Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ gây đột quỵ não của người bệnh tăng huyết áp điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa khu vực phúc yên tỉnh vĩnh phúc năm 2022

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.7 KB, 36 trang )

iii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN.....................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................ii
DANH MỤC BẢNG.........................................................................................iv
DANH MỤC CHŨ VIẾT TẮT..........................................................................v
ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1
CHƯƠNG 1.......................................................................................................3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN................................................................3
1. Cơ sở lý luận..................................................................................................3
2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................13
CHƯƠNG 2.....................................................................................................17
LIÊN HỆ THỰC TIỄN....................................................................................17
2.1. Đặc điểm tình hình về Bệnh viện Đa khoa khu vực Phúc Yên................17
2.2. Phương pháp khảo sát...............................................................................18
2.3. Kết quả khảo sát........................................................................................19
Chương 3..........................................................................................................23
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP....................................................................................23
3.1. Thực trạng kiến thức phòng đột quỵ não của người bệnh tăng huyết áp
điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên năm 2022

23

3.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kiến thức phòng đột quỵ của
người bệnh THA điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Khu vực Phúc Yên,
Tỉnh Vĩnh Phúc................................................................................................24
KẾT LUẬN......................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC - BỘ CÂU HỎI KHẢO SÁT




i

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Triệu chứng gợi ý đột quỵ.....................................................................10
Bảng 1.2. Biểu hiện lâm sàng..................................................................................10
Bảng 1.3. Hậu quả của đột quỵ.................................................................................11
Bảng 2: Nguy cơ gây đột quỵ...................................................................................11
Bảng 3.1: Phân bố của đối tượng nghiên cứu.........................................................18
Bảng 3.2: Đặc điểm mắc bệnh THA của bệnh nhân.................................................19
Bảng 3.3: Các yếu tố nguy cơ gây bệnh.................................................................20
Bảng 3.4: Kiểm soát huyết áp và tuân thủ điều trị của bệnh nhân THA................20


v

DANH MỤC CHŨ VIẾT TẮT
1. THA

Tăng huyết áp

2. ĐQN

Đột quỵ não

3. TBMMN

Tai biến mạch máu não


4. WHO

Tổ chức y tế thế giới

5. WSO

Hội đột quỵ thế giới

6. ĐTKS

Đối tượng khảo sát

7. ĐTV

Điều tra viên

8. ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu

9. YTNC

Yếu tố nguy cơ

10. GDSK

Giáo dục sức khỏe


1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong thứ 3 trên thế giới sau các bệnh lý tim
mạch và ung thư, là ngun nhân chính của tình trạng tàn tật kéo dài, gây nên gánh
nặng lớn về tinh thần, cảm xúc và kinh tế cho người bệnh, gia đình và xã hội[1].
Theo dự báo của Tổ chức Đột quỵ Thế giới, nếu năm 2010 trên thế giới có khoảng
16 triệu người bị đột quỵ lần đầu, tử vong là 5,9 triệu (35%) thì đến năm 2030, tỷ
lệ này là 22 triệu và tử vong là 7,8 triệu (34%)[2]. Đột quỵ có thể xảy ra do nhiều
nguyên nhân: bệnh lý (đái tháo đường, tăng huyết áp, cholesterol máu,…), hành
vi(hút thuốc lá, uống rượu,…), hay do di truyền và lịch sử gia đình[3] nhưng tăng
huyết áp là ngun nhân chính dẫn đến đột quỵ[4]. Theo thống kê của WHO trong
số 9,4 triệu ca tử vong do biến chứng tăng huyết áp, chịu trách nhiệm cho ít nhất
45% tử vong do bệnh tim và 51% trường hợp tử vong do đột quỵ[5]. Nhận thức của
cộng đồng về đột quỵ, tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi đối với
bệnh tim mạch ở Nkonya-Wurupong cho thấy 35% tin rằng tăng huyết áp là một
yếu tố nguy cơ của đột quỵ và chỉ có 26% hiện đang được điều trị tăng huyết áp.
Kiến thức về hậu quả tăng huyết áp bao gồm bệnh tim mạch và đột quỵ thay đổi
đáng kể cùng với các nguồn giáo dục và nhận dạng đột quỵGhana [56].
Tại Việt Nam, các khảo sát cho thấy tăng huyết áp gây biến chứng đột quỵ
chiếmtỉ lệ 62%, người bị tăng huyết áp không được kiểm sốt thì nguy cơ đột quỵ
tăng 7 lần [6].Theo Nguyễn Lân Việt, tăng huyết áp là nguy cơ hàng đầu dẫn đến
đột quỵ não với tỉ lệ 79.17%, người bị tăng huyết áp giai đoạn II khơng được kiểm
sốt thì nguy cơ đột quỵ tăng 4 lần [7]. Khảo sátcủa Lý Thị Kim Thương về nhận
thức về các yếu tố nguy cơ và biểu hiện cảnh báo đột quỵ não của người dân
phường Tây Sơn thành phố Pleiku (2016) cho thấy tỉ lệ người dân có nhận thức về
các biểu hiện cảnh báo nguy cơ đột quỵ não không đạt chiếm 58.8%, người có nhận
thức đạt chỉ chiếm12.4% [8].Khảo sát của Trịnh Thị Thủy Hồng năm (2015)cho
thấy có tới 64,2% đối tượng khảo sát khơng có kiến thức đạt và 70,6% đối tượng
khảo sát khơng có thực hành đạt để dự phòng biến chứng của bệnh tăng huyết
áp[9]. Qua khảo sát sơ bộ cho thấy người bệnh được chẩn đoán tăng huyết áp tại

Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc n có kiến thức kém về phịng biến chứng đột
quỵ não.


