Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Vận dụng phép biện chứng duy vật trong nghiên cứu vai trò trung tâm kinh tế của thủ đô hà nội đối với các tỉnh đồng bằng sông hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.46 KB, 37 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Với 1000 năm lịch sử gắn liền với công cuộc dựng nước và giữ nước, Thủ đô
Hà Nội là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, là trung tâm chính trị - hành chính
quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế
của cả nước.
Phát triển Thủ đô là trọng điểm trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là trách nhiệm, nghĩa vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô phải được xây dựng và thực hiện
trong mối quan hệ hữu cơ với sự phát triển kinh tế- xã hội của cả nước, với việc xây
dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng, liên vùng, dùng sức mạnh
của Thủ đô làm động lực thúc đẩy sự phát triển của vùng, tạo ra sự phân công - hợp tác
chặt chẽ trong một cơ cấu thống nhất trên phạm vi cả nước, đặc biệt trong vùng kinh tế
đồng bằng sông Hồng.
Sau 20 năm đổi mới, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ XX, vai trò kinh tế
của Thủ đô Hà Nội đối với các tỉnh trong khu vực ĐBSH ngày càng rõ rệt và gia
tăng. Việc nghiên cứu rõ cơ chế tác động, những mặt mạnh, mặt còn hạn chế của
mối tác động qua lại giữa thủ đô với các tỉnh trên quan điểm, phương pháp biện
chứng để tìm ra những biện pháp thúc đẩy tác động tích cực là rất cần thiết. Kết
quả nghiên cứu này nếu đi đúng hướng và đảm bảo được kết hợp nhuần nhuyễn
giữa lý luận và thực tiễn sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có giá trị tham khảo
cao.
Vấn đề nghiên cứu này đã từng được đề cập và giải quyết khi tiến hành
hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô Hà Nội, của vùng
ĐBSH, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vai trò của Thủ đơ Hà Nội đối với cả
nước nói chung và vùng ĐBSH nói riêng đã được thể hiện rất rõ thơng qua việc
mở rộng địa giới hành chính Thủ đô. Tuy nhiên, đây vẫn là một đề tài khá mới

1



và có nhiều khía cạnh phải khai thác, đặc biệt là nghiên cứu trên lập trường phép
Biện chứng Duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Sau khi được giảng viên hướng dẫn tìm hiểu phép biện chứng duy vật,
trên cơ sở những kiến thức của bản thân và các tài liệu liên quan đến Hà Nội,
vùng ĐBSH tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Vận dụng phép biện chứng duy
vật trong nghiên cứu vai trò trung tâm kinh tế của Thủ đô Hà Nội đối với các
tỉnh đồng bằng sông Hồng”.
Bố cục của tác phẩm gồm 3 phần:
Chương 1: Phép biện chứng duy vật.
Chương 2: Vai trò trung tâm Kinh tế của Hà Nội đối với ĐBSH.
Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trị kinh tế của thủ đơ Hà Nội.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nội dung của Phép biện chứng duy vật:
1.1- Lịch sử phép biện chứng và phép biện chứng duy vật khoa học?
Phép biện chứng là nội dung đặc biệt quan trọng trong triết học Mác Lênin, triết học Heghen cũng như trong nhiều triết học khác của lịch sử triết học,
từ thời cổ đại Trung hoa, ấn độ và Hy lạp. Nó được xác định với hai tư cách là
tư cách lý luận biện chứng và tư cách phương pháp biện chứng, cũng tức là
với tư cách thế giới quan và tư cách phương pháp biện chứng trong triết học:
Với tư cách lý luận biện chứng, phép biện chứng được xác định là một hệ
thống các quan điểm biện chứng, khái quát tính biện chứng của thế giới thành
một thế giới thành một hệ thống các nguyên lý, các quy luật biện chứng. Đó là
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển, quy luật mâu
thuẫn đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật những thay đổi về lượng dẫn tới
những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định.

Ph.ăngghen đã định nghĩa phép biện chứng một cách khái quát: "Phép biện
chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy"
Với tư cách là phương pháp biện chứng, phép biện chứng được xác định
là phương pháp luận triết học xem xét, phân tích các sự vật, hiện tượng của thế
giới trong trạng thái của mối liên hệ phổ biến trong sự vận động và phát triển
không ngừng của tự nhiên xã hội và tư duy. Với tư cách đó, phương pháp biện
chứng là hệ quả tất yếu và thống nhất với lý luận biện chứng, cũng tức là sự
thống nhất giữa mặt thế giới quan và phương pháp luận triết học của phép biện
chứng trong triết học.
Trong lịch sử triết học phép biện chứng có thể được xác lập trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật hoặc trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm, từ đó tạo ra
phép biện chứng duy vật hoặc phép biện chứng duy tâm. Phép biện chứng duy
vật giải quyết theo lập trường duy vật đối với mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản
trong triết học. Biện chứng khách quan dùng để chỉ những mối liên hệ, biến đổi,
phát triển khách quan vốn có của sự vật hiện tượng. Biện chứng chủ quan dùng
3


để chỉ tư duy biện chứng tức là những mối liên hệ, vận động và phát triển của ý
thức, của tư duy con người.
Theo lập trường của con người duy vật: biện chứng chủ quan là sự phản
ánh biện chứng khách quan do đó đã giải thích một cách khoa học về nguồn gốc
biện chứng của thế giới.
1.2- Phép biện chứng duy vật có cơ sở khoa học và nguồn gốc lịch sử
nào?
Phép biện chứng duy vật khoa học là sự kế thừa phép biện chứng cổ điển
Đức trên một tinh thần phê phán khoa học, loại trừ tính chất duy tâm, xác lập
trên một lập trường duy vật khoa học hiện đại, trên cơ sở của những thành tựu
khoa học hiện đại. Các phát minh khoa học lớn ở thế kỷ XIX đã giữ một vai trò

