Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Lý luận chung về mâu thuẫn và quy luật mâu thuẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.54 KB, 35 trang )

mục lục

LI M U......................................................................................................1
Chơng 1: Lý luận chung về mâu thuẫn và quy luật mâu
thuẫn..................................................................................................................3
1.1. Lý luận chung về mâu thuÉn.......................................................3
1.1.1. Khái niệm mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng.....................................3
1.1.2. Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của sự vận ng v phỏt trin....4
1.1.3. Một số loại mâu thuẫn..............................................................5
1.1.3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài....5
1.1.3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản 5
1.1.3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu...........6
1.1.3.4. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối
kháng.........................................................................................................6
Chơng 2: Biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng trong
nền kinh tế thị trờng cđa níc ta hiƯn nay.................................8
2.1. Tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam............................................................................................................8
2.1.1. Việc chun sang nỊn kinh tÕ thÞ trêng là một tất yếu
khách quan trong quắ trình phát triển nền kinh tế đất nớc ...................................................................................................................9
2.1.2. Bản chất và những đặc trng của kinh tế thị trờng
định hớng xà hội chđ nghÜa ë ViƯt Nam......................................10
2.1.3. Ý nghĩa của việc lựa chọn mơ hình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa................................................................................13
2.2. BiĨu hiƯn cđa m©u thn biƯn chøng trong nỊn kinh tÕ
thÞ trêng cđa níc ta hiƯn nay...............................................................14
2.2.1. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế..............................................14
2.2.2. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hi ch ngha.15
2.2.3. Mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất ............................................................................................................16
2.2.4. Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trớc đây và


trong kinh tế thị trờng ......................................................................17
2.2.5. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trờng và mục tiêu xây
dựng con ngời xà hội chủ nghĩa .....................................................20
2.2.6. Mâu thuẫn giữa cơ chế cũ và cơ chế mới....................22
Chơng 3: Phơng hớng và giải pháp nhằm hạn chế mâu
thuẫn trong nỊn kinh tÕ thÞ trêng ë ViƯt Nam hiƯn nay.
.............................................................................................................................23


KÕt luËn..........................................................................................................26

2


LI M U
Mâu thuẫn là hiện tợng có trong tất cả các lĩnh vực từ tự
nhiên đến xà hội và trong cả t duy của con ngời. Mâu thuẫn
tồn tại khi sù vËt xt hiƯn cho ®Õn khi sù vËt kết thúc. Trong
mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà
là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc có nhiều
mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác
lại hình thành.
Kinh tế thị trờng là nền kinh tế phát triển cao nhất với rất
nhiều mặt u điểm. Tuy nhiên, việc vận hành nền kinh tế thị
trờng của các quốc gia để tránh những khuyết điểm của nó là
không hề đơn giản. Là một nớc quá độ lên CNXH từ trình độ
thấp và lạc hậu, Việt Nam càng phải chú trọng hơn nữa đến
vấn đề giải quyết mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trờng. Những mâu thuẫn chủ yếu chính là mâu
thuẫn của sự xuất hiện cơ chế mới trong nền kinh tế thị trờng

với cơ chế cị trong nỊn kinh tÕ tËp trung, quan liªu, bao cấp;
mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thợng tầng về
mặt chính trị, pháp lý, quan điểm, t tởng. Mâu thuẫn giữa
tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trờng (theo chủ
nghĩa t bản) với định hớng xà hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa
mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trờng
Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh
mẽ tới quá trình phát triển nền kinh tế nớc ta. Việc nhận thức rõ
vấn đề này và giải quyết chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng
để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Vì
vậy, đề tài: "Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích
những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trờng định hớng x·

1


hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay đợc lựa chọn có ý nghĩa
cả về lý luận và thực tiễn.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm hiểu sâu
hơn những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trờng
của nớc ta hiện nay để từ đó tìm ra những phơng hớng và
giải pháp để khắc phục, từng bớc phát triển nền kinh tế thị trờng của Việt Nam.
Để phục vụ mục đích nghiên cứu đà đề ra, kết cấu của
đề tài gồm có 3 chơng:
Chơng 1: Lý luận chung về mâu thuẫn và quy luật mâu
thuẫn.
Chơng 2: BiĨu hiƯn cđa m©u thn biƯn chøng trong nỊn
kinh tÕ thị trờng của nớc ta hiện nay.
Chơng 3: Phơng hớng và giải pháp nhằm hạn chế mâu
thuẫn trong nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam hiện nay.

