp. Ngược

lại muốn chỉ qua bên trái thì ta phải vay bên phải và trả bên trái. Chân lập trụ
làm gốc thì chân bước ra làm ngọn. Hoặc động tác cầu bán, long tranh chẳng
hạn: chân đứng là gốc, chân cầu là ngọn. Nếu chân trụ (gốc) vững thì chân cầu
(ngọn) mới nhẹ lướt khi xoay phải xoay trái hay xoay lật nghịch mới trịn, khơng
bị chao đảo và nghiêng ngửa.

18


Người diễn viên phải biết cách sử dụng toàn bộ các yếu tố thân thể như đầu, cổ, vai,
vế, tay, chân, đầu gối, cùi chỏ, mặt, mày để múa. Khi nhân vật múa thì những điều múa
thường có những nét đặc trưng của thế võ Bình Định.
Múa Tuồng lấy “múa Bơng” làm bài múa cơ huấn, một số dịng Tuồng lấy bài điệu
múa “Trình Tuồng”. Nếu người diễn viên có thể múa thuần thục các bài múa này thì tự
nhiên biết được các vũ đạo trong Tuồng đúng lúc, đúng chỗ và vào các vai linh hoạt, cử
động đúng Trở, Trục, Bộ, Cầu, Kỳ, Tiến, Thoái, Khởi, Quy,… với một số động tác cơ bản
như Ký, Cầu, Niệm, Chỉ,… Một số điệu cơ bản gồm khai diện, khai chiến, lên ngựa, chèo
thuyền, mở cửa dương oai,…và một số bài hoàn chỉnh như đề cờ, dâng rượu,…

III.

ĐẶC ĐIỂM ÂM NHẠC TUỒNG – HÁT BỘI
So với nhạc kịch phương Tây (Opéra), âm nhạc Hát Bội ít mang chất ca hát mà là
xướng (nói có giọng điệu), thực chất là giai điệu hố, nhạc điệu hố lời. Chính đặc điểm
này mà Hát Bội mang tính sáng tạo nhiều hơn. Trong Hát Bội, âm nhạc chỉ mang tính đệm,
người xướng tự do bẻ chữ, ngữ điệu, âm điệu của câu hát, lời hát. Do đó, khơng có bài hát
khách, lối xướng nào giống nhau, chỉ giống về hơi nhạc và nhịp.

1. Thang âm
Trong âm nhạc Tuồng, việc sử dụng thang 5 âm để hình thành và phát triển cấu trúc

giai điệu được xem là rất phổ biến. Các làn điệu chính của Tuồng nói đều được xây dựng
trên thang năm âm: hò – xừ – xang - xê - cống (tức là Đồ - Rê - Pha – Son - La). Các âm
đó được sử dụng để sáng tạo thành giai điệu của làn điệu.

19



×