Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân huyện nông sơn, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.21 KB, 50 trang )

1

Phần 1. MỞ ĐẦU

1.1. Lý do lựa chọn Đề án
1.1.1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân
và tầng lớp trí thức. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng nhân dân vừa là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng Hội đồng nhân dân các cấp có thực
quyền để đảm đương đầy đủ vai trị, trách nhiệm của mình là một u cầu cấp
thiết hiện nay.
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta cho thấy, mọi thắng lợi
cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đều có sự đóng góp của Hội
đồng nhân dân. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, bên cạnh những thành cơng
thì vấn đề tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân đang có những bất
cập, hạn chế như: Tính năng động, sáng tạo của HĐND chưa cao; hiệu quả
hoạt động chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới và phát
triển mạnh mẽ hiện nay; số lượng đại biểu HĐND chuyên trách quá ít nên việc
tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của HĐND, Thường trực và các Ban của
HĐND còn hạn chế; vai trò điều hòa, phối hợp hoạt động của Thường trực
HĐND đối với các Ban chưa thực rõ nét; việc kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt
động của các Ban HĐND, các Tổ đại biểu và đại biểu HĐND chưa đi vào nề
nếp; công tác kiểm tra giám sát chưa được tập trung đúng mức; việc giám sát
và đôn đốc giải quyết các kiến nghị, phản ánh tâm tư nguyện vọng của cử tri,



2

giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân chưa có kết quả thật rõ nét,
chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc xem xét chuyển đơn, yêu cầu các cơ quan nhà
nước giải quyết... Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải nâng cao chất lượng,
hiệu quả Hội đồng nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh” như văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định
“Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
các cấp, bảo đảm thực hiện đúng thẩm quyền và tự chịu trách nhiệm trong
phạm vi được phân cấp”.
1.1.2. Nông Sơn là một huyện của tỉnh Quảng Nam. Nơng Sơn vốn là
phần phía Tây của Quế Sơn, nhưng được tách ra thành huyện riêng theo Nghị
định 42/2008/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam. Huyện Nơng Sơn có diện tích
là 455,92 km² và dân số là 34.524 người. Nơng Sơn có 7 xã: Phước Ninh, Quế
Lâm, Quế Lộc, Quế Ninh, Quế Phước, Quế Trung, Sơn Viên. Thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới tổ chức và hoạt động
của cơ quan dân cử, từ khi chia tách đến nay, Hội đồng nhân dân huyện đã
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình theo luật định; góp phần cùng với
hệ thống chính trị, qn và dân thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cải thiện và
từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên địa bàn.
Tuy nhiên, để phát huy tốt hơn nữa vai trò, nhiệm vụ của cơ quan dân
cử, người đại biểu dân cử theo quy định của pháp luật và đáp ứng nhu cầu
thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng
nhân dân, đồng thời khắc phục những bất cập, hạn chế trong tổ chức, hoạt
động thì Hội đồng nhân dân huyện cần phải có những giải pháp, biện pháp
nhằm nâng cao năng lực và kỹ năng hoạt động cho đại biểu nói chung và cho
Thường trực, các Ban của Hội đồng nhân dân huyện nói riêng, đặc biệt là



3

trong giai đoạn chuẩn bị cho hoạt động của Hội đồng nhân dân khóa mới
(nhiệm kỳ 2016-2021) sẽ được tổ chức bầu cử vào ngày 22 tháng 5 năm 2016.
Với ý nghĩa đó, tơi chọn đề án “Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam” để làm Đề án
tốt nghiệp Chương trình cao cấp lý luận chính trị của mình.
1.2. Mục tiêu của Đề án
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân, phân tích thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện
trong thời gian qua, để đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện - trọng tâm là
nâng cao năng lực hoạt động cho đại biểu Hội đồng nhân dân huyện.
1.3. Nhiệm vụ của Đề án:
Việc thực hiện Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân của huyện Nơng Sơn có ý nghĩa hết sức quan trọng, để từng
bước khẳng định vai trị, vị trí của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
trong giai đoạn hiện nay.
Việc thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
Hội đồng nhân dân của huyện Nông Sơn” là một yêu cầu cấp thiết trong tình
hình hiện nay. Nội dung Đề án sẽ đề cập về tình hình và kết quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân của huyện Nông Sơn trong thời gian qua; căn cứ vào
các cơ sở pháp lý và thực tiễn hoạt động, Đề án đưa ra mục tiêu, quan điểm,
nhiệm vụ, giải pháp thực hiện trong thời gian đến, trong đó tập trung đến các
nhiệm vụ, giải pháp để nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu Hội đồng
nhân dân huyện, vì đây là yếu tố có tính quyết định để nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện, góp phần thực hiện mục
tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân.