2

Do đó chun đề: “Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ gây đột quỵ não của người
bệnh tăng huyết áp điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc
Yên tỉnh Vĩnh Phúc năm 2022” được thực hiện với 2 mục tiêu:
1. Mô tả một số yếu tố nguy cơ gây đột quỵ não của người bệnh tăng huyết áp
điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc
năm 2022.
2. Đề xuất một số giải pháp phòng ngừa các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ não của
người bệnh tăng huyết áp điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa khu vực
Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc.


3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Bệnh tăng huyết áp
1.1.1. Định nghĩa
Tăng huyết áp (THA) là một bệnh mạn tính, phổ biến ở các quốc gia đang
phát triển trong đó có Việt Nam. WHO cho thấy có khoảng 40% dân số tồn cầu bị
tăng huyết áp, con số này vẫn tiếp tục tăng lên do tình trạng già hóa dân số đang
diễn ra ở hầu hết quốc gia trên thế giới.
Tăng huyết áp được định nghĩa là khi huyết áp tâm thu ≥ 140mmHg và/hoặc
huyết áp tâm trương ≥ 90mmHg [10]

1.1.2. Phân độ tăng huyết áp
Tăng huyết áp được phân loại thành hai loại là THA nguyên phát và THA thứ
phát. Có gần 90% số ca được phân loại "tăng huyết áp nguyên phát", dùng để chỉ
các trường hợp khơng tìm thấy ngun nhân gây tăng huyết áp (vơ căn). Chỉ có
khoảng 5–10% số ca là tăng huyết áp thứ phát gây ra bởi các bệnh tại các cơ quan
khác như thận, động mạch, tim và hệ nội tiết [10][11]
Tăng huyết áp không được điều trị và kiểm soát tốt sẽ dẫn đến tổn thương
nặng các cơ quan đích và gây các biến chứng nguy hiểm như tai biến mạch não,
nhồi máu cơ tim, phình tách thành động mạch chủ, suy tim, suy thận … thậm chí
dẫn đến tử vong [10]
1.1.3. Một số yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp
1.1.3.1. Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được
- Tuổi (nam giới ≥ 55, nữ giới ≥ 65)
- Giới tính (nam hoặc nữ đã mãn kinh)
- Tiền sử gia đình có cùng huyết thống bị tăng huyết áp
- Chủng tộc
1.1.3.2. Yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được
- Chế độ ăn nhiều muối
- Hút thuốc lá
- Rối loạn Lipid máu


4

- Đái tháo đường
- Béo phì(BMI > 23)
- Ít vận động thể chất
1.1.4. Dịch tễ học tăng huyết áp
1.1.4.1. Trên thế giới
Theo thống kê của WHO, trên toàn thế giới, tăng huyết áp ước tính gây ra 7,5

triệu ca tử vong, khoảng 12,8% tổng số ca tử vong. Trên khắp các khu vực của
WHO, tỷ lệ mắc bệnh huyết áp tăng cao nhất ở châu Phi, tỷ lệ huyết áp tăng thấp
nhất là ở Khu vực Châu Mỹ [12]. Năm 2010, 31,1% (khoảng tin cậy 95%, 30,032,2%) người trưởng thành trên thế giới bị tăng huyết áp; 28,5% (27,3-29,7%) ở
các nước thu nhập cao và 31,5% (30,2-32,9%) ở các nước thu nhập thấp và trung
bình [13]
Châu Phi: Báo cáo tình trạng tăng huyết áp ở Châu Phi cho thấy có khoảng 80
triệu người trưởng thành bị tăng huyết áp ở châu Phi cận Sahara vào năm 2000 và con
số này sẽ tăng lên 150 triệu vào năm 2025 . Dù vẫn còn trẻ hơn tất cả các châu lục
khác, Châu Phi sẽ chứng kiến sự tăng trưởng gấp 13 lần về quy mô dân số già - từ 56
triệu ngày nay lên 716 triệu vào cuối thế kỷ. Sự gia tăng này sẽ dẫn đến tỷ lệ mắc các
bệnh mãn tính và tăng huyết áp sẽ tiếp tục được đẩy lên trong những thập kỷ tới vì sự
thay đổi nhân khẩu học [14].
Châu Âu: Tỷ lệ tăng huyết áp tự báo cáo cao nhất (người trưởng thành ≥15
tuổi) được ghi nhận ở Hungary (32%), Bulgaria (30%), Latvia (29%), Đức (29%)
và Litva (28%), Na Uy (13%), Pháp (14%), Thụy Điển (16%), Vương quốc Anh
(16%) và các quốc gia Benelux (tất cả dưới 17%) [15]. Hiểu biết về tăng huyết áp ở
Ba Lan sau Tháng đo lường tháng 5 năm 2017 cho 5834 người dân, có 35,3%
người dân bị tăng huyết áp. Trong số những người được dùng thuốc huyết áp, có tới
535 người (49,1%) khơng kiểm sốt được huyết áp [16].
Châu Mỹ: Khảo sát ở Mỹ về gánh nặng tăng huyết áp ở người trưởng thành ở
Hoa Kỳ 1999 đến 2000 cho kết quả: Tỷ lệ người mắc THA chiếm tỉ lệ 31.3%, trong
đó 28.4% sử dụng thuốc hạ huyết áp, 2.9% trong số đó ít nhất hai lần có cơn tăng
huyết áp không nhận biết được [17]. Khảo sát khảo sát kiểm tra sức khỏe và dinh
dưỡng ở thành phố New York, 2013: Tỷ lệ tăng huyết áp chung ở người trưởng