đặc biệt quan trọng trong việc xác lập cơ sở khoa học cho phép biện chứng
Macxit; đó là học thuyết về tế bào với tư cách là xuất phát điểm thống nhất của
mọi vật chất sống; đó cịn là học thuyết tiến hóa các giống loài sinh vật, là học
thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Vào đầu thế kỷ XX hàng loạt các
phát minh lớn trong lĩnh vực khoa học tự nhiên như phát hiện ra cấu trúc nguyên
tử, cấu trúc ADN của sự sống, học thuyết lượng tử...đã giữ một vị trí quan trọng
cho việc chứng minh tính đúng đắn của phép biện chứng duy vật khoa học.
Cùng với sự phát triển của thực tiễn cách mạng vô sản – cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới; cùng với sự phát triển ngày càng gia tăng
của khoa học hiện đại, phép biện chứng duy vật Macxit cũng ngày càng được
tiếp tục hoàn thiện và vận động một cách sáng tạo, đóng vai trị phương pháp
luận quan trọng của thực tiễn cách mạng khoa học.
1.3- Xét theo cấu trúc nội dung cơ bản, phép biện chứng duy vật bao gồm
những nguyên lý, quy luật cơ bản nào?
Xét theo nội dung cấu trúc cơ bản, phép biện chứng duy vật khoa học bao
gồm hai nguyên lý cơ bản: Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến và nguyên lý về
sự phát triển; ba quy luật lớn; quy luật thống nhất và duy tâm giữa các mặt đối
lập, quy luật phủ định của phủ định. Sáu cặp phạm trù cơ bản với tư cách là sáu
quy luật nhỏ của phép biện chứng, đó là cặp phạm trù cái chung và cái riêng, tất
nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức, nguyên
nhân và kết quả, khả năng và thực hiện.
4


Trong cấu trúc nội dung cơ bản đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đóng
vai trị là ngun lý xuất phát và nền tảng. Nguyên lý về sự phát triển giữ vai
trò là nguyên lý trung tâm. Ba quy luật cơ bản được luận giải với tư cách là
những quy luật – nguyên tắc cơ bản nhất của mọi sự vận động và phát triển, còn
lại sáu cặp phạm trù được phân tích với tư cách là những quy luật làm sáng tỏ
các nguyên lý và quy luật lớn.

2. Ý nghĩa nghiên cứu của Phép biện chứng duy vật:
 Nguyên lý về liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần phải có
quan điểm tồn diện. Với quan điểm này, khi nghiên cứu sự vật phải xem xét tất
cả các mối liên hệ của bản thân sự vật và với các sự vật hiện tượng khác.
 Phải phân loại các mối liên hệ để hiểu rõ vị trí, vai trị của từng mối liên hệ
với sự vận động và phát triển của sự vật.
 Nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là
vận động đi lên thì trong nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát
triển. Quan điểm phát triển địi hỏi phải phân tích sự vật trong sự phát triển, cần
phát hiện cái mới, ủng hộ cái mới, cần phải tìm nguồn gốc của sự phát triển trong
bản thân sự vật.
Tóm lại: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận
của quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Với cách xem xét, nghiên
cứu theo quan điểm toàn diện và phát triển sẽ giúp ta hiểu được bản chất sự vật,
làm cho nhận thức phản ánh đúng đắn về sự vật và hoạt động thực tiễn có hiệu quả
cao.
5


Với từng quy luật lại cho ta một ý nghĩa riêng, đặc thù và cũng đặc biệt quan
trọng khi nghiên cứu thế giới tự nhiên, con người và xã hội.
a/ Quy luật: thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập: Mâu thuẫn là
khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên muốn nắm được bản chất
của sự vật cần phải phản đối cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của
chúng. Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng. do đó trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn, phải có phương pháp phân tích mẫu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách
cụ thể. Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối
lập và với những điều kiện chín muồi.
b/ Quy luật lượng chất: có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Do sự vận động và phát triển của sự vật, trước hết, là

sự tích lũy về lượng và khi sự tích lũy về lượng vượt quá giới hạn độ thì tất yếu có
bước nhảy về chất, nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống cả hai
khung hướng: Thứ nhất, “tả khuynh”-Tư tưởng nơn nóng, chủ quan duy ý chí, thể
hiện ở chỗ khi chưa có sự tích lũy về lượng đã muốn thực hiện bước nhảy về chất,
thứ hai, “Hữu khuynh”-Tư tưởng bảo thủ, chờ đợi, không dám thực hiện bước nhảy
về chất, khi đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng hoặc chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi
dần dần về lượng. Cần có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện
các bước nhảy khi có các điều kiện đầy đủ.
c/ Quy luật phủ định của phủ định: đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng
chung, là tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Song, q
trình phát triển khơng diễn ra theo đường thẳng mà quanh co phức tạp, phải trải qua
nhiều lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được cách
nhìn phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là
các hiện tượng xã hội. Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất
thắng của cái mới, vì cái mới, là cái ra đời phù hợp vơí quy luật phát triển của sự
vật. Mặc dù khi mới ra đời, cái mới có thể cịn non yếu, song nó là cái tiến bộ hơn,
là gia đoạn phát triển cao hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn cần có ý thức phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát
triển. Trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp
lý của cái cũ, tránh thái độ “hư vô chủ nghĩa”, “Phủ định sạch trơn”