1.4. Giới hạn của Đề án


4

1.4.1. Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu của Đề án là hoạt động của Hội đồng nhân dân
và đại biểu Hội đồng nhân dân của huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Do giới hạn về mặt thời gian, phạm vi nghiên cứu của Đề án chủ yếu
tập trung vào hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng
Nam trong nhiệm kỳ 2011-2016 để đưa ra nhận định, đánh giá về những mặt
đạt được, những hạn chế; từ đó đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng
cao, chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện trong thời gian đến
(2016 - 2021)
1.5. Bố cục của Đề án:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Đề án được chia thành bốn phần như
sau:
Phần 1: Cơ sở lý luận, cơ sở chính trị - pháp lý và căn cứ thực tiễn Đề án
Phần 2: Nội dung cơ bản của Đề án
Phần 3: Tổ chức thực hiện Đề án
Phần 4: Dự kiến hiệu quả thực hiện Đề án


5

Phần 2. NỘI DUNG
2.1. Căn cứ xây dựng Đề án
2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận
2.1.1.1. Khái quát sự hình thành của cơ quan dân cử ở Việt Nam

Ở nước ta, tiền thân của cơ quan dân cử là Quốc dân Đại hội diễn ra ở
Xô Viết Nghệ Tĩnh vào năm 1930. Sau cách mạng tháng 8 (năm 1945), tổ
chức Hội đồng nhân dân ở các cấp khác nhau đã trải qua các giai đoạn khác
nhau.
Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở nước ta được tổ chức dựa trên nền
tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân; tư
tưởng Đảng cộng sản Việt Nam, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương
8, khóa VII (tháng 1/1995) do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo. Với nhận thức
này, chính quyền lập ra sau cách mạng tháng 8 năm 1945 là chính quyền dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Với nhiệm vụ lịch sử là đưa nước nhà
đến độc lập và chủ nghĩa xã hội. Đó là Nhà nước thực sự của dân, do dân và
vì dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân thực hiện quyền làm chủ thơng
qua các cơ quan đại diện của mình: "Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất
của Nhà nước, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa
phương". Giai đoạn đầu Hội đồng nhân dân chỉ được thành lập ở một số đơn
vị hành chính. Theo quy định tại Sắc lệnh số 63/SL ngày 23/11/1945 của Chủ
tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa, sau đó được khẳng định trong
Hiến pháp 1946 thì Hội đồng nhân dân được thành lập ở các đơn vị hành
chính tỉnh và xã. Giai đoạn thứ hai Hội đồng nhân dân được thành lập ở tất cả
các đơn vị hành chính. Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 thì các đơn vị
hành chính của nước ta gồm tỉnh, huyện, xã. Hiến pháp năm 1980 cũng như
quy định như Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1992 quy định "Việc
thành lập Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính do luật


6

định". Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (1994) đã quy
định "Hội đồng nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính cấp tỉnh,
huyện, xã”. Đến Hiến pháp năm 2013, khoản 2 Điều 111 quy định “Cấp chính

quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ
chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do luật định”
Hồ Chí Minh có quan điểm rất rõ ràng về việc thiết lập quyền bính của
nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước. Quyền bính đó thể hiện rõ trong việc
để cho tất cả mọi người, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, giàu nghèo, gái
trai cầm lá phiếu bầu ra người thay mặt mình vào Quốc hội và có quyền ứng
cử. Quyền bính của nhân dân cũng thể hiện rõ trong việc nhân dân có quyền
giám sát đại biểu Quốc hội. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Nhân dân có quyền bãi
nhiệm đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu
ấy không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân với đại biểu của mình".
Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh đến mối liên hệ về trách nhiệm giữa đại biểu
dân cử đối với cử tri. Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân phải
luôn lắng nghe ý kiến của cử tri, tổng hợp, chọn lựa và phản ánh ý kiến cử tri
với Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Muốn vậy đại biểu phải luôn gần dân, nắm
được yêu cầu và nguyện vọng của dân.
Quyền bính của nhân dân là quyền bính được thơng qua cán bộ, viên
chức Nhà nước. Về điểm này, Hồ Chí Minh có quan điểm thật đặc sắc khi nói
về chức vụ nguyên thủ quốc gia của mình: “Chức vụ đó là do dân giao phó
trách nhiệm cho”. Khi trả lời phỏng vấn của một nhà báo nước ngồi vào năm
1946, Người nói: “Tơi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút
nào. Bây giờ phải gánh chức chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tơi phải gắng
sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt
trận. Bao giờ đồng bào cho tơi lui, thì tơi rất vui lịng lui. Tơi chỉ có một ham
muốn tột bật là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn


7

được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Một nhà nước vì dân theo quan điểm Hồ Chí Minh là phải coi việc đưa

lại quyền lợi chính đáng cho nhân dân là mục tiêu hoạt động của mình, đồng
thời là Nhà nước đó phải thật sự trong sạch. Dân là chủ của nước nhà thì mọi
hoạt động của Nhà nước phải hướng tới phục vụ cho nhân dân chứ không
phải là “Đè đầu cưỡi cổ nhân dân". Với quan điểm đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta phải hết
sức tránh, chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới u ta, kính ta”. Hồ
Chí Minh cho rằng chính quyền từ Trung ương đến xã đều do dân tổ chức
nên, nhân dân là cơ sở của chính quyền. Vì thế chính quyền phải có trách
nhiệm lo cho dân. Hồ Chí Minh yêu cầu bộ máy chính quyền từ Trung ương
đến xã "không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa.
Nếu khơng tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ khơng khoan dung".
Nhà nước ta là nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng Cộng
sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Điều này đã trở thành một nguyên tắc trong
xây dựng nhà nước mà Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh. Trong lịch sử nước ta
từ khi có chính quyền cách mạng, Đảng ta cũng trải qua khơng ít thời kỳ khó
khăn nhưng nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước khơng bao giờ bị coi nhẹ.
Hồ Chí Minh đã khẳng định “Nhà nước ta đại diện cho ý chí của tồn
thể nhân dân Việt Nam khơng phân biệt đảng phái tơn giáo, giàu nghèo, trai
gái...” chính điều này phản ánh Nhà nước ta là của dân, do dân, vì dân. Nhà
nước này là nhà nước mà trong tổ chức và quản lý phải thực hiện sự thống
nhất, nhưng có sự phân cơng và phân cấp rõ ràng, khơng có sự chia sẻ, chia
cách quyền lực, các quyền lập pháp của Quốc hội, hành pháp của Chính phủ,
tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân phải thống nhất chặt
chẽ với nhau để tất cả quyền lực đều thống nhất là quyền lực của nhân dân.
Kết hợp đúng đắn nguyên tắc tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định
sức mạnh và hiệu lực của bộ máy Nhà nước. Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy


8


định Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước
đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập
trung dân chủ được thực hiện khác nhau trong hoạt động của các cơ quan
quyền lực Nhà nước. Tại Hiến pháp năm 2013, tiếp tục khẳng định “Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân
được Đảng ta quán triệt, vận dụng và phát triển qua các thời kỳ cách mạng
Việt Nam. Chủ trương của Đảng ta về phát huy vai trò của các cơ quan dân cử
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, về việc đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đã được thể
hiện trong Nghị quyết của Đảng, đặc biệt nhấn mạnh tại Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII.
Việc xác định tính chất của Hội đồng nhân dân cũng trải qua các thời
gian khác nhau: Trong Sắc lệnh 63/SL đã xác định "Hội đồng nhân dân do
dân bầu ra theo lối phổ thông và trực tiếp đầu phiếu là cơ quan thay mặt cho
dân". Hiến pháp năm 1959 quy định “Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương”. Hiến pháp năm 1980 quy định “Hội
đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương”. Hiến
pháp năm 1992 quy định “Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định “Hội đồng nhân dân
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
2.1.1.2. Về cơ cấu tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
huyện