5

thành ở thành phố New York là 33,9% và tăng theo tuổi [18]. Một khảo sát về tỷ lệ,
nhận thức, điều trị và kiểm soát tăng huyết áp ở Bồ Đào Nha cho thấy, trong số các

đối tượng tăng huyết áp, chỉ có 46,1% biết về huyết áp cao của họ, 39,0% đang
dùng thuốc hạ huyết áp và 11,2% được kiểm soát huyết áp (<140/90 mmHg) [19].
Châu Á: Gánh nặng chăm sóc sức khỏe của bệnh cao huyết áp ở châu Á :
WHO ước tính từ năm 2000 đến 2025, số người bệnh được chẩn đoán mắc tăng
huyết áp sẽ tăng khoảng 60% lên tới 1,56 tỷ và châu Á sẽ đóng góp vào một tỷ lệ
lớn trong số người bệnh này [20]. Tại Trung Quốc và Ấn Độ, tổng số người bệnh
tăng huyết áp dự kiến sẽ tăng lên hơn 500 triệu vào năm 2025. Mức tăng tuyệt đối
của Ấn Độ và Trung Quốc lần lượt là 95,3 triệu và 117,6 triệu [21]. Tỷ lệ tăng
huyết áp từ các khảo sát mới nhất là: Bangladesh: 17,9%; Bhutan: 23,9%; Ấn Độ:
31,4%; Maldives: 31,5%; Nepal: 33,8%; Pakistan: 25%; và Sri Lanka: 20,9% [21].
Đông Nam Á: Tại Singapore, Khảo sát Y tế Quốc gia năm 2010 cho thấy tỷ lệ
hiện mắc theo tuổi cụ thể đối với tăng huyết áp tăng rõ ràng từ 40 tuổi trở đi và, với
dân số già, quốc gia này vẫn phải tiếp tục đối mặt với những thách thức trong
phịng ngừa và kiểm sốt tăng huyết áp [22]. Khảo sát về Tăng huyết áp ở Malaysia
nhìn chung, có xu hướng tăng tỷ lệ tăng huyết áp ở người trưởng thành ≥30 tuổi:
32,9% năm 1996, 42,6% năm 2006 và 43,5% trong năm 2011 [23] .
1.1.4.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc THA đang gia tăng một cách nhanh chóng. Theo
thống kê, năm 1960, tỷ lệ THA ở người trưởng thành phía bắc Việt Nam là 1%, 30
năm sau (1992) theo điều tra trên toàn quốc của Viện Tim mạch tỷ lệ này đã
đạt11,2%, tăng lên hơn 11 lần. Điều tra của Viện Tim mạch năm 2001- 2002 trên
5012 người trưởng thành trên 25 tuổi tại 4 tỉnh phía Bắc cho thấy, tỷ lệ tăng huyết
áp là 16,3% [24]. Theo kết quả điều tra năm 2008, tỷ lệ tăng huyết áp ở người độ
tuổi 25 - 64 là 25,1%. Năm 2015, có 18,9% người trưởng thành trong độ tuổi 18-69
tuổi bị tăng huyết áp, trong độ tuổi 18-25 tuổi tỷ lệ tăng huyết áp tăng từ 15,3%
năm 2010 lên 20,3% năm 2015. Như vậy là cứ 5 người trưởng thành 25-64 tuổi thì
có 1 người bị tăng huyết áp [25].
Khảo sát về mơ hình bệnh tật tại bệnh viện và trạm y tế xã tại Đồng Tháp năm
2008 cho kết quả THA là nguyên nhân thứ hai nhập viện tại các bệnh viện huyện và



6

cũng là 1 trong 10 nguyên nhân nhập viện nhiều nhất tại bệnh viện tỉnh [26]. Khảo
sát về kiến thức, thái độ, thực hành dự phòng biến chứng ở người bệnh tăng huyết
áp của Phạm Hương Lan 2017, kết quả cho thấy kiến thức của ĐTNC về các biến
chứng trong bệnh THA: Có 59,4% ĐTNC có kiến thức đạt và 40,6% ĐTNC có kiến
thức khơng đạt, có 42,8% ĐTNC có thái độ tốt về dự phòng biến chứng và 57,2%
ĐTNC có thái độ chưa tốt về dự phịng biến chứng trong bệnh THA [27]
Tăng huyết áp là một bệnh mạn tính có thể gây biến chứng trên hầu hết các cơ
quan trong cơ thể. Một trong những giải pháp tốt nhất để ngăn ngừa và giảm thiểu
thiệt hại do các biến chứng này gây ra là cung cấp kiến thức, thay đổi thái độ của
người bệnh giúp kiểm soát tốt huyết áp, có lối sống khoa học, lành mạnh, tuân thủ
thuốc điều trị của bác sỹ, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
1.1.5. Biến chứng của tăng huyết áp
Bệnh THA tiến triển lâu ngày sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nhiều cơ quan trong cơ
thể, được gọi là các cơ quan đích và gây nhiều biến chứng nặng nề. Theo báo