6


d/ Cái chung và cái riêng: thống nhất với nhau, nên trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, chúng ta phải biết phát hiện cái chung và cá biệt hóa cái chung, khi
áp dụng vào cái riêng. Giữa cái chung và cái đơn nhất có sự chuyển hóa lẫn nhau.
Cần phải tạo điều kiện cho sự chuyển hoá cái đơn nhất tiến bộ thành cái chung và
biến cái chung lạc hậu thành cái đơn nhất.
e/ Nội dung và hình thức: ln ln gắn bó hữu cơ với nhau, do đó trong

hoạt động thực tiễn cần tránh sự tách rời hoặc tuyệt đối hố một trong hai mặt đó.
Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xét đốn sự vật, trước hết phải căn cứ
vào nội dung, đồng thời thấy được sự tác động của hình thức với nội dung. Do đó
trong hoạt động thực tiễn cần nắm vững mối quan hệ giữa nội dung và hình thức để
có sự điều chỉnh áp dụng một cách linh hoạt. Muốn hiểu được sự vật, nhận thức
không dừng lại ở hiện tượng, mà phải đi từ hiện tượng đến bản chất. Trong hoạt
động thực tiễn không thể dựa trên tri thức về hiện tượng mà phải dựa trên tri thức
về bản chất của sự vật.
f/ Nguyên nhân và kết quả: tìm nguyên nhân của các hiện tượng trong bản
thân thế giới hiện thực, mối quan hệ nhân quả có tính khách quan. Vì mối liên
hệ nhân quả là đa dạng, cần phân biệt các loại nguyên nhân để có biện pháp xử
lý đúng đắn. Kết quả do nguyên nhân sinh ra nhưng khơng tồn tại một cách thụ
động, vì vậy phải biết khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao
nhận thức và tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển.
g/ Tất nhiên và ngẫu nhiên: Nếu tất nhiên là cái nhất định phải xuất hiện
theo quy luật nội tại của nó, cịn ngẫu nhiên có thể xuất hiện và cũng có thể
khơng xuất hiện, thì trong nhận thức phải đạt đến cái tất nhiên và trong hoạt
động thực tiễn phải dựa vào cái tất nhiên. Khi nhấn mạnh cái tất nhiên, chúng ta
không thể quên cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên ra khỏi cái ngẫu
nhiên. Phải xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên và khi đưa vào
cái tất nhiên, phải chú ý đến những cái ngẫu nhiên.Tất nhiên và ngẫu nhiên có
thể chuyển hóa qua lại, nên phải tạo ra điều kiện để cản trở hay chuyển hóa giữa
chúng do yêu cầu cụ thể của thực tiễn.
h/ Khả năng và hiện thực: Phải phát huy tối đa tính năng động chủ quan
để biến khả năng thành hiện thực khi cần thiết, tránh tư tưởng chờ đợi, thụ động.
3. Phép biện chứng duy vật trong nghiên cứu và quản lý kinh tế:
7


Với tinh thần tiến bộ cách mạng, khoa học của phép biện chứng duy vật với

tư cách là phương pháp luận biện chứng thì chúng ta cần vận dụng các nguyên
tắc phương pháp luận biện chứng trong mọi quá trình nghiên cứu và khoa học và
quản lý kinh tế để có thể đạt được những kết luận khoa học, hiệu quả.
Hai nguyên tắc khái quát có ý nghĩa thời sự hiện nay mà việc vận dụng
phương pháp luận biện chứng vào nghiên cứu và quản lý kinh tế cần quán triệt
là:
1.

Trong nghiên cứu và giải quyết bất cứ một vấn đề kinh tế nào cũng cần

thiết phải nghiên cứu và giải quyết nó trong mối liên hệ thống nhất của các mối
liên hệ phố biến và trong quá trình vận động; phát triển không ngừng. Việc
nghiên cứu và giải quyết vấn đề như thế khơng cho phép hình dung sự vật là cố
định, bất biến; nó địi hỏi phải phân tích và giải quyết vấn đề trong tổng thể các
mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hố – xã hội.
2.

Trong nghiên cứu và quản lý kinh tế cần thiết phải phân tích và giải

quyết một cách khoa học hệ thống các mâu thuẫn nhằm phát hiện và tạo ra động
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Cần khắc phục cách nhìn nhận giản đơn về
mâu thuẫn, nhất là trong điều kiện quốc tế hố, tồn cầu hoá như hiện nay.

8


CHƯƠNG 2: VAI TRÒ TRUNG TÂM KINH TẾ CỦA
HÀ NỘI ĐỐI VỚI CÁC TỈNH TRONG VÙNG ĐBSH
1. Vị trí của Hà Nội trong vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH):
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và là địa bàn chiến

lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phịng, an ninh, đối
ngoại của cả nước. Sông Hồng là ranh giới chia vùng thành các tỉnh phía Bắc và
phía Nam sơng Hồng. Các tỉnh, thành phố ở phía Bắc vùng ĐBSH gồm 7 tỉnh,
thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh; trong đó có các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phịng. Các tỉnh thuộc phía
Nam của ĐBSH, gồm 4 tỉnh: Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình
Vùng đồng bằng sơng Hồng có diện tích tự nhiên là 14.812 km 2, dân số
năm 2004 khoảng 17,65 triệu người; chiếm 4,5% diện tích và 21,81% dân số của
cả nước; mật độ dân số cao nhất (1.087 người/km 2) và diện tích đất nơng nghiệp
bình qn đầu người thấp nhất so với các vùng khác và có xu hướng ngày càng
thu hẹp trong q trình đơ thị hố.
Sau 20 năm đổi mới, cùng với Hà Nội, các tỉnh – thành phố trong vùng
ĐBSH thể hiện là một trong những vùng phát triển năng động của cả nước, chỉ
đứng sau vùng Đông Nam Bộ (ĐNB) và đã góp phần quan trọng tạo nên sự
chuyển biến tích cực của tình hình kinh tế - xã hội nước ta khi bước vào kỷ
nguyên mới.
Tuy nhiên, về đặc điểm tự nhiên của Hà Nội và cả vùng DDBSH có điểm
yếu là: nền đất của các cơng trình, nhà ở thấp hơn cốt của các lịng sơng gây khó
khăn khơng nhỏ; tình trạng lũ lụt có diễn biến nghiêm trọng hơn; phần lớn dân
số sống ở nông thôn nhưng đất nơng nghiệp lại ít và số người nơng dân thiếu
đất canh tác ngày một gia tăng khi công nghiệp phát triển mạnh mẽ; bị ảnh
hưởng lớn của tư duy bao cấp, trơng chờ ỉ lại,…
2- Những đóng góp về kinh tế của Hà Nội với các tỉnh vùng ĐBSH
Năm 2005, vùng ĐBSH đóng góp 27,5% GDP của cả nước, tổng thu ngân
sách của vùng khoảng 53,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,4% thu ngân sách của cả