Đối tợng nghiên cứu của đề tài: Quy luật mâu thuẫn
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nền kinh tế thị trờng của
Việt Nam hiện nay.
Phơng pháp nghiên cứu của đề tài: Phơng pháp phân tích
(thông qua việc phân tích các nguồn tài liệu: giáo trình, sách,
báo, tạp chí), phơng pháp tổng hợp, phơng pháp xử lý thông
tin.

2


3


Chơng 1: Lý luận chung về mâu thuẫn và quy
luật m©u thn
1.1. Lý ln chung vỊ m©u thn
1.1.1. Khái niệm mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng.
M©u thn cđa sù vật, của thế giới đà đợc rất nhiều nhà
triết học trong lịch sử bàn đến. Chẳng hạn, thuyết âm dơng
ngũ hành của Trung Hoa đà đề cập tới các mâu thuẫn Âm Dơng, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên Kim, Mộc, Thuỷ,
Hoả và Thổ. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêraclít cũng nhẫn
mạnh mâu thuẫn của các hiện tợng, quá trình khách quan.
Hêghen đề cập tới mâu thuẫn của t duy. Nói chung, các quan
niệm trên đều đà mô tả mâu thuẫn khách quan nhng cha làm
rõ đợc sự chuyển hoá biện chứng của các mặt đối lập. Vì thế,
khái niệm mâu thuẫn còn nặng về hình thức mà cha đi sâu
vào nội dung biện chứng của các mặt đối lập.
Đến triết học Mác - Lênin đà đa ra một khái niệm khoa học
về mâu thuẫn: Mâu thuẫn là sự thống nhất của các mặt đối

lập.
Mt i lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn taị của các mặt đối lâp là khách quan và
phổ biến trong tất cả các sự vật hiện tượng
Hai mặt đối lập tạo thành mầu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống
nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là nương tựa lẫn nhau, tồn tại
không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn
tại của mặt kia làm tiền đề.

4


Nh vậy, có hai điều kiện để xác định một mâu thuẫn
biện chứng: Thứ nhất là, các xu hớng đối lập nhau. Thứ hai là,
các xu hớng là điều kiện tồn tại và phát triển của nhau.
Tuy nhiên, theo cách hiểu biện chứng, cần lu ý không phải
mọi cái đối lập đều tạo nên mâu thuẫn mà chỉ có những xu
hớng đối lập nào là tiền đề tồn tại của nhau mới tạo thành mâu
thuẫn.
1.1.2. Mõu thun bin chng l nguồn gốc của sự vận động và phát triển
PhÐp biÖn chứng duy vật khẳng định mọi sự vật hiện tợng
trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện
tuợng của giới tự nhiên, đời sống xà hội và t duy của con ngời.
Mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tợng và tồn
tại trong suốt quá trình phát triển của mỗi sự vật.
Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, mỗi quá trình
của thế giới khách quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau.
Mâu thuẫn trong tự nhiên khác trong mẫu thuẫn xà hội và khác

với mâu thuẫn trong t duy.
S thng nht v u tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động
khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện
chứng bao hàm cả “ sự thống nhất” và “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập khơng tách rời nhau trong q trình vận
động, phát triển của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn
định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với sự tuyệt đối của sự vận động
và phát triển. Điều đó có nghĩa là: sự thống nhất của các mặt đối lập là tương
đối, tạm thời ;sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. V.I.Lê Nin viết: “sự
thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối.
Sự đấu tranh của các mặt dối lập bài trừ lãn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát
triển, sự vận động là tuyệt đối”
5


Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối
lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làmcho
mâu thuẫn phát triển. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản,
nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng
phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều
kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể
thống nhất cũ được thay bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra
đời thay thế. V.I.Lê Nin viết “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt
đối lập”. Tuy nhiên khơng có sự thống nhất thì cũng khơng có sự đấu tranh của
các mặt đối lập. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách
rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập là không thể tảch rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và
phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay
đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc ca s vn ng v phỏt

trin.
1.1.3. Một số loại mâu thuẫn.
1.1.3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu
thành một sự vật nhất định. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu
thuẫn giữa mặt đối lập của sự vật này với mặt đối lập của sự
vật khác. Việc phân chia mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn
bên ngoài cần có quan điểm lịch sử cụ thể, tuỳ phạm vi phân
tích.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối
với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu
thuẫn bên ngoài có vai trò hỗ trợ. Mâu thuẫn bên ngoài tự nó
không thể phát huy đợc vai trò của mình, mà phải thông qua
mâu thuẫn bên trong để phát huy tác dụng nhất định. Tuy

6


nhiên, giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài có
sự tác động qua lại với nhau. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là
điều kiện để giải quyết mâu thuẫn kia.
1.1.3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn
bộ sự vật, các mâu thuẫn đợc chia thành mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của
sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự
vật. Nó tồn tại gắn liền với sự vật từ khi sinh ra cho đến khi sự
vật kết thúc.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trng cho một

phơng diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và
phát triển của một mặt nào đó của sự vật.
Mâu thuẫn cơ bản đóng vai trò hết sức quan trọng đối với
sự vật. Mâu thuẫn cơ bản là cơ sở hình thành và chi phối các
mâu thuẫn khác trong quá trình phát triển của sự vật. Khi
mâu thuẫn cơ bản đợc giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi về
chất. Mâu thuẫn không cơ bản tồn tại bao giờ cũng gắn liền với
mâu thuẫn cơ bản, và trong quá trình vận động, mâu thuẫn
cơ bản có thể làm nảy sinh mâu thuẫn không cơ bản.
1.1.3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Dựa vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát
triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu
thuẫn đợc chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ
yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi
giai đoạn phát triển của mọi sự vật. Nó có tác dụng quyết định

7


đến các mâu thuẫn khác tồn tại trong cùng sự vật ở giai đoạn
đó.
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò
quyết định đối với quá trình phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu là biểu hiện
cụ thể của mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Do
đó, việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu chính là từng bớc giải
quyết mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu cũng có thể

chuyển hoá cho nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
1.1.3.4. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối
kháng
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp,
những tập đoàn ngời, những xu hớng xà hội có lợi ích cơ bản
đối lập nhau.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực
lợng, khuynh hớng xà hội mà lợi ích về cơ bản là nhất trí với
nhau.
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối
kháng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định phơng
pháp giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn đối kháng theo nguyên tắc chung chỉ đợc giải
quyết thông qua các cuộc cách mạng xà hội. Còn mâu thuẫn
không đối kháng, xu hớng phát triển đặc thù của nó ngày càng
dịu đi. Mâu thuẫn này đợc giải quyết vẫn phải tuân thủ
nguyên tắc là thông qua đấu tranh nhng bằng phơng pháp hoà
bình.

8


Nh vậy, hiểu bản chất các loại mâu thuẫn để tìm ra cách
giải quyết phù hợp là điều rất quan trọng trong thực tiễn cuộc
sống. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, trớc xu thế toàn cầu hoá
kinh tế diễn ra ồ ạt, kinh tế Việt Nam muốn không bị tụt hậu,
muốn khởi sắc thì cần phải can đảm hoà mình vào trào lu
kinh tế chung toàn thế giới, đồng thời phải phát huy nội lực để
tự đứng vững trớc mọi tác động tiêu cực từ bên ngoài.