cáo

của WHO (2002), THA ước tính là nguyên nhân gây tử vong cho 7,1 triệu người trẻ
tuổi và chiếm 4,5% gánh nặng bệnh tật trên toàn cầu (64 triệu người sống trong tàn
phế) [69]. Theo báo cáo về các yếu tố nguy cơ sức khỏe toàn cầu của WHO năm
2009, THA là một trong những yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ra tử vong toàn cầu
(13%) cao hơn cả hút thuốc lá (9%) [67]. Ước tính chi phí trực tiếp và gián tiếp cho
THA của Mỹ năm 2003 đã lên tới 65,3 tỷ USD [52]. Các biến chứng thường gặp của
THA là: Tai biến mạch máu não (đột quỵ); Suy tim, nhồi máu cơ tim; Phình tách
thành động mạch; Suy thận; Tổn thương mắt [9],[10],[44].
1.1.5.1. Đột quỵ não (Tai biến mạch máu não)
Các động mạch trong hộp sọ nhất là các động mạch trong não cũng rất dễ bị

tổn thương do bệnh THA. Các động mạch bị dày lên, mất độ đàn hồi, biến dạng và
dễ làm hình thành các túi phồng nhỏ, cả động mạch lẫn túi phồng nhỏ đều có nguy
cơ bị vỡ khi xảy ra cơn THA kịch phát hoặc khi HA tăng rất cao và kéo dài. Cơn
THA kịch phát quá cao cịn có thể gây phù não và các tổn thương vi thể khác làm
ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động của não.
Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với đột quỵ [15]. Vào
đầu thế kỷ 21, tỷ lệ đột quỵ chuẩn hóa theo độ tuổi ở châu Âu dao động từ 95 đến


7

290 / 100.000 mỗi năm, với tỷ lệ tử vong trong một tháng là từ 13 đến 35%. Ngoài
ra, do dân số già, số lượng đột quỵ tuyệt đối dự kiến sẽ tăng mạnh trong những năm
tới: đến năm 2025, 1,5 triệu người châu Âu sẽ bị đột quỵ mỗi năm [32]. Thống kê
của các tác giả trên thế giới đã cho thấy tần suất TBMMN tăng rất rõ ở những
người bệnh THA, tần suất đó là 17% ở nam, 8% ở nữ, tăng lên 51% ở nam và 35%
ở nữ. Nếu là người bệnh THA theo khảo sát của Kannel và cộng sự (hội nghị quốc
tế về tuần hoàn não lần thứ 4 họp ở Toulouse Pháp năm 1985) còn cho là bệnh
THA làm tăng nguy cơ TBMMN lên 7 lần so với người khơng có bệnh đó, nguy cơ
này tăng dần theo tuổi và mức HA cao nhất [40].
Đăng ký đột quỵ dựa trên dân số được thành lập tại 6 quốc gia châu Âu: Pháp
(Dijon); Ý (Sesto Fiorentino); Litva (Kaunas); Vương quốc Anh (Luân Đôn); Tây
Ban Nha (Menorca); và Ba Lan (Warsaw), tổng cộng có 2129 người bệnh bị đột
quỵ đầu tiên đã được đăng ký và sự khác biệt về các yếu tố nguy cơ trước đột quỵ
đã được tìm thấy giữa các nhóm dân số có tỷ lệ tăng huyết áp cao nhất ở Warsaw và
Kaunas (76% và 67%) [33]
Theo Nguyễn Quang Tuấn, khoảng 60% người bệnh bị đột quỵ có tiền sử
THA trong quá khứ và hiện tại đang bị THA và khoảng 78% người bệnh khơng
được kiểm sốt THA một cách phù hợp. Xét tất cả các yếu tố nguy cơ thì THA là
yếu tố nguy cơ cao nhất gây ra đột quỵ (RR là 4,0 ở lứa tuổi 40 – 50 và giảm xuống

2,0 ở độ tuổi 70 – 80) và là yếu tố nguy cơ mạnh nhất trong dân số (40% ở lứa tuổi
40 – 50. 30% ở độ tuổi 70 – 80) [44].Theo Nguyễn Văn Đăng và cộng sự thuộc Bộ
môn Thần kinh, trường Đại học Y Hà Nội đã điều tra 1.707.609 người dân và cho
thấy THA là nguyên nhân chính (59,3%) gây ra tai biến mạch máu não [10]. Theo
niên giám thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ mắc TBMMN là 47,6/100.000 dân. Như vậy,
hàng năm có khoảng 39.980 ca bị TBMMN và chi phí trực tiếp để điều trị bệnh này
là 144 tỷ VND/năm trong đó hậu quả do THA gây ra là 85,4 tỷ VNĐ. Có khoảng
15.990 người bị liệt, tàn phế, mất sức lao động do TBMMN/ năm. Theo Viên Văn
Đoan (2003) tỷ lệ người bệnh THA được điều trị đã có biến chứng TBMMN chiếm
11,6% trong đó TBMMN xảy ra trong q trình đang điều trị chiếm 0,67% [11].
1.1.5.2. Suy tim, nhồi máu cơ tim