9

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ cấu tổ chức của Hội đồng
nhân dân cấp huyện hiện nay bao gồm: Thường trực Hội đồng nhân dân, các
Ban Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân và bộ máy tham mưu
giúp việc cho Hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân năm 2003 thì Thường trực Hội đồng nhân dân huyện gồm
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên thường trực; Theo Luật Tổ chức chính
quyền địa phương thì  Thường trực Hội đồng nhân dân huyện gồm Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, hai Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và các Ủy viên là
Trưởng ban của Hội đồng nhân dân huyện. 
Hội đồng nhân dân cấp huyện thành lập hai Ban: Ban kinh tế - xã hội,
Ban pháp chế; nơi nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban dân tộc.
Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan
trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa
phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa
vụ của địa phương đối với cả nước.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa
phương.
Hội đồng nhân dân tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến
pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống
các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, vơ trách
nhiệm và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công chức và trong bộ máy



10

chính quyền địa phương.
2.1.1.3. Về chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân
Chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân là kết quả cụ
thể đạt được trong quá trình Hội đồng nhân dân áp dụng các văn bản pháp luật
để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật
nhằm đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương đồng thời phát huy
quyền chủ động sáng tạo của địa phương, hồn thành thắng lợi nhiệm vụ trên
giao, góp phần nâng cao hiệu quả của Nhà nước.
Chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân được làm nên
và được quyết định bởi nhiều yếu tố:
Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân thể hiện bằng việc thực
hiện tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân theo quy định của
pháp luật (chất lượng các kỳ họp họp Hội đồng nhân dân; chất lượng giám sát
của Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân và đại biểu
Hội đồng nhân dân; chất lượng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân...).
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 quy
định: "Hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được
bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp Hội đồng nhân dân, hiệu quả hoạt
động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các Ban của Hội
đồng nhân dân và của các đại biểu Hội đồng nhân dân...".
Như vậy ngay Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
năm 2003 cũng đã thể hiện rất rõ quan điểm về đánh giá hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân. Hiệu quả này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có
yếu tố hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân. Các yếu tố khác ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân như hiệu quả hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, hiệu quả hoạt động của các Ban của Hội

đồng nhân dân, hiệu quả hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân thông
thường được nhận thức ngay nhưng yếu tố đảm bảo hiệu quả hoạt động của


11

Hội đồng nhân dân thì khơng phải ai cũng có được nhận thức một cách đầy
đủ.
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là hai bộ phận cấu thành nên
cấp chính quyền địa phương. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, là cơ quan ban hành các chủ trương biện pháp để Ủy ban
nhân dân chấp hành nhiệm vụ cấp trên giao, do đó khơng thể đánh giá hoạt
động Hội đồng nhân dân có hiệu quả nếu hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân
dân thấp.
Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ
quan hành chính Nhà nước ở địa phương do Hội đồng nhân dân bầu ra. Ủy
ban nhân dân chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân,
báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, chịu sự giám sát của Hội đồng
nhân dân cùng cấp. Giữa hai kỳ họp của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội
đồng nhân dân phối hợp với Ủy ban nhân dân giải quyết những vấn đề mới
phát sinh và báo cáo với Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất, trừ những
trường hợp bắt buộc phải được xem xét, quyết định tại kỳ họp Hội đồng nhân
dân. Khi Hội đồng nhân dân ra Nghị quyết quyết định về các chủ trương biện
pháp thì chưa thể đánh giá Nghị quyết đó là có hiệu quả hay khơng bởi cịn
phụ thuộc vào Nghị quyết đó có được Ủy ban nhân dân tổ chức thực hiện tốt
hay không.
Một chủ trương, biện pháp đúng nhưng trên thực tế khơng được tổ chức
thực hiện tốt thì chủ trương biện pháp đúng đó khơng phát huy được tác dụng.
Năng lực tổ chức thực hiện của Ủy ban nhân dân thể hiện năng lực điều hành
của Chủ tịch, Phó chủ tịch, các thành viên Ủy ban nhân dân và việc tổ chức

thực hiện cụ thể của các ngành, các cấp. Như vậy hiệu quả hoạt động của Ủy
ban nhân dân là một trong những yếu tố quan trọng để làm nên hiệu quả hoạt
động của Hội đồng nhân dân. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân có được
thực hiện, đảm bảo phát huy được mọi nguồn lực, đạt được các chỉ tiêu về