9


Chơng 2: Biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng
trong nền kinh tÕ thÞ trêng cđa níc ta hiƯn nay
2.1. Tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức
phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy
luật khách quan với việc phát huy vai trị chủ động, sáng tạo của chủ thể là
Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con đường và mơ hình phát triển của Việt
Nam trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế đáp ứng u cầu "đi tắt, đón đầu" đang
đặt ra như một yếu tố sống cịn. Sự hình thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một q trình tìm tịi thể nghiệm,
phát triển từ thấp lên cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, hoàn
thiện và sâu sắc hơn.
Nếu như trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương 6 khoá VI,
Đảng ta mới đề ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm
nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đây là vấn đề "có ý nghĩa chiến
lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội", thì đến Đại
hội VII, Đảng đã khẳng định: "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước". Tới Đại hội Đảng X, kinh tế thị trường lại được khẳng định
một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là mơ hình kinh tế tổng qt hay mơ hình mới
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, bắt
nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước. Trong đó

cần chú ý những khía cạnh quy định tính tất yếu của việc lựa chọn mơ hình kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

10


2.1.1. Vic chuyển sang nền kinh tế thị trờng là một tất yếu
khách quan trong quắ trình phát triển nền kinh tế đất nớc .
Nh đà biết, kinh tế thị trờng là một kiểu tổ chức kinh tế
phản ánh trình độ phát triển nhất của văn minh nhân loại. Từ
trớc đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dới chủ nghĩa t
bản. Ngày nay, kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa đà phát triển
tới trình độ khá cao và phồn thịnh ở các nớc t bản phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa không phải là
vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết
tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu t bản t nhân về
t liệu sản xuất chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lợng sản
xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa t bản càng bộc lộ
sâu sắc, không giải quyết đợc các vấn đề xà hội, làm tăng
thêm bất công và bất ổn của xà hội, đào sâu thêm hố ngăn
cách giữa ngời giàu và ngời nghèo. Chủ nghĩa t bản, mặc dù đÃ
và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh và tự thích nghi,
nhng do mâu thn tõ trong b¶n chÊt cđa nã, chđ nghÜa t bản
không thể tự giải quyết đợc, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu
đợc chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trờng t bản
chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hớng tự phủ
định và tự tiến hoá để chuyển sang một giai đoạn hậu công
nghiệp, theo xu hớng xà hội hoá. Đây là tất yếu khách quan, là
quy luật phát triển của xà hội. Nhân loại muốn tiến lên, xà hội
muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị

trờng t bản chủ nghĩa. Chính vì thế C.Mác đà phân tích và
dự báo, chủ nghĩa t bản tất yếu phải đợc thay thế bởi một phơng thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo
hơn. Đó chính là phơng thức sản xuất xà hội chủ nghĩa.

11


ViƯt Nam lµ mét níc nghÌo, kinh tÕ kü tht lạc hu, trình
độ xà hội còn thấp, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, i lên chủ
nghĩa xà hội là mục tiêu lý tởng của những ngời cộng sản và
nhân dân Việt Nam, là khát vọng thiêng liêng ngàn đời của
nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và
đầy đủ hơn về chủ nghĩa xà hội và con đờng đi lên chủ
nghĩa xà hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam
(tháng 12 năm 1986) đà đề ra đờng lối đổi mới toàn diện đất
nớc nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xà hội. Đại hội đa ra những quan niệm mới về con đờng,
phơng pháp xây dựng chủ nghĩa xà hội, đặc biệt là quan
niệm về công nghiệp hoá xà hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá
độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản
xuất hàng hoá và thị trờng. Phê phán triệt để cơ chế tập
trung , quan liêu , bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang
hạch toán kinh doanh.

