Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những loại thuốc thông dụng cho bệnh nhân suy thận ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.98 KB, 8 trang )




Những loại thuốc thông
dụng cho bệnh nhân suy
thận
Thận tham gia vào rất nhiều hoạt động chức năng của cơ thể mà lọc máu
không thể làm thay hết được. Bằng cách ăn kiêng và kiểm soát lượng nước
uống, bạn sẽ giúp cho quá trình lọc máu tốt hơn và giữ được trọng lượng cơ
thể ở mức tiêu chuẩn. Bên cạnh lọc máu và ăn theo thực đơn ăn kiêng, bệnh
nhân cần dùng thêm một số loại thuốc để giúp cơ thể khoẻ hơn. Bài viết này
giúp bạn hiểu hơn về một số vấn đề bạn có thể gặp phải khi bị suy thận và
các loại thuốc bác sỹ có thể kê đơn cho bạn.
Thiếu máu
Thiếu máu xuất hiện khi bệnh nhân không có đủ số lượng hồng cầu; thiếu
máu làm bệnh nhân:

* mệt mỏi
* thiếu năng lượng khi tập thể dục
* khó tập trung
* tìm phải làm việc nhiều hơn

Phần lớn bệnh nhân suy thận, các bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối cần
phải lọc máu đều bị thiếu máu, do thận tạo ra hóc-môn erythropoietin, đây là
hóc-môn có nhiệm vụ giữ số hồng cầu ở mức bình thường, nhưng khi bị suy
thận thì nó sẽ không sản xuất ra hóc-môn này nữa.
Kể từ năm 1989, đã có thể tiêm erythropoietin cho bệnh nhân. Phần lớn bệnh
nhân suy thận mãn mà chưa đến mức phải chạy thận nhân tạo, bị thiếu máu
sẽ tiêm 1 mũi trực tiếp. Đối với bệnh nhân phải lọc máu, sẽ tiêm hóc-môn
này trong quá trình lọc máu bằng cách tiêm tĩnh mạch vào luôn ống trả lại
máu của hệ thống máy lọc.


Bình thường, hồng cầu chiếm 36-44% số lượng máu, phần còn lại là bạch
cầu, tiểu cầu và huyết tương. Trước khi có thuốc tiêm Erythropoietin, phần
lớn bệnh nhân suy thận hồng cầu chỉ đạt 20-26%. Thông thường, cần truyền
máu để giữ hồng cầu ở mức cần thiết. Hiện nay, với các chữa trị đầy đủ,
bệnh nhân suy thận phải lọc máu đạt mức hồng cầu tiêu chuẩn. Hóc-môn
erythropoietin dùng cho bệnh nhân được dùng dưới những tên dược phẩm:
Procrit®, Epogen®, ARANESP® hoặc epoietin alpha.

Sắt
Để giúp Erythropoietin hoạt động có hiệu quả, cần phải có thêm chất sắt để
tạo hồng cầu. Nếu không có chất sắt, sẽ tạo ra ít hồng cầu hơn và những
hồng cầu mới được tạo ra kích cớ cũng bé hơn và sẽ mang được ít ô-xy hơn.
Một số lượng nhỏ hồng cầu sẽ bị mất đi trong quá trình lọc máu. Nếu chất
sắt không được thay thế, bệnh nhân suy thận phải lọc máu sẽ bị thiếu chất
sắt và Erythropoietin sẽ không hoạt động tốt được. Chính vì vậy, bệnh nhân
chạy thận nhân tạo cần bổ sung thêm chất sắt.
Có thể dùng chất sắt qua đường uống, tuy nhiên cách này không đem lại
hiệu quả lắm, vì phần lớn bệnh nhân thấy khó chịu và bị táo bón. Vì vậy, rất
nhiều trung tâm lọc máu tiêm chất sắt vào tĩnh mạch cho bệnh nhân trong
quá trình lọc máu. Xét nghiệm máu thông thường cũng có thể cho biết bệnh
nhân cần bổ sung thêm chất sắt hay không. Có 3 loại thuốc bổ sung chất sắt
dùng qua đường tiêm tĩnh mạch được biết dưới tên dược phẩm InFeD®,
Ferrlecit® and Venofer®. Vì InFeD® có thể gây phản ứng thuốc, nên hiện
nay, phần lớn các Trung tâm lọc máu dùng Ferrlecit® hoặc Venofer®. Cùng
với việc dùng hóc-môn Erythropoietin và bổ sung chất sắt đầy đủ, hơn 90%
bệnh nhân có thể thấy khoẻ mạnh bởi họ có đủ số lượng hồng cầu.