12

kinh tế, xã hội, văn hố, quốc phịng, an ninh do Hội đồng nhân dân đề ra hay
khơng chính là một phần phụ thuộc vào chất lượng điều hành và năng lực tổ
chức thực hiện của Ủy ban nhân dân.
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý
2.1.2.1. Cơ sở chính trị
Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của bộ máy
nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đất nước ta đang “đẩy
mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội”. Muốn thực hiện được mục tiêu đó, địi hỏi bộ máy nhà nước phải được
hồn thiện và nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động, trong đó có
chính quyền địa phương.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nghị quyết Trung
ương 3 (Khóa VIII) đã xác định rõ: Xây dựng và hồn thiện Nhà nước là
nhiệm vụ bức thiết và quan trọng; làm cho cơ quan quyền lực có đủ thực
quyền, tồn quyền và bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Phải tiếp tục
kiện toàn và củng cố Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp để bảo
đảm thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền, để thực hiện đầy đủ vai trò là cơ
quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân ở từng cấp.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định các quan điểm và

nhấn mạnh những phương hướng cơ bản về cải cách tổ chức, hoạt động của
Nhà nước mà các Nghị quyết Trung ương khóa VII, khóa VIII đã đề ra nhằm
đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong xu thế tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng xác định: “Nâng cao chất lượng hoạt
động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và


13

tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân
cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân”.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Tiếp tục đổi mới tổ
chức, hoạt động của chính quyền địa phương, nâng cao chất lượng hoạt động
của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng tổ chức bộ
máy của tồn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy
mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”.
2.1.2.2. Cơ sở pháp lý
Hội đồng nhân dân tổ chức và hoạt động theo những quy định có tính
ngun tắc của Hiến pháp. Giai đoạn vừa qua là Hiến pháp năm 1992, trong
thời gian đến là Hiến pháp năm 2013.
Những quy định của Hiến pháp năm 1992 về Hội đồng nhân dân đã
được cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (năm 2003), Luật tổ chức chính
quyền địa phương (năm 2015), Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, các
quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp, quy chế hoạt động nhân dân các cấp.
Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thơng
qua tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa 13 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày

01/01/2014. Theo quy định tại Điều 113 của Hiến pháp, tiếp tục khẳng định
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên”. Theo đó, Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật Hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội; luật
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật (hợp nhất) và một số Luật khác về tổ chức bộ máy nhà nước đã được


14

Quốc hội thông qua để bảo đảm sự phù hợp với những đổi mới trong Hiến
pháp.
Một số căn cứ chính để xây dựng đề án:
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992,
2013;
- Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc các khóa VII, VIII, IX, X, XI, XII;
- Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XXIV Đảng bộ huyện Nông Sơn;
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;
- Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
- Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân kèm theo Nghị quyết
753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
và các quy định của pháp luật có liên quan...
2.1.3. Căn cứ thực tiễn
2.1.3.1. Trên bình diện quốc gia
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực
tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông

qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Hội đồng nhân dân huyện có vai trị, vị
trí rất quan trọng trong bộ máy chính quyền địa phương. Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra chủ trương phải tiếp tục kiện toàn và củng cố Hội đồng nhân dân các
cấp, nâng cao chất lượng hoạt động để đảm bảo thực hiện đầy đủ vai trò là cơ
quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương.
Việc thực hiện quyền lực của Hội đồng nhân dân huyện phụ thuộc rất
lớn vào các yếu tố trong cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân huyện, đó là:
đại biểu Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội
đồng nhân dân và Văn phòng Hội đồng nhân dân & Ủy ban nhân dân. Hội
đồng nhân dân muốn thực hiện được quyền lực đó, trước hết phải có năng lực