9


nước; giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm 21,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của

cả nước; thu hút được khoảng 24% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.1- Phát triển các KCN và đơ thị hố:
Ven sơng Hồng, dọc các quốc lộ chính và bao quanh thủ đơ là một vệ tinh
các khu cơng nghiệp, các đơ thị mới góp phần đẩy mạnh chất và lượng của tiến
trình đơ thị hố trong vùng. Tính đến 30/6/2006, cả vùng tất cả 32 khu công
nghiệp và khu chế xuất; hầu hết các KCN đều cách Hà Nội không xa, điều này
chứng tỏ vai trò của trung tâm kinh tế Hà Nội với các tỉnh trong khu vực. Công
nghiệp phát triển tương đối nhanh, tập trung nhiều ngành cơng nghiệp giữ vị trí
quan trọng của cả nước, thu hút hàng trăm doanh nghiệp và tạo việc làm cho
khoảng 1,5 vạn lao động, tạo ra khoảng 3,7 nghìn tỷ đồng GDP. Các đơ thị và
các khu cơng nghiệp trong vùng có nếp sống đơ thị và phong cách kinh doanh
tiên tiến, cuốn hút sự phát triển chung của các vùng xung quanh. Giá trị sản xuất
cơng nghiệp tăng bình qn khoảng 14%/năm. Chủ trương của Đảng và nhà
nước là đầu tư phát triển mạnh vùng kinh tế trọng điểm Phía Bắc là nịng cốt
kinh tế của vùng ĐBSH. .
2.2- Cơ sở hạ tầng và hệ thống giao thông :
Mạng lưới kết cấu hạ tầng của vùng đã được tăng cường đáng kể, về cơ bản
nhiều mặt có thể đáp ứng yêu cầu phát triển, hợp tác ở mức cao hơn trước. Từ
trung tâm là Hà Nội, nhiều tuyến đường quốc lộ lớn được xây dựng, nâng cấp và
cải tạo: Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, Quốc lộ 10, 183, 39, đường Bắc
Thăng Long - Nội Bài, đường Láng - Hoà Lạc; xây dựng lại các cầu Bình, Phú
Lương, Lai Vu (Hải Dương); xây dựng mới cầu Tân Đệ (Thái Bình), cầu Thanh
Trì (Hà Nội), Yên Lệnh (Hưng Yên). Hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống
thuỷ lợi vào loại khá so cả nước. Với hệ thống giao thơng an tồn, thơng suốt đã
tạo sự giao lưu, vận chuyển hàng hoá được dễ dàng với chi phí thấp góp phần
nâng cao đời sống nhân dân trong vùng và giảm chi phí sản xuất kinh doanh.
Mạng lưới bưu chính viễn thơng phát triển nhanh, tính đến năm 2006 tồn
bộ các tỉnh trong vùng có mạng thơng tin viễn thơng kỹ thuật số, tất cả các xã
đều có điện thoại, bình qn có 32 máy/100 dân, riêng Hà Nội trên 55 máy/100
dân (trong khi cả nước đạt 15,8 máy/100 dân).


10


2.3- Thương mại:
Với hệ thống siêu thị hiện đại và hàng chục chợ đầu mối bán buôn ở cửa
ngõ thủ đơ là nơi giao lưu, trao đổi hàng hố các sản phẩm của các ngành sản
xuất giữa Hà Nội và các tỉnh lận cận. Hệ thống phân phối chuyên nghiệp của các
công ty phân phối lớn trong khu vực và trên Thế giới đã có thị phận và chỗ đứng
lớn tại Thủ đơ, từ nền tảng đó họ mở rộng kinh doanh ở tất cả các tỉnh, thành
phố thuộc vùng.
Người dân Hà Nội có mức sống cao hơn các tỉnh trong vùng nên sức mua
của thị trường Hà Nội với các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, hàng thủ
công, sản phẩm từ các khu CN vệ tinh là rất lớn; tạo tổng cầu phong phú cho hệ
thống thương mại và sản xuất trong vùng.
2.4- Dịch vụ, du lịch:
Khu vực dịch vụ có bước phát triển rõ nét, có loại dịch vụ đạt trình độ phát
triển của khu vực và đem lại hiệu quả. Về cơ bản, dịch vụ ngân hàng, viễn thơng
đã được hiện đại hố, có chất lượng, đạt trình độ chung của khu vực; các hình
thức thanh toán hiện đại đã bắt đầu phát triển, thúc đẩy sự phát triển chung. Tốc
độ tăng giá trị các ngành dịch vụ bình quân hàng năm đạt khoảng 8,5%. Thương
mại phát triển mạnh, cả ở thành thị và nông thôn. Du lịch phát triển ngày một đa
dạng và có chất lượng.
2.5- Ngành Nông nghiệp:
Nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm cả nơng, lâm nghiệp, thủy sản) có
tốc độ tăng trưởng nhanh hơn trước, đã và đang chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo
hướng sản xuất hàng hoá hướng về xuất khẩu. Đã xuất hiện một số sản phẩm có
chất lượng tương đối tốt, rõ nhất là gạo chất lượng cao, lợn sữa xuất khẩu. Kinh
tế thuỷ sản phát triển, xuất hiện một số mơ hình ni trồng thuỷ sản có hiệu quả.
Nổi bật là mơ hình ni cá nước ngọt, nuôi tôm nước lợ, nuôi ngọc trai và nuôi

hải sản.
2.6- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực:
Tại vùng ĐBSH, bước đầu trong một số lĩnh vực đã hình thành được đội
ngũ doanh nhân và lao động kỹ thuật có năng lực tiếp cận trình độ quốc tế trong
các lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngồi như: điện tử, đồ điện dân dụng, công
nghệ phần mềm, sản xuất vật liệu, lắp ráp ô tô, xe máy; may mặc, giày dép,
11