8

Tăng huyết áp làm cho tim, nhất là thất trái phải làm việc trong điều kiện có
áp lực máu cao ở trong các động mach lớn nên buộc phải tăng co bóp để thắng lực
cản nhằm đưa được máu qua động mạch chủ nghĩa là phải tăng công của cơ tim để
duy trì tuần hồn. Nếu HA tăng liên tục như trong bệnh THA thì sẽ gây quá tải liên
tục cho tim. Để đảm bảo cho việc tăng cơng đó, tim mà trước hết là thất trái buộc
phải thích ứng nghĩa là phải dày, to ra dần; Tuy nhiên thất trái to cũng chỉ đến một
giới hạn nhất định, nếu khơng điều trị thì chức năng co bóp sẽ bị tổn thương, thất
dần dần sẽ bị giãn, giảm khả năng tống máu đi và sẽ xuất hiện suy tim. Trong suy
tim, máu tống đi trong thì tâm thu khơng hết nên ứ lại trong thất trái rồi phía trên
thất như trong nhĩ trái rồi trong tĩnh mạch phổi, mao mạch phổi, từ đó thấm vào tổ
chức kẽ xung quanh các phế nang và vào cả phế nang, cản trở việc trao đổi oxy và
thán khí, làm người bệnh khó thở [2].
Tai biến mạch vành như cơn đau thắt ngực sẽ xuất hiện khi một khu vực của
cơ tim bị thiếu máu nặng. Nguy cơ bị nhồi máu cơ tim cũng xảy ra khi có thêm biến
chứng đơng máu làm tắc mạch đó đột ngột. THA đã được coi là một trong những

yếu tố nguy cơ quan trọng trong bệnh thiếu máu cơ tim do vữa xơ động mạch,
người ta đã thấy nguy cơ tai biến mạch vành tăng song song với mức THA, khảo
sát của Framingham (Hoa Kỳ) đã cho thấy nguy cơ đó tăng lên đến 4 lần nếu HA
tâm thu từ 120 lên 180 mmHg. Nhiều khảo sát ở các nước trong những năm qua
cũng khẳng định chỉ riêng thất trái to do bệnh THA cũng làm tăng tỷ lệ tai biến tim
và tăng tỷ lệ tử vong do nguyên nhân tim mạch [9]. Một phân tích tổng hợp các số
liệu từ 61 khảo sát tiến cứu cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa huyết áp tâm thu
và huyết áp tâm trương với nguy cơ bị bệnh mạch vành trong 5 nhóm tuổi khác
nhau, từ nhóm tuổi 40-49 tới nhóm 80-89 tuổi [44].
Theo Nguyễn Quang Tuấn, huyết áp là một yếu tố chính gây suy tim. Nguy cơ
suy tim tăng lên gấp 2 lần ở nam giới THA và gấp 3 lần ở nữ. Có 90% các ca suy
tim mới trong khảo sát Framingham Heart Study có tiền sử THA. Nguy cơ này liên
quan chặt chẽ với huyết áp tâm thu hơn là huyết áp tâm trương. Điều trị THA ở
người lớn tuổi làm giảm tỷ lệ mới mắc suy tim xuống khoảng 50% [44]. Theo điều
tra dịch tễ học suy tim và một số nguyên nhân chính tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam
năm 2003 do Viện Tim mạch Việt Nam phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới thực


9

hiện cho thấy nguyên nhân hàng đầu gây suy tim tại cộng đồng là do THA (chiếm
10,2%) [43].
1.1.5.3. Phình tách thành động mạch
Áp lực tăng thường xuyên của dòng máu khi qua các động mạch sẽ làm thay
đổi cấu trúc các thành mạch, lớp cơ của thành mạch sẽ dầy lên, các tổ chức liên kết
phát triển nhằm làm cho thành mạch chắc hơn đủ sức chịu đựng áp lực tăng cao của
dịng máu. Tuy vậy, sự thích nghi đó cũng dẫn đến những hậu quả xấu là làm hẹp
lòng động mạch và làm giảm tính đàn hồi, mạch máu bị xơ cứng nhất là đối với các
tiểu động mạch cản trở máu đến các tổ chức, ngoài ra lại làm tăng sức cản ngoại vi
và càng làm tăng thêm huyết áp [2].