15

nội tại của mình. Nói cách khác, chỉ khi nào Hội đồng nhân dân có đủ năng
lực thực hiện quyền lực thì khi đó mới có thực quyền. Hoạt động của Hội
đồng nhân dân có mang nặng tính hình thức hay không phụ thuộc chủ yếu vào
các yếu tố này. Muốn Hội đồng nhân dân có thực quyền phải hồn thiện cơ
cấu tổ chức và nâng cao năng lực của các yếu tố trong cơ cấu tổ chức.
Trong nhiều năm qua, cơ cấu tổ chức Hội đồng nhân dân các cấp cũng
từng bước được củng cố theo từng nhiệm kỳ, chất lượng hoạt động từng bước
được nâng lên. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế nhất định: Các Ban của Hội
đồng nhân dân, bộ máy Văn phòng vẫn chưa được củng cố, kiện toàn; năng
lực hoạt động của nhiều đại biểu, của các Ban và một số đại biểu chuyên trách
cịn yếu, trình độ chun mơn chưa phù hợp. Trong khi đó đa số đại biểu lại
hoạt động kiêm nhiệm, chưa được bồi dưỡng chun đề có tính chun sâu
phục vụ cho hoạt động của Hội đồng nhân dân nên việc thực hiện nhiệm vụ
của người đại biểu gặp nhiều khó khăn. Theo đó, chất lượng kỳ họp và chất
lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân chưa cao.
Những hạn chế này tồn tại đã nhiều năm, tuy có được khắc phục nhưng

chậm và thiếu tính tồn diện. Từ trước đến nay chưa có một chương trình hay
kế hoạch cụ thể nào để khắc phục những hạn chế, yếu kém và nâng cao năng
lực của Hội đồng nhân dân. Thực tế đó địi hỏi phải xây dựng một Đề án với
các nội dung thiết thực, với nguồn lực và giải pháp mang tính khả thi để khắc
phục một cách đồng bộ những hạn chế và nâng cao năng lực hoạt động của
Hội đồng nhân dân huyện. Mặt khác trước yêu cầu khách quan của sự nghiệp
đổi mới hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi
Hội đồng nhân dân phải nâng tầm của cơ quan quyền lực tương xứng với vai
trò, vị trí của mình trong bộ máy chính quyền địa phương cấp huyện.
Bên cạnh đó, những quy định về tổ chức của Hội đồng nhân dân ngày
được hoàn thiện hơn. Đáng lưu ý là trước đây Ủy ban nhân dân là cơ quan
chấp hành của Hội đồng nhân dân đảm bảo mọi hoạt động của Hội đồng nhân


16

dân theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
năm 1989 thì có một cơ quan mới được thành lập để đảm bảo hoạt động
thường xuyên của Hội đồng nhân dân, đó là Thường trực Hội đồng nhân dân
gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thư ký. Sau đó Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân năm 1994 quy định Thường trực Hội đồng nhân dân
chỉ bao gồm Chủ tịch và Phó chủ tịch. Đến Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân năm 2003 đã quy định Thường trực Hội đồng nhân dân
gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên Thường trực. Và đến Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 đã quy định Thường trực Hội đồng nhân
dân gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên là trưởng các ban.
2.1.3.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
huyện Nơng Sơn, khóa X (nhiệm kỳ 2011 – 2016)
2.1.3.2.1. Về cơ cấu, tổ chức
- Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân huyện khóa X, đầu nhiệm kỳ

2011 - 2016 là 30 đại biểu, đến nay đang hoạt động là 22 đại biểu, giảm 8 đại
biểu (trong đó 02 đại biểu từ trần, 05 đại biểu thôi làm nhiệm vụ do chuyển
công tác ra khỏi địa phương, 01 đại biểu thôi làm nhiệm vụ do nghỉ hưu theo
chế độ)
- Thường trực HĐND huyện đầu nhiệm kỳ có 03 thành viên, gồm Chủ
tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực, trong đó Chủ tịch HĐND hoạt động
kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực hoạt động chuyên trách. Từ
tháng 6 năm 2015, do Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND nghỉ hưu theo chế độ
nên Hội đồng nhân dân huyện đã bầu bổ sung các chức danh Chủ tịch, Phó
Chủ tịch; khuyết chức danh Ủy viên Thường trực HĐND.
- Hội đồng nhân dân huyện có 02 Ban với 06 thành viên hoạt động
kiêm nhiệm (gồm cả Trưởng, Phó ban và thành viên). Nhiệm kỳ qua, các Ban
HĐND huyện đã thực hiện tốt vai trị, chức năng của mình, tích cực tham gia