nước giải khát. Vùng có khoảng 30 vạn doanh nghiệp công nghiệp (ước khoảng
gần 90 vạn các nhà doanh nghiệp), chiếm 39,4% số doanh nghiệp công nghiệp
cả nước và hơn 5 nghìn doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ thương mại, du lịch
(ước khoảng gần 15-20 nghìn các nhà doanh nghiệp), chiếm 21% số doanh
nghiệp thương mại du lịch cả nước.
3- Những hạn chế trong vào trò trung tâm kinh tế của Hà Nội trong
vùng ĐBSH
Tuy nhiên, Hà Nội còn nhiều yếu kém: Kinh tế tăng trưởng chưa tương
xứng với tiềm năng và vị thế của Thủ đơ. Vai trị trung tâm kinh tế của cả nước
chưa nổi bật, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh thấp. Công tác quản lý đơ thị
cịn bất cập. Chất lượng hạ tầng kĩ thuật đô thị thấp so với yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Tình trạng ùn tắc giao thơng, đất công bị lấn chiếm, ô nhiễm
môi trường, chưa đảm bảo an toàn thực phẩm, tăng dân số cơ học đang là những
vấn đề bức xúc, một số tệ nạn xã hội gia tăng. Xây dựng cơ sở hạ tầng, quy
hoạch đơ thị cịn nhiều ngổn ngang, bất hợp lý.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực - hiệu quả.. Một bộ
phận cán bộ, đảng viên suy thối đạo đức, quan liêu tham nhũng.
Quản lý hành chính ở một số đơn vị cơ sở cấp phường còn nhiều sách
nhiễu, gây khó khăn trở ngại cho nhân dân.
Nguyên nhân của những khuyết điểm:
1. Đảng bộ và chính quyền thành phố Hà Nội chưa thật chủ động, năng

động nghiên cứu, triển khai các giải pháp kiên quyết, các khâu đột phá để phát
huy tốt vai trò và vị thế của Thủ đô, chưa khai thác được sự trợ giúp của các Bộ,
ban ngành Trung ương, các cơ quan khoa học, các chuyên gia.. trên địa bàn;
chưa chủ động phối hợp với các địa phương, trực tiếp là các tỉnh thành lân cận
trong khu vực kinh tế đồng bằng sông Hồng và tam giác kinh tế khu vực phía
Bắc.
2. Một số bộ, ban, ngành trung ương chưa nhận thức sâu sắc trách nhiệm
trong việc xây dựng và phát triển Thủ đô. Việc phân công, phân cấp giữa Trung
ương và thủ đơ cịn chưa rõ ràng, cịn chồng chéo chưa khai thác tốt các tiềm
năng trên địa bàn.

12


3. Một số địa phưong, trước hết là lân cận Hà Nội chưa chủ động phối
hợp với Hà Nội xây dựng và thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh
tế, văn hố, xã hội có hiệu quả.
(1) Các ngành kinh tế của ĐBSH phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế của vùng; các mục tiêu quy hoạch đề ra hầu hết chưa thực hiện được.
Sau khi quy hoạch vùng ĐBSH được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (tại Quyết
định số 667/QĐ-TTg ngày 23/8/1997), các ngành, các địa phương đã tích cực
triển khai thực hiện quy hoạch, bước đầu đã đạt được những thành tựu quan
trọng, nhưng chưa tạo được đà bứt phá, mức đạt còn thấp so mục tiêu của quy
hoạch.
- Mục tiêu mức tăng GDP thời kỳ 1996 - 2000 chỉ bằng khoảng 80% mục
tiêu quy hoạch đã đề ra (9/11,45%/năm), tốc độ tăng GDP của các năm 20012004 cũng chỉ đạt mức khoảng 8,5 - 9%/năm. Theo xu thế này, mục tiêu tăng
trưởng của quy hoạch (thời kỳ 2001 - 2005: 13% và thời kỳ 2006 - 2010: 14%)
khó có khả năng đạt được.
- Chưa tận dụng hết năng lực sản xuất công nghiệp, mức phát huy công
suất thiết kế của phần lớn doanh nghiệp cịn thấp. Đến nay mức phát huy cơng

suất thiết kế cao nhất chỉ khoảng 60% (một số loại phát huy công suất tương đối
cao như xi măng khoảng 70%, gạch ốp lát 62%, ti vi 53%, dệt vải 35%, quần áo
may sẵn 58%, chế biến sữa 47%). Một số sản phẩm cao cấp đặc trưng của vùng
như lắp ráp ôtô, xe máy, xe đạp, mức huy động công suất cũng không cao .
- Xuất khẩu chỉ đạt được khoảng 78% so với mục tiêu đề ra (năm 2000 đạt
khoảng 2,1 tỷ USD, năm 2002 đạt 2, 424 tỷ USD, năm 2004 xấp xỉ 3 tỷ USD).
Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người của vùng ĐBSH năm 2004 bằng
88% xuất khẩu bình quân đầu người của cả nước và chỉ bằng khoảng 20-25%
của vùng Đông Nam Bộ. Các ngành tiểu thủ cơng nghiệp, mỹ nghệ tuy có tiềm
năng song phát triển còn hạn chế.
- Thu ngân sách nhà nước còn thấp so với tiềm năng của vùng. Tỷ lệ huy động
GDP vào ngân sách nhà nước năm 2004 đạt khoảng 20 %, thấp hơn mức trung bình
của cả nước và chưa có xu hướng tăng một cách ổn định.
- Mục tiêu đảm bảo việc làm cho người lao động khơng đạt, vùng ĐBSH có
tỷ lệ thất nghiệp ở đơ thị vào loại cao nhất cả nước, tới trên 6% (trung bình của
13