Áp lực tăng của dòng máu còn gây ra tổn thương cho lớp nội mạc thành mạch,
các tế bào dễ bị thương tổn hoặc làm giảm chức năng bảo vệ thành mạch, dễ bị vữa
xơ động mạch ở các động mạch lớn và vừa. Ở động mạch chủ nếu có mảng vữa xơ
bị lt, dịng máu có áp lực cao do người bệnh THA có thể làm cho máu lọt vào
giữa các lớp của thành mạch, tách dọc các lớp đó ra và gây nên biến chứng phồng
tách động mạch rất nguy hiểm đến tính mạng người bệnh [9].
1.1.5.4. Suy thận
Các tổn thương thận xuất hiện chậm hơn và cũng kín đáo hơn, thường chỉ bộc
lộ ở giai đoạn cuối của bệnh. Ngay trong giai đoạn đầu người ta đã thấy giảm cung
lượng thận, nhưng độ lọc cầu thận vẫn giữ được do có cơ chế bù trừ. Về lâu dài, khi
tổn thương xơ các mạch thận phát triển, thận bị teo nhỏ thì suy thận mới thấy rõ [9].
Một khảo sát ở Nhật Bản trên 100.00 nam và nữ cho thấy mối liên quan giữa
mức độ THA và nguy cơ phát triển bệnh thận mạn tính trong vòng 17 năm theo dõi.
Cũng như vậy, nguy cơ bệnh thận mạn tính tăng lên ở những người bệnh có huyết
áp bình thường cao so với nhóm có huyết áp tối ưu (<120/80 mmHg). Những người
bệnh THA mà không thể kiểm sốt được, cho thấy sự suy giảm nhanh chóng chức
năng thận. Kết quả phân tích khảo sát tiến cứu MRFIT cũng cho thấy sự liên quan
mật thiết giữa THA và bệnh thận giai đoạn cuối, nhưng cho dù ở bất cứ mức độ nào
của huyết áp thì nguy cơ này cũng tăng 2 lần ở những người Mỹ gốc Phi so với
người da trắng [44].


1

Theo khuyến cáo của Hiệp hội Thận học quốc tế, huyết áp mục tiêu ở người
bệnh có bệnh thận và đái tháo đường phải thấp hơn các trường hợp huyết áp khác
(130/80 mmHg so với 140/90 mmHg), vì người ta cho rằng mối liên quan giữa
huyết áp với các kết cục lâm sàng sẽ chặt chẽ hơn ở những người có các bệnh này
[44].
1.1.5.5. Tổn thương mắt

Tổn thương đáy mắt và bệnh lý võng mạc trong bệnh THA liên quan trực tiếp
với sự gia tăng HA. THA gây hẹp động mạch võng mạc lan tỏa nhưng không đều,
tiến triển gây xuất huyết và phù gai thị. Về chức năng thị lực không phụ thuộc
nhiều vào dạng tổn thương cũng như vị trí của nó: xuất huyết và xuất tiết ở điểm
vàng có thể dẫn đến sự giảm thị lực trầm trọng, trong khi phù gai thị chỉ làm giảm
thị lực, nhiều khi nó lan đến điểm vàng. Đối với bệnh tăng huyết áp sự hiện diện
của phù gai thị và xuất huyết hai bên có tiên lượng xấu: Tỷ lệ sống đến 10 năm là
dưới 50% ở người tăng huyết áp đã điều trị tích cực giữa năm 1963 và 1983 [9].
1.2. Biến chứng đột quỵ não
1.2.1. Triệu chứng gợi ý đột quỵ
- Yếu hoặc tê mặt, tay hoặc chân, đặc biệt một bên cơ thể
Bệnh

- Rối loạn ý thức

nhân

- Có bất thường về lời nói hoặc sự hiểu biết

đột

- Bất thường về nhìn ở một hoặc cả hai bên mắt

ngột

- Mất thăng bằng, chóng mặt hoặc phối hợp động tác
- Đau đầu dữ dội mà không rõ căn nguyên

1.2.2. Biểu hiện lâm sàng
- Rối loạn ý thức, trí nhớ

Biểu
hiện
lâm
sàng

- Co giật cục bộ
- Liệt, rối loạn cảm giác ½ cơ thể, mặt
- Hội chứng tiểu não, hội chứng tiền đình trung ương
- Rối loạn lời nói, rối loạn thị giác
- Liệt dây thần kinh sọ


1

- Hội chứng màng não
1.2.3. Hậu quả của đột quỵ
Tê liệt hoặc yếu: Thường là ở một bên cơ thể, bao gồm cả mặt và miệng.
Thị giác: Người bệnh có thể khơng tập trung nhìn được, có thể có điểm mù hoặc có
vấn đề với tầm nhìn ngoại vi.
Khó khăn trong giao tiếp: Mất ngôn ngữ là khái niệm được dùng để mô tả tập hợp
sự thiếu hụt về giao tiếp, bao gồm gặp vấn đề khi nói, hiểu, đọc và viết.
Rối loạn cảm xúc: Biểu hiện khơng kiểm sốt, khơng lý giải được của hành động
khóc, tức giận hoặc cười mà có thể ít có liên hệ đến trạng thái cảm xúc hiện tại của
người bệnh. Những biểu hiện này thường đến và đi nhanh chóng và có thể giảm dần
theo thời gian.
Trầm cảm: Lo âu (đặc biệt là về khả năng gặp một cơn đột quỵ khác) và trầm cảm
là những biểu hiện thường gặp sau đột quỵ.
1.2.4 Nguy cơ gây đột quỵ
1.2.4.1. Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được
* Tuổi

- Di truyền: Tiền sử gia đình có cùng huyết thống bị đột quỵ
- Chủng tộc / Dân tộc
- Giới tính
1.3.4.2. Yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được
Yếu tố bệnh lý

Thói quen, lối sông

- Tăng huyết áp

- Hút thuốc lá

- Đái tháo đường

- Chế độ ăn nhiều muối

- Cholesterol máu cao

- Không hoặc ít hoạt động thể chất

- Đau ngực

- Thừa cân / béo phì và phân phối mỡ cơ thể

- Cơn thiếu máu não thoáng qua (TIA)