17

công tác chuẩn bị và tổ chức các kỳ họp của HĐND, thẩm tra các báo cáo của
UBND, các ngành liên quan và có báo cáo trình kỳ họp theo luật định. Tổ
chức tốt các cuộc giám sát theo chương trình hằng năm. Thường xuyên tham
gia các cuộc họp liên quan của Thường trực HĐND, UBND khi được mời dự.
Tuy nhiên, do khơng có thành viên hoạt động chun trách nên thời gian đầu
tư cho công tác của Ban chưa được quan tâm đúng mức, số lượng các cuộc
giám sát chưa nhiều.
- Tổ đại biểu HĐND huyện được chia theo từng đơn vị bầu cử, huyện Nơng
Sơn có 7 Tổ đại biểu. Do yêu cầu công tác, một số Tổ trưởng, đại biểu được điều
động, luân chuyển, thay đổi địa bàn công tác nên Thường trực HĐND huyện đã
ban hành 03 quyết định thay đổi Tổ trưởng, chuyển đại biểu về sinh hoạt ở Tổ
mới để thuận lợi trong sinh hoạt.
2.1.3.2.2. Về hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện

Những hoạt động của HĐND huyện từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã góp
phần giải quyết kịp thời một số vấn đề cấp bách của địa phương trên các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, nhiều nghị
quyết đã sớm đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng và được nhân dân đồng
tình ủng hộ, góp phần đáng kể vào thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm
vụ phát triển KT-XH của huyện. Tổng giá trị sản xuất hằng năm tăng bình
quân 13,2%. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 14 triệu đồng. Thương
mại-dịch vụ tiếp tục phát triển. Tổng thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 2015 là 1.286,106 tỷ đồng, trong đó thu phát sinh kinh tế trên địa bàn là
142,420 tỷ đồng, tăng bình quân hằng năm 2,565 tỷ đồng. Công tác quản lý
điều hành ngân sách thực hiện đúng quy định của pháp luật. Công tác qui
hoạch được tập trung triển khai thực hiện. Nhiều cơng trình lớn, quan trọng
của huyện đã hồn thành và đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả tích cực:
Tuyến đường tránh lũ, cứu hộ, cứu nạn khu Trung tâm huyện; đường trục


18

chính vào khu Trung tâm huyện; Trung tâm Y tế huyện; trụ sở làm việc
Huyện uỷ, trụ sở làm việc HĐND-UBND huyện và trụ sở làm việc khối Mặt
trận, các đồn thể huyện và các cơ quan ngành dọc đóng trên địa bàn huyện;
trụ sở làm việc UBND các xã Sơn Viên, Quế Trung, Phước Ninh và Quế Lộc;
hoàn thành qui hoạch Cụm Công nghiệp-Thương mại-Dịch vụ Nông Sơn với
diện tích quy hoạch là 15 ha; quy hoạch làng du lịch sinh thái Đại Bình… Hệ
thống kết cấu hạ tầng trên địa bàn huyện từng bước hoàn thiện và phát triển
đồng bộ gắn với nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Công tác giáo dục-đào
tạo được quan tâm đúng mức. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao
được đẩy mạnh với nhiều hoạt động phong phú từ huyện đến cơ sở. Lĩnh vực
y tế, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân có chuyển biến tích cực. Mạng
lưới y tế, cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ được tăng cường,
bình quân 3,6 bác sỹ/01 vạn dân. Công tác giảm nghèo và an sinh xã hội được

quan tâm thường xuyên. Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2015 là 54,46% (theo chuẩn
nghèo mới). Tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trên địa bàn
huyện được giữ vững, ổn định.
Tuy nhiên so với yêu cầu về chất lượng, hiệu quả mà hoạt động của
HĐND cần đạt được để góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thì vẫn còn khiêm tốn, chưa tạo ra chuyển biến mạnh mẽ, quyết liệt,
biểu hiện như: Quyết sách có lúc có nơi chưa đi vào cuộc sống; hiệu quả giám
sát chưa cao cịn tình trạng nể nang, ngại va chạm, tiếp xúc cử tri mang tính
hình thức, tiếp cơng dân và đơn đốc giải quyết các kiến nghị chính đáng của
cơng dân còn bất cập, chưa kịp thời... Sự phối hợp giữa HĐND với Ủy ban
Mặt trận tổ quốc Việt Nam và UBND có lúc, có nơi chưa thường xuyên, hiệu
quả chưa cao.
2.2. Nội dung cơ bản của Đề án
2.2.1. Thực trạng của vấn đề cần giải quyết mà đề án hướng đến