cả nước 5,6%).
(2) Cơ cấu kinh tế có bước phát triển song bộc lộ nhiều yếu kém, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế không đạt được mức đề ra của quy hoạch. Năm 2004 so với
các mục tiêu đề ra cho năm 2000 thì tỷ trọng cơng nghiệp đã vượt (40,5/33,1%),
tỷ trọng nông nghiệp cũng đã vượt mức quy hoạch (11,7/15,9%), tỷ trọng dịch
vụ không đạt mục tiêu (47,8/51%). Biểu hiện cơ bản về yếu kém cơ cấu là:
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ (bổ trợ) nhằm phát huy thế và lực trong
vùng ĐBSH cịn rất kém, chính vì vậy dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm
của vùng còn thấp.
Đến nay các ngành sản xuất phụ trợ đi theo lắp ráp ôtô, xe máy, tivi như
công nghiệp sản xuất phụ tùng ôtô, phụ tùng xe máy, linh kiện điện tử, vỏ ti vi...
cịn q non trẻ và khơng đáng kể nên tỷ lệ nội địa hoá rất thấp, chẳng hạn đối

với sản phẩm dệt chỉ đạt 30%, ôtô 6%, hàng điện tử 10%. Đánh giá chung, giá
trị quốc gia (thể hiện qua công nghiệp bổ trợ) chỉ khoảng 20-25%. Đây là một
khoảng cách rất lớn phải phấn đấu gia tăng.
- Dịch vụ chất lượng cao chưa phát triển.
Kinh nghiệm các nước, để đảm bảo nền kinh tế phát triên vững chắc, thì
giá trị gia tăng các ngành sản xuất (công nghiệp-xây dựng và nông lâm, ngư
nghiệp) tăng 1% thì giá trị gia tăng ngành dịch vụ phải tăng từ 1,1-1,8%. Như
vậy, thời gian qua các ngành sản xuất tăng khoảng 8,8%/năm thì dịch vụ tăng ít
nhất là 10%, song thực tế chỉ tăng khoảng 7%/năm.
- Chưa lựa chọn được cơ cấu kinh tế hấp dẫn các nhà đầu tư, nhất là các
nhà đầu tư nước ngoài. Mức thu hút đầu tư nước ngồi cịn thấp so với vùng ĐNB.
Tính đến hết năm 2004, đầu tư trực tiếp nước ngoài của vùng chỉ bằng khoảng 25%
tổng mức của cả nước, và bằng 40% của vùng Đông Nam Bộ.
- Tại vùng ĐBSH, chủ trương phát triển các sản phẩm chủ lực có ưu thế
cạnh tranh chưa rõ (chưa rõ cả về chủng loại sản phẩm, khối lượng và chất
lượng sản phẩm); do đó đầu tư phát triển các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSH
cịn ít. Đến nay các ngành cơ khí chế tạo, điện tử, sản xuất đồ điện... vốn có thế
mạnh của vùng, song khơng được phát triển tương xứng.
Nhìn chung, từ lợi thế của vùng, từ những mơ hình làm ăn có hiệu quả cho
thấy, nếu hỗ trợ phát triển nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hợp lý từ nguồn
14


bù đắp chi ngân sách hàng năm của vùng, tạo thêm nhiều việc làm, hỗ trợ thúc
đẩy phân công lại lao động tại chỗ; chuyển giao và ứng dụng nhanh khoa học
công nghệ mới... để tăng nguồn thu cho ngành và địa phương, thì GDP của
vùng ĐBSH có thể đạt cao hơn, bằng khoảng 1,4 lần so mức đã đạt được hiện
nay và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có thể đạt mức 12-13%/năm chứ
khơng phải mức 8-9%/năm như hiện nay.
(3) Diện tích đất nơng nghiệp khơng nhiều và có xu hướng giảm dần nhưng

giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích chưa cao, 80% dân số nơng thơn cịn làm
nơng nghiệp, tiềm lực trong dân cư hạn chế; các đô thị và đất phi nông nghiệp
mở rộng, một bộ phận lớn nơng dân khơng có việc làm..., đang đặt ra nhiều vấn
đề gay gắt.
(4) Sự phát triển cịn mang tính tự phát, khơng bám sát quy hoạch đề ra, rõ
nhất ở các lĩnh vực sau đây:
- Nhiều điểm đô thị phát triển tự phát, bám quá sát vào các trục giao thông
lớn như ở đường 5, đường 18, đường 1A, đường 39...; trình độ quản lý đô thị
thấp, dẫn đến hạn chế việc mở rộng đường khi có nhu cầu; đặc biệt, làm cản trở
gây ùn tắc và tai nạn giao thông.
- Các làng nghề phát triển tự phát, hầu hết chưa có quy hoạch, đặc biệt
khơng có biện pháp chống ơ nhiễm mơi trường, dẫn đến một số quận, huyện,
thành phố và nhiều vùng nông thôn, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng.
- Hệ thống đào tạo từ bậc cao đẳng trở lên và dạy nghề ở vùng ĐBSH chưa
được quy hoạch phát triển một cách có căn cứ khoa học là nguyên nhân chủ yếu
làm cho chất lượng đào tạo thấp và chưa theo kịp u cầu của thị trường.
(5) Vẫn cịn có sự chênh lệch đáng kể về trình độ phát triển giữa các tỉnh
của hai tiểu vùng.
Hiện nay các tỉnh phía Nam của vùng ĐBSH vẫn cịn khó khăn, kém phát
triển so với các tỉnh phía Bắc của vùng ĐBSH.
- Các tỉnh, thành phố ở phía Bắc vùng ĐBSH gồm 7 tỉnh, thành phố là
những trung tâm thương mại và giao lưu quốc tế của vùng và cả nước; là địa bàn tập
trung nhiều ngành cơng nghiệp (cơ khí chế tạo, điện tử tin học, sản xuất hàng tiêu
dùng cao cấp) và dịch vụ (chiếm tới 83,6% trong tổng GDP của vùng, trong khi của
cả vùng chỉ chiếm 76% so cả nước); tập trung phần lớn cán bộ khoa học, các trường
15