Bệnh về xương và vấn đề vôi hoá

Bệnh nhân suy thận mãn phải lọc máu có thể bị mất những khoáng chất cần

thiết cho xương nhưng can-xi và phốt-pho. Can-xi và phốt-phi cũng có thể
trộn lẫn nhau, trở nên cứng hơn và tích tụ (tạo thành vôi hoá) trong mạch
máu nhỏ ở chân, ruột và tim. Dẫn đến phải cắt bỏ xương, hoại tử ruột hay
suy tim. Bệnh về xương và vôi hoá do chế độ ăn kiêng thiếu can-xi, phốt-
pho, vitamin D và thiếu hóc-môn PTH (hóc-môn tuyến cận giáp). PTH được
tạo ra bởi 4 tuyến nhỏ nằm trên bề mặt của tuyến giáp ở cổ.
Vitamin D kiểm soát độ cân bằng của can-xi, phốt-pho và PTH. Ở bệnh
nhân suy thận, Vitamin chỉ lấy từ ánh sáng mặt trời và từ thực ăn là không
đủ. Khi mức PTH cao, sẽ bị viêm sưng ở xương, can-xi và phốt-pho sẽ mất
đi. Do bị suy thận, thận không loại bỏ được phốt-pho dư thừa trong máu,
chạy thận nhân tạo cũng chỉ loại bỏ được số lượng phốt-pho rất ít; Phốtpho
và canxi sẽ tích tụ dần và trở nên cứng hơn ở trong các mạch máu. Phòng
ngừa quá trình này có thể bằng cách ăn kiêng hoặc dùng thêm thuốc
phosphorus binders.

Phosphorus binders

Ngay cả bệnh nhân theo chế độ ăn kiêng hạn chế lượng phốt-pho vẫn bị
lượng phốt-pho cao nếu như không dùng phosphorus binders; thuốc sẽ giúp
cơ thể không hấp thụ phốt-pho từ thực phẩm ăn vào.
Calcium-containing binders có hiệu quả trong việc ngăn chặn cơ thể hấp thu
phốt-pho từ trong ruột. Calcium acetate, được biết đến dưới tên PhosLo®, là
một loại phosphorus binder phổ biến. Có rất nhiều loại khác, thường chứa
calcium carbonate. Kể cả Tums®, cũng là một loại calcium carbonate, có
thể đem lại hiệu quả tốt. Phần lớn bệnh nhân sẽ dùng 3 đến 6 viễn trong mỗi
bữa ăn.
Một số can-xi từ những binders này có thể được hấp thụ vào máu và tích tụ
trong mạch máu cũng có thể phá huỷ một số bộ phận. Hơn 5 năm qua, thuốc
Renagel® (sevelamer) đã được dùng như phosphate binder. Thuốc này tổng
hợp cả phốt-pho trong đường ruột mà không gồm can-xi.

Hầu hết thuốc giảm lượng phốt-pho trong máu cần phải được dùng trong
bữa ăn. Kể cả loại thuốc mới Fosrenol® (lanthanum carbonate), thuốc này
có tác dụng như những loại khác nhưng tiến bộ hơn là loại thuốc có thể nhai
được.

Vitamin D

Mặc dù hạn chế thức ăn có chứa hàm lượng phốt-pho cao, Vitamin D vẫn là
chất quan trọng để duy trì mức PTH bình thường và giữ cho xương khoẻ.
PTH cao có thể làm viêm sưng ở xương, cơ và gân; thiếu canxi và phốt-pho
ở xương có thể là nguyên nhân làm bệnh nhân chạy thận nhân tạo thấy ngứa.