Đại hội VI là một mốc đánh dấu bớc

chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt
Nam về chủ nghĩa xà hội và con đờng đi lên chủ nghĩa xà hội
ở Việt Nam .
2.1.2. Bản chất và những đặc trng của kinh tế thị trờng

định hớng xà héi chđ nghÜa ë ViƯt Nam
Việc lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội,
mà phải là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị
trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức
tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát
triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực
12


hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế trong thời kỳ q độ đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế
thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là "cái phổ biến", còn kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "cái đặc thù" của Việt Nam, phù hợp với
điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây khơng
phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là
kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố
của chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự
tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trị tích cực
của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao
động, cải tiến kỹ thuật - cơng nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều
của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời
phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị

trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân
hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là
sự lựa chọn tự giác con đường và mơ hình phát triển trên cơ sở qn triệt lý
luận Mác - Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba
mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,

13


vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực
lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình
thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản
xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt

tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn
thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua
phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển
văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực của đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu
tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong q trình chuyển biến từ nền kinh tế
cịn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội
mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được
14


định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát
thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển
bền vững của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế quá độ
thuộc dạng đặc biệt: "tiến hoá - cải cách", khác biệt với các bước quá độ thơng
thường: "tiến hố - tự nhiên" từng diễn ra trong lịch sử. Về nguyên tắc, nền kinh
tế thị trường hiện đại không thể ra đời tự phát như trong các thế kỷ trước. Đây
phải là nền kinh tế thị trường được định hướng cao về mặt xã hội và phát triển

theo xu hướng xã hội hoá - xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa cịn đặc trưng bởi "thuộc tính kép" hay "quá độ bậc
hai": kết hợp đồng thời giữa bước quá độ sang nền kinh tế thị trường mà nhân
loại đã đạt được với bước quá độ toàn nhân loại sang xã hội hậu công nghiệp,
hậu thị trường và nền kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây cũng là nền kinh tế thị trường kiểu mới, có tổ chức, có kế hoạch, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Nó hoạt động trên cơ sở kết hợp giữa sự nhận thức tính tất yếu khách
quan với phát huy vai trò năng động sáng tạo của chủ thể, nhằm phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn, đưa nước ta hội
nhập vào nền kinh tế thế giới và trở thành quốc gia phát triển trong thế kỷ XXI.
2.1.3. Ý nghĩa của việc lựa chọn mơ hình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Sự lựa chọn mơ hình phát triển "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa" là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập
trung (đồng nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây dựng hệ
thống kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa). Nói rõ hơn, đây khơng phải là nền kinh tế thị trường bất kỳ hoặc dập
15


khuôn theo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (đã và đang bị phủ định). Đây
phải là hệ thống kinh tế thị trường văn minh, đảm bảo định hướng cao về mặt xã
hội, tuân theo nguyên tắc xã hội hoá - xã hội chủ nghĩa.
Đây là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu và văn minh nhân loại. Chúng ta
không chấp nhận kinh tế thị trường như là một thứ công nghệ – kỹ thuật thuần
tuý, hay như một phương thức đơn thuần, thủ đoạn tạo ra của cải và sự giàu có
cho tư bản, mà phát huy những thế mạnh của kinh tế thị trường, chủ động hướng
kinh tế thị trường phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân, sự phồn vinh và
hạnh phúc toàn xã hội. Để đạt điều đó cần có sự can thiệp mạnh của Nhà nước

xã hội chủ nghĩa và toàn xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thấm nhuần sự
kết hợp giữa tính tất yếu thời đại với nguyện vọng tha thiết của một dân tộc yêu
tự do, độc lập và luôn mong muốn sống trong hồ bình, hạnh phúc, với các giá
trị truyền thống dân chủ, nhân văn và tương thân tương ái. Đó hồn tồn khơng
phải là sự thổi phồng đặc điểm dân tộc hay chủ ý đi theo "con đường riêng", mà
là sự vận dụng sáng tạo quy luật chung vào những hoàn cảnh cụ thể của đất
nước.
Khẳng định quyết tâm và vai trò sáng tạo rất cao của kiến trúc thượng tầng
chính trị - pháp luật là Đảng Cộng sản, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
nhằm tạo lập thể chế kinh tế thị trường văn minh và theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việc nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan cũng như vai trò
lãnh đạo của chủ thể và kiến trúc thượng tầng chính trị – pháp lý xã hội chủ
nghĩa là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành cơng q trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mọi sự vơ hiệu hố vai trò
của Nhà nước trong kinh tế thị trường sẽ chỉ dẫn tới sự hỗn loạn và bất ổn định
về kinh tế - chính trị - xã hội. Thực tế thế giới đã khẳng định điều đó.
2.2. BiĨu hiƯn cđa m©u thn biƯn chøng trong nỊn
kinh tÕ thÞ trêng cđa níc ta hiÖn nay
2.2.1. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế

16


Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã xác định
nước ta tồn tại năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.Các thành
phần kinh tế mâu thuẫn với nhau vì mỗi thành phần kinh tế có đặc điểm riêng về
quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, như kinh tế nhà nước sở hữu là


công cộng,

kinh tế tư nhân sở hữu là tư nhân. Trên cơ sở đó, ở mỗi thành phần kinh tế ngồi
các quy luật kinh tế chung cịn các quy luật kinh tế đăc thù hoạt động, chi phối
mỗi thành phần. Như vậy, mỗi thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế khác
nhau, có các lợi ích khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất
yếu. Canh tranh là động lực quan trọng để cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng
sản xuất. Do đó, nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi cho canh trạnh như cho
giải thể các xí nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ và dần cổ phần hóa các doanh
nghiêp nhà nước, hồn thiện luật đầu tư, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân
theo đúng pháp luật … Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế, đăc
biệt mâu thuẫn giữa một bên là kinh tế nhà nước kinh tế tập thể và kinh tế tư bản
nhà nứơc với một bên là tính tự phát tư sản và tiểu tư sản của kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế cá thể là khơng thể điều hịa. Giải quyết mâu thuẫn theo hướng
các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ngày càng
chiếm ưu thế là nhiệm vụ căn bản của thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo
đó Đảng chủ trương kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân.
Tuy nhiên, giải quyết các mâu thuẫn đó như thế nào là việc không đơn giản.
Những mâu thuẫn này không thể được giải quyết bằng biện pháp hành chính
đơn thuần, bằng ý trí chủ quan, bằng bạo lực… mà phải bằng cách tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế ấy phát triển mạnh mẽ có lợi cho quốc tế dân sinh,
hướng các thành phần kinh tế tư nhân đi vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà
nước thơng qua nhiều hình thức và mức độ khác nhau: hiệp tác, liên kết, liên
doanh: bằng việc nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể….
2.2.2. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa.

17



Trong xu thế tồn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới, Việt Nam
khơng thể nằm ngồi dịng chảy của thế giới. Do đó Đảng ta đã chủ trương phát
triển nền kinh tế quốc dân phát triển theo kinh tế thị trường nhưng có định
hướng xã hội chủ nghĩa chứ không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa.
Nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường đã kích thích hoạt
động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện cho hoạt động tự do của họ phát
triển, nhờ áp dụng khoa học kĩ thuật cao lên đã nâng cao năng suất thỏa mãn
nhu cầu của người tiêu dùng. Nhưng mục đích hoạt động của các doanh nghiệp
là vì lợi nhuận tối đa, vì vậy đã lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm
môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội khơng được đảm
bảo. Sự điều tiết của kinh tế thị trường mềm dẻo hơn sự điều tiết của cơ quan
nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến
đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh đã kích thích các thành phần
kinh tế phát triển, nhưng bên cạnh đó nó cũng có tính đào thải đối với các doanh
nghiêp làm ăn thua lỗ dẫn tới phá sản. Cùng với đó là làm tăng tỉ lệ thất nghiệp,
sự gia tăng các tệ nạn xã hội, sự phân hóa giàu nghèo, sự phân cực về của cải,
tác động xấu đến đạo đức và tình người. Sự tác động của cơ chế thì trường sẽ
đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó khơng tự động mang lại những giá trị mà
xã hội muốn vươn tới. Edgar Morin đã nhận xét chua chát: “Trong các nền văn
minh đươc gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển
thảm hại về văn hóa, trí não, tình người”.
2.2.3. Mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất .
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc, theo ®Þnh híng x· héi chđ nghÜa ë níc ta
hiƯn nay, vấn đề lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là một

vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lợng này và
18



×