đại học và trung tâm nghiên cứu của vùng. GDP bình quân đầu người gấp 1,2 lần cả
vùng ĐBSH và gấp 2 lần của các tỉnh Nam ĐBSH; thu ngân sách trên 1 đồng GDP

gấp 1,8 lần so các tỉnh Nam vùng ĐBSH, xuất khẩu bình quân đầu người gấp 4,8 lần
vùng Nam ĐBSH.
- Các tỉnh thuộc phía Nam của ĐBSH, gồm 4 tỉnh chủ yếu vẫn là sản xuất
nông nghiệp; công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển (mới chiếm 53,2% trong
GDP); chưa huy động và thu hút được nhiều đầu tư trong nước và nước ngoài,
nhất là trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản. Lực lượng cán bộ khoa học và
lao động kỹ thuật cơng nghiệp cịn ít. Tốc độ tăng trưởng bình quân chỉ đạt
7,3%/năm, bằng 81% tốc độ tăng trưởng của cả vùng ĐBSH và bằng khoảng
71% tốc độ tăng trưởng của các tỉnh KTTĐ Bắc Bộ (Bắc ĐBSH). Mức GDP
bình quân đầu người chỉ bằng 60% của cả vùng ĐBSH và 49% của các tỉnh Bắc
ĐBSH. Thu ngân sách thấp, thu không đủ chi (hàng năm nhận trợ cấp của Trung
ương khoảng 70-80%).
Sự phát triển và mức sống của dân cư ở hai tiểu vùng còn chênh lệch lớn,
làm hạn chế sự phát triển chung, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, đã đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết.
(6) Nhìn chung, trình độ cơng nghệ của vùng ĐBSH vẫn cịn thấp và còn
thấp nhiều so với nhiều nước trong khu vực.
Thiết bị của một số lĩnh vực như bưu chính viễn thông, sản xuất hàng điện
tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, một số ngành thực phẩm và hàng tiêu dùng
đạt trình độ tương đối khá. Việc phát triển khoa học, cơng nghệ trong các ngành
cịn lại và trong nơng nghiệp, thuỷ sản cịn rất hạn chế. Các ngành cơng nghệ
cao, tự động hóa cịn ít.
(7) Chưa phát huy hết năng lực của các KCN đã có, tỷ lệ diện tích cho th
thấp, đóng góp cho xuất khẩu và thu hút lao động chưa cao.
Trừ số ít KCN ở Hà Nội, có tỷ lệ lấp đầy trên 40% diện tích, cịn lại hầu hết
các KCN khác đạt tỷ lệ thấp, có KCN tỷ lệ đất cho thuê chỉ đạt khoảng 16%.
Đến nay chỉ có khoảng 20 trong 32 KCN của vùng đang hoạt động. Nhiều KCN
tuy được cấp phép, đã hình thành Ban quản lý KCN, đã đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng... nhưng phát huy hiệu quả rất thấp, thậm chí chưa phát huy được hiệu
quả.

16


(8) Vùng ĐBSH tập trung số doanh nghiệp Nhà nước nhiều nhất trong cả
nước (chiếm khoảng 40% số doanh nghiệp), nhưng nhiều doanh nghiệp hoạt
động cịn kém hiệu quả, khơng có lãi; nhiều doanh nghiệp Nhà nước trong diện
chậm tiến hành cổ phần hố, ảnh hưởng khơng nhỏ tới chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và tăng trưởng của vùng.
Các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đang gặp khó khăn, đặc biệt các doanh
nghiệp Nhà nước trong ngành dệt, cơ khí... thiếu vốn đầu tư trong việc thay đổi
thiết bị, công nghệ. Nhiều sản phẩm sản xuất ra với giá thành cao, khó tiêu thụ,
sức cạnh tranh kém. Việc bố trí, sắp xếp, nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp
Nhà nước trong vùng vẫn là thách thức lớn, đòi hỏi phải tập trung sức giải
quyết dứt điểm.
(9) Việc hình thành các loại hình thị trường vẫn quá chậm và chưa đồng
bộ; tư duy về kinh tế thị trường thua kém các tỉnh phía Nam, vẫn cịn nhiều yếu
tố tự cung tự cấp; mặt trái của cơ chế thị trường vẫn chi phối khơng nhỏ.
Tình trạng bn lậu và gian lận thương mại, dẫn đến thất thu lớn ngân sách
nhà nước. Đến nay, tình trạng bảo hộ cịn q rộng, đặc biệt đối với một số
doanh nghiệp Nhà nước (thơng qua chính sách miễn giảm thuế, miễn giảm tiền
sử dụng đất, thuê đất,...) đã tạo ra sự ỷ lại, dựa dẫm vào Nhà nước.
Thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn, chưa thực sự
phát triển mạnh, vốn trong dân còn nhiều chưa huy động được; hiệu quả sử dụng
ngoại tệ ở mức thấp, nguồn ngoại tệ huy động được chủ yếu phải đem ra gửi ở
nước ngoài. Thị trường chứng khoán bắt đầu hoạt động từ năm 2001, cho đến
nay còn quá nhỏ bé.
Thị trường bất động sản còn nhiều bất cập, hiện tượng "sốt" đất do đầu cơ
đất vẫn chưa được ngăn chặn kịp thời, gây ra hầu hết các nguyên nhân khiếu
kiện, làm hạn chế rất lớn đến khả năng đầu tư. Việc quản lý sử dụng đất ở các
địa phương bị buông lỏng; chưa phân công, phân cấp rõ ràng hoặc chồng chéo

trong quản lý quy hoạch giữa các ngành địa chính và xây dựng, đặc biệt ở các đơ
thị trong vùng; chưa có biện pháp, chế tài đủ mạnh để kiểm tra giám sát việc
thực hiện.
Thị trường lao động còn nhiều bất cập, người lao động tuy được tự do tìm
việc làm ở mọi nơi trong nước, song việc tổ chức, hướng dẫn còn lúng túng, tuy
17


có sơi động hơn nhưng chưa thực sự ổn định và hiệu quả. Xuất hiện một số hiện
tượng tiêu cực trong xuất khẩu lao động, gây thiệt hại và hoang mang trong tầng
lớp lao động trẻ nơng thơn.
(10) Nhìn chung việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng (KCHT) chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển, nhất là đầu tư phát triển KCHT của các đô thị lớn, mạng
lưới đường cao tốc và hệ thống cơ sở vật chất cho phát triển công nghệ thông
tin.