- Uống rượu, bia

- Stress


- Lo âu, căng thẳng


1

- Thường xuyên bị lạnh đột ngột
* Theo JNC VII:
Việc thay đổi lối sống là một cách phòng ngừa bệnh tăng huyết áp cũng như
biến chứng của bệnh [51].
- Giảm cân: Duy trì trọng lượng cơ thể bình thường (BMI: 18,5 - 24,9).
- Hạn chế uống rượu: Uống rượu không quá 2 ly nhỏ mỗi ngày tương đương
30 ml ethanol, 720 ml bia, 300 ml rượu vang, hoặc 90 ml whisky mỗi ngày. Với nữ
giới và người nhẹ cân, liều lượng giảm chỉ còn một nửa.
- Hoạt động thể lực: Đi bộ nhanh ít nhất 30 phút mỗi ngày và hầu hết các ngày
trong tuần.
- Giảm lượng muối < 100 mmol mỗi ngày (2,4 g natri hoặc 6 g muối).
- Duy trì đủ lượng kali trong khẩu phần (khoảng 90 mmol mỗi ngày).
- Duy trì chế độ ăn uống đủ lượng canxi và magie cho sức khỏe nói chung.
- Ngừng hút thuốc và giảm lượng chất béo bão hòa và cholesterol trong khẩu
phần cho sức khỏe tim mạch tổng thể.
* Tại Việt Nam:
Theo hướng dẫn chẩn đoán, điều trị THA của Bộ Y tế áp dụng các biện pháp
tích cực thay đổi lối sống cho mọi người bệnh để ngăn ngừa tiến triển, giảm được
HA, giảm số thuốc cần dùng và giảm các biến chứng của bệnh THA cho người
bệnh [52]:
- Chế độ ăn hợp lý, đảm bảo đủ kali và các yếu tố vi lượng:
+ Giảm ăn mặn (< 6 gam muối hay 1 thìa cà phê muối mỗi ngày).
+ Tăng cường rau xanh, hoa quả tươi.
+ Hạn chế thức ăn có nhiều cholesterol và axit béo no.
- Tích cực giảm cân (nếu quá cân), duy trì cân nặng lý tưởng với chỉ số khối

cơ thể (BMI: Từ 18,5 – 22,9 kg/m2).
- Cố gắng duy trì vịng bụng dưới 90 cm ở nam và dưới 80 cm ở nữ.
- Hạn chế uống rượu, bia: Số lượng ít hơn 3 cốc chuẩn/ngày (nam), ít hơn 2
cốc chuẩn/ngày (nữ) và tổng cộng ít hơn 14 cốc chuẩn/tuần (nam), ít hơn 9 cốc
chuẩn/tuần (nữ). 1 cốc chuẩn chứa 10g ethanol tương đương với 330 ml bia hoặc
120 ml rượu vang, hoặc 30 ml rượu mạnh.


1

- Ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá hoặc thuốc lào.
- Tăng cường hoạt động thể lực ở mức thích hợp: Tập thể dục, đi bộ hoặc vận
động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30 – 60 phút mỗi ngày.
- Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh, cần chú ý đến việc thư giãn, nghỉ ngơi.
- Tránh bị lạnh đột ngột.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Các khảo sát trên thế giới
Theo Đại điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý kiến thức là: Điều hiểu
biết do tìm hiểu, học tập mà nên: kiến thức khoa học, kiến thức văn hóa, kiến thức xã
hội [49]. Kiến thức hay tri thức của mỗi người được tích lũy dần qua quá trình học
tập và kinh nghiệm thu được trong cuộc sống. Mỗi người có thể thu được kiến thức
từ nhiều nguồn khác nhau như từ thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, những
người xung quanh, sách vở và các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp.
Kiến thức là một trong các yếu tố quan trọng giúp con người có các suy nghĩ
và tình cảm, thái độ đúng đắn, từ đó dẫn đến những hành vi hay thực hành phù hợp
trước mỗi sự việc hay tình huống cụ thể.Mặc dù phát hiện sớm và điều trị đột quỵ là
hiệu quả nhất nhưng kiến thức về các yếu tố nguy cơ trong hành vi lối sống sẽ giúp
phòng ngừa và giảm bớt hậu quả của đột quỵ. Một số khảo sát về kiến thức cơ bản
chung về các yếu tố nguy cơ đột quỵ còn thấp [69]: 39% người bệnh biết huyết áp
cao là yếu tố nguy cơ của đột quỵ, 52% nhận thức được bệnh tiểu đường và đột

quỵ, 44% phản ứng với chế độ ăn uống kém, 44% không biết và 33% xác định căng
thẳng là yếu tố rủi ro. Tương tự, một khảo sát khảo sát năm 2010 của cư dân người
Mỹ gốc Phi ở Mississippi về kiến thức về yếu tố đột quỵ phát hiện ra rằng nhiều
người không biết các yếu tố lối sống như thiếu hoạt động thể chất, uống quá nhiều
rượu, tiểu đường, hút thuốc và cholesterol cao góp phần vào nguy cơ đột quỵ [68].
Phát hiện trong 1 báo cáo nghiên bởi [70] và cộng sự về kiến thức tối ưu về các yếu
tố nguy cơ đột quỵ cho thấy có đến 52% người bệnh không thể kể tên được một yếu
tố nguy cơ đột quỵ.
Một khảo sát khác ở châu Á vào năm 2005 của tác giả Pandian JD và cộng sự
tiến hành ở bang Punjab Ấn Độ cho thấy 21% trong số dân ở đây không kể được
một YTNC nào của ĐQN [56]. Có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy việc thay đổi các