19

2.2.1.1. Về hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện
- Về thực hiện chức năng quyết định
+ Công tác tổ chức kỳ họp HĐND huyện
Trong nhiệm kỳ qua, HĐND huyện đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn theo luật định. Hoạt động kỳ họp tiếp tục được đổi mới, phát
huy dân chủ, trí tuệ của đại biểu để quyết định những vấn đề quan trọng trong
phát triển kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng của địa phương. Từ đầu nhiệm
kỳ đến nay, HĐND huyện đã tổ chức 14 kỳ họp gồm 10 kỳ họp thường lệ, 02
kỳ họp bất thường và 02 kỳ họp chuyên đề để trình HĐND huyện xem xét,
thơng qua 83 nghị quyết (bình quân mỗi kỳ họp ban hành gần 6 nghị quyết).
Trong số 83 nghị quyết đã ban hành có 08 nghị quyết có nội dung quy phạm
pháp luật, 75 nghị quyết khác. Cụ thể:

HĐND, các cơ quan của HĐND, UBND và các cơ quan hữu quan đã
không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, phối hợp chặt
chẽ từ khâu chuẩn bị nội dung, báo cáo, tài liệu; chủ tọa điều hành kỳ họp; bố
trí thời gian, chương trình kỳ họp cho đến việc thay đổi cơ bản phương pháp
trình bày báo cáo tại kỳ họp theo hướng tập trung, ngắn gọn. Mặt khác, báo
cáo thẩm tra của các Ban đã cung cấp thêm nhiều thông tin và các phương
pháp tiếp cận nhiều chiều cho đại biểu.
Việc tăng cường chức năng giám sát của HĐND thông qua hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp đã thực sự nâng cao chất lượng các kỳ
họp. Do vậy, nội dung các nghị quyết của HĐND được ban hành ngày càng
thiết thực hơn và tính khả thi cao hơn.
- Về thực hiện chức năng giám sát
+ Hoạt động giám sát chuyên đề
Hoạt động giám sát của HĐND được thực hiện theo quy định; từng bước
được nâng cao chất lượng, đạt hiệu quả, nhiều nội dung giám sát được cử tri


20

đồng tình, đánh giá cao. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Thường trực HĐND
huyện, các Ban HĐND huyện đã tổ chức 28 cuộc giám sát chuyên đề
(Thường trực HĐND: 12 cuộc; Ban KT-XH: 08 cuộc; Ban Pháp chế: 08 cuộc)
về các nội dung: Tình hình thực hiện dự án trồng cây cao su trên địa bàn
huyện; công tác khai thác tài ngun, khống sản; việc thực hiện các chính
sách an sinh xã hội theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Quyết định
167/2008/QĐ-TTg, Nghị quyết 119/2014/NQ-HĐND…; tình hình thu, chi,
quản lý, điều hành ngân sách; công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật; cơng tác đấu thầu, quy trình đấu thầu, tiến độ xây dựng một số cơng trình
XDCB; cơng tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai; việc triển
khai thực hiện chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới; công tác lập

phương án giao đất lâm nghiệp và kết quả giao đất lâm nghiệp cho nhân dân;
khảo sát về tình hình quản lý, bảo vệ rừng; giám sát hoạt động của ngành
Thanh tra huyện, Viện Kiểm sát nhân dân, Tịa án nhân dân huyện… Ngồi
việc giám sát các nhiệm vụ trọng tâm, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu
theo Nghị quyết, hoạt động giám sát đã tập trung vào những vấn đề dân sinh
bức xúc, những vấn đề cử tri kiến nghị nhiều lần. Nét mới trong hoạt động
giám sát là xác định đúng nội dung, đối tượng, thời gian giám sát; thực hiện
giám sát liên ngành, mời đại biểu tổ HĐND, trưởng các phòng, ban, ngành
tham dự.
Sau mỗi đợt giám sát, Thường trực HĐND huyện ra thông báo kết quả
giám sát: Khẳng định rõ kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn
chế và  kiến nghị với UBND huyện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, khắc
phục tồn tại, hạn chế trong công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại tố cáo; cần
tăng cường công tác quản lý và kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng
mắc của nhân dân như việc tranh chấp đất rừng giữa Nông trường Cao su với
nhân dân với địa phương, vấn đề môi trường tại Công ty Than điện



×