18


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ
TRUNG TÂM KINH TẾ CỦA HÀ NỘI
1. Giải pháp mới có tính chất đột phá
Tập trung vào hiện đại hoá: Phát triển các ngành kỹ thuật cao, dịch vụ chất
lượng cao như: Công nghiệp phần mềm, thiết bị tin học, tự động hoá và các sản
phẩm nghiên cứu khoa học thành ngành công nghiệp mũi nhọn; Sản xuất các thiết bị
tự động hoá, rơ bốt; Phát triển các ngành cơng nghiệp cơ khí chế tạo.
Khẩn trương xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ (hỗ trợ)
mà vùng KTTĐ Bắc Bộ có lợi thế cạnh tranh để tăng giá trị gia tăng của sản
phẩm, tăng sức cạnh tranh, đảm bảo thắng lợi trong hội nhập và hiệu quả: các
ngành cơ khí chế tạo thiết bị và phù tùng như các thiết bị cho sản xuất ô tô, xe

máy, sản xuất thiết bị điện và linh kiện điện tử, sản xuất động cơ nổ, động cơ
điện (nhất là động cơ điện có công suất lớn)…
Xây dựng mới khu sinh dưỡng công nghiệp (Khu cơng nghiệp chun
nghiên cứu cải tiến các xí nghiệp cơng nghiệp hiện có) đặt tại Bắc Ninh (ở đây
cịn đất xây dựng, gần các trung tâm nghiên cứu khoa học, gần các khu công
nghiệp tập trung, thuận tiện giao thông)
Xây dựng trung tâm đào tạo chất lượng cao cho cả vùng đặt tại Hà Tây (ở đây
có khu cơng nghệ cao, gần Hà Nội- trung tâm đào tạo lớn của cả nước).
Xây dựng trung tâm đào tạo chất lượng cao và nghiên cứu xây dựng trường
đại học đa ngành chất lượng cao đặt tại Hưng Yên.
Nghiên cứu xây dựng trung tâm đào tạo nghề trình độ cao cho cả vùng đặt
tại Vĩnh Phúc.
Xây dựng trung tâm y tế chuyên sâu cho cả vùng dự kiến đặt tại Hà Tây và
Hải Dương.
Phát triển mới các tuyến đường cao tốc: Hà Nội- Hải Phòng (theo hướng
đường 5 lệch về Nam ĐBSH);
Xây dựng mới tuyến đường sắt từ Yên Viên – Phả Lại; Hạ Long – Cái Lân;
đường sắt nối cảng Hải Phịng ra Đình Vũ.
Khẩn chương nghiên cứu và cho xây dựng cảng nước sâu mới tại Hải
Phòng (nếu điều kiện kỹ thuật cho phép)
19


Xây dựng đường xe điện ngầm, đường sắt nội đô Hà Nội và nối đường sắt
Hà Nội - Hoà Lạc cũng như các tuyến đường sắt nối cảng biển với các kho trung
chuyển.
Xây dựng tổng kho trung chuyển ở Hải Dương để tập kết hàng hoá từ các
cảng biển rồi giải phóng đi các nơi cho thuận tiện, nhanh chóng và thơng suốt vì
đây là nơi có khả năng tập trung đầu mối giao thông bộ, sắt, thuỷ phù hợp với
trung chuyển hàng hoá đi các nơi trong vùng.

2- Giải pháp phát triển ngành và lĩnh vực chủ đạo
2.1. Đối với công nghiệp:
Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp sử dụng lao động có trình độ
cao, các sản phẩm có sức cạnh tranh để xuất khẩu. Đồng thời phát triển thế
mạnh công nghiệp phụ trợ, phát triển sản phẩm mới đi ngay vào công nghệ hiện
đại đi đôi với bảo vệ môi trường. Trước hết ưu tiên phát triển cơng nghệ phần
mềm, thiết bị tin học, tự động hố; vật liệu từ tính cao cấp, vật liệu kỹ thuật cao
(cách nhiệt, chịu mài mòn), sứ polyme cách điện, polyme dẫn điện, vật liệu mới,
vật liệu composit, polyme tổng hợp...; sản xuất thép (các sản phẩm thép hợp
kim, thép tấm, thép lá, thép chế tạo).
Đồng thời tiếp tục cải tạo, nâng cấp cơng nghiệp cơ khí chế tạo (máy cơng
cụ, máy xây dựng, động cơ, sản phẩm điện lạnh, máy bơm nước, sản phẩm cơ
khí chế tạo vật liệu và thiết bị điện); cơ khí đóng và sửa chữa phương tiện vận
tải (cơng nghiệp đóng và sửa chữa tàu thuyền, tàu, toa tàu hoả hiện đại, xe ô tô
chở khách chất lượng cao, sản xuất thiết bị bốc dỡ hàng hố có sức nâng lớn),
thiết bị chế biến nơng, thuỷ sản...; công nghiệp sản xuất vật liệu xi măng; sản
phẩm gốm sứ các loại; vật liệu nội thất và vật liệu lợp; công nghiệp chế biến
nông lâm, thuỷ sản; công nghiệp dược phẩm, công nghiệp may mặc, dệt và da,
giầy.
Đồng thời quan tâm đến phát triển tiểu thủ công nghiệp, nhất là làng nghề
truyền thống và làng có nghề, coi đây là thế mạnh đặc thù của vùng cần phát
huy.
Chuyển dịch dần công nghiệp lên dọc tuyến hành lang đường 18 tại những
khu vực gò đồi, đất xấu để giảm sử dụng đất tốt dành cho sản xuất nông nghiệp
và tránh sự tập trung công nghiệp quá mức vào các đô thị, khu dân cư ở vùng
20




×