Uống Vitamin D có thể ngăn chặn mức PTH cao ở bệnh nhân suy thận. Hiện
nay, 2 loại thuốc phổ biến là Rocaltrol® (calcitriol) và Hectorol®
(doxercalciferol). Những loại thuốc này có tác dụng tốt hơn ở bệnh nhân suy
thận chưa phải lọc máu; vì vậy, ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo, để tốt hơn
sẽ tiêm qua tĩnh mạch trong khi lọc máu.
Một loại Vitamin D khác là Zemplar® (paricalcitol). Ở nhiều khía cạnh, nó
gần giống với 2 loại trên, nhưng nó có thể giảm nguy cơ làm tăng mức can-
xi trong máu (thuốc tiêm tĩnh mạch được biết dưới tên là Calcijex®).
Một thế hệ thuốc mới được gọi là "calcimemetics" cũng đang phát triển. Một
loại thuốc uống tên Sensipar® (cinacalcet) có tác dụng khá cao trong việc
giảm mức PTH. Loại thuốc này có từ năm 2004, và mới được dùng ở bệnh
nhân lọc máu và những chức năng chính xác của thuốc vẫn đang được xem
xét.

Các Vitamins và khoáng chất

Quá trình lọc máu đã loại bỏ một lượng lớn các vitamin hoà tan trong nứoc
như Vitamin C, B-complex vitamins và folic acid. Ăn uống tốt có thể bù

được lượng đã mất, nhưng phần lớn bệnh nhân lọc máu thường ăn kém. Các
chuyên gia về thận cho rằng, dùng Vitamin nhóm B tổng hợp B-complex
vitamin, cùng với folic acid là một biện pháp bảo vệ tốt đối với bệnh nhân ăn
kém. Một vài loại thuốc Vitamin có thể dùng là Nephro-Vite®,
Nephrocaps® và Nephroplex®.

Cảm giác ngứa

Rất nhiều bệnh nhân lọc máu thấy ngứa và bị khô da. Vì vậy, điều quan
trọng là biết vì sao bị như vậy và cách chữa trị, có thể dùng các loại kem bôi
và thuốc uống kháng histamine, một vài tên thuốc Benadryl®
(diphenhydramine), Atarax®, Vistaril® (hydroxyzine) hoặc Zyrtec®
(loratadine).

Chut rỳt

Mt s bnh nhõn b chut rỳt, khụng ch trong lỳc lc mỏu m ngay c
trong ờm khi ang ng. Cú th l do lng nc rỳt quỏ nhanh v quỏ trỡnh
in phõn vo ra trong khi lc mỏu. Quinine sulfate cú th giỳp bnh nhõn
phũng nga c chng chut rỳt, dựng trc khi lc mỏu hay trc khi i
ng.

Mt s loi thuc khỏc

Cú rt nhiu loi thuc khỏc cú th dựng, cú th khụng ch cho bnh nhõn
lc mỏu m cho nhng bnh liờn quan n suy thn.
Bnh nhõn b tiu ng chim 40% tng s bnh nhõn lc mỏu. Nhng
bnh nhõn ny cn kim soỏt nhiu hn, khụng ch vi vic n kiờng, m vi
c cỏc loi thuc v vic tiờm insulin gi c mc ng huyt n nh.
Bnh nhõn b huyt ỏp cao cn duy trỡ mc cõn n nh, theo mt ch n

kiờng ớt mui v dựng thuc h huyt ỏp.
Vỡ bnh tim cng l mt trong nhng bnh m bnh nhõn suy thn phi tớnh
n, mc homocysteine cao thng thy bnh nhõn lc mỏu. Dựng Acid
folic liu cao cú th gim mc homocysteine; ng thi Acid Folic cng cú
th ngn nga bnh tim nhng bnh nhõn suy thn cha b bnh tim.
Cng nh vy, HMG l mt hp cht c ch Reductaza, thng c bit
di tờn dc phm nh: Lipitor, Zocor, Pravachol, dựng cho c những
bệnh nhân chạy thận nhân tạo không có cholesterol cao, bởi các thuốc này
có thể làm giảm các nguy cơ mắc bệnh tim. Cỏc bnh nhõn thn món tớnh
cng nh bnh nhõn chy thn nhõn to cn quan tõm y n quỏ trỡnh
chữa trị. Các bệnh nhân thận mãn tính kèm theo tiểu đường hoặc huyết áp
cao cần kiểm soát chặt chẽ .
Đối với những bệnh nhân suy thận phải lọc máu, hiểu phương pháp chữa trị
và ăn kiêng chưa đủ. Bệnh nhân cần tham gia tích cực vào quá trình điều trị
như là một thành viên của đội chăm sóc sức khoẻ, để chắc chắn rằng, họ
hiểu và dùng thuốc đúng để nâng cao chất lượng cuộc sống.

×