1

yếu tố rủi ro đối với đột quỵ sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ đột quỵ tới 80% [65], việc
hành vi lối sống khơng được kiểm sốt và chăm sóc sức khỏe khơng hợp lý sẽ làm
gia tăng tỉ lệ đột quỵ [66]
Khảo sát của Siraj Ahmad và cộng sự tiến hành trên 354 người bệnh THA tại
Ấn Độ, cho thấy: 31,4% ĐTNC vẫn hút thuốc, 15,5% ĐTNC vẫn uống rượu. Có tới
72,3% ĐTNC có kiến thức chưa đạt, 77,7% ĐTNC có thái độ chưa đạt và 82,8% có
thực hành chưa đạt về dự phòng biến chứng của bệnh tăng huyết áp [57]. Khảo sát
của Malik A và cộng sự tiến hành trên 209 người bệnh THA điều trị nội trú của một
bệnh viện ở Samarkand, Uzbekistan năm 2012 cho thấy: Có 44% người bệnh theo
dõi HA tại nhà, 42,5% theo dõi cân nặng của mình và 81,8% đã giảm lượng mối ăn
hàng ngày, 82,8% ĐTNC hạn chế uống rượu, 80,9 % ĐTNC không hút thuốc [59].
2.2. Các khảo sát tại Việt Nam
Ở Việt Nam, số lượng các khảo sát về hiểu biết bệnh ĐQN trong cộng đồng
còn chưa nhiều. Nguyễn Văn Triệu đánh giá tình trạng hiểu biết của người dân ở
tỉnh Hải Dương về ĐQN cho thấy hiểu biết của người dân về các YTNC và dự

phòng ĐQN còn hạn chế, 11,5% người dân cho rằng ĐQN khơng thể dự phịng
được, 34,7% người dân khơng cho rằng béo phì dễ bị ĐQN [57].Theo tác giả Bùi
Đức Long, tại Hải Dương tình trạng bệnh THA và ĐQN phải vào viện điều trị ngày
càng tăng, nam nhiều hơn nữ, 55,8% nam và 44,2% nữ. Số lượng người bệnh ĐQN
nội trú nhiều hơn người bệnh THA trong cùng khoảng thời gian [58]. Một khảo sát
của Trần Văn Tuấn tại tỉnh Thái Nguyên năm 2000- 2003 cho thấy, tỷ lệ mắc ĐQN
ở khu vực thành phố cao hơn ở khu vực nơng thơn, sự khác nhau ở 2 khu vực có ý
nghĩa thống kê p < 0,05; ĐQN gặp nhiều ở những người có trình độ văn hóa phổ
thơng trung học trở xuống. Tỷ lệ tử vong tăng dần theo tuổi. Tuổi trung bình của
người bệnh ĐQN tử vong là 67,96 ± 10,86, nhóm tuổi trên 60 có tỷ lệ tử vong cao
nhất.Bệnh ĐQN xảy ra ở bất kỳ giờ nào trong ngày, nhưng nhiều nhất là vào thời
gian từ 4 giờ đến 12 giờ, và xảy ra nhiều nhất ở các tháng 2, 5, 11 trong năm [52].
Theo đại từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý, thực hành là làm để
áp dụng lý thuyết vào thực tế: Lí thuyết đi đơi với thực hành. Hay: Thi hành, thực
hiện: Thực hành nghiêm túc các quy chế của cơ quan [46]. Thực hành là biến các
kiến thức, hiểu biết thành các hành động cụ thể để đạt được những mục đích nhất


1

định. Trong cuộc sống các hoạt động thực hành không thể thiếu được để đáp ứng
các nhu cầu của cuộc sống từ thấp đến cao. Thực hành các biện pháp chăm sóc sức
khỏe, phịng chống bệnh tật là các thực hành thiết yếu để giúp cho mỗi người có
sức khỏe và phòng, chống được các bệnh tật. Hoạt động thực hành phòng chống
bệnh tật rất đa dạng và phong phú. Để có các thực hành phịng, chống bệnh tật đúng
đắn trước tiên phải đạt được các cơ sở kiến thức, hiểu biết về vấn đề sức khỏe bệnh
tật và đạt được ở đối tượng các thái độ quan tâm tích cực, đúng mức đến vấn đề sức
khỏe, bệnh tật.
Cụm từ “thực hành” trong đời sống thực tế về chăm sóc sức khỏe rất đa dạng
và phong phú, vì thế các cá nhân và cộng đồng cần được giáo dục và hướng dẫn

thực hành về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho cá nhân và cho cộng đồng. Như vậy
nhu cầu đào tạo thực hành đúng đắn về phòng bệnh, chữa bệnh, chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe cho mỗi người, mỗi gia đình và cho cả cộng đồng là rất cần thiết. Như vậy
“thực hành” với nghĩa là làm cho mọi người dân thực hành phịng, chống bệnh tật,
chăm sóc nâng cao sức khỏe có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi cá
nhân và của cộng đồng.
Bùi Thị Thanh Hịa (2012) cho kết quả: 48,3% ĐTNC có kiến thức chưa đạt về
dự phòng biến chứng THA [62]. Khảo sát của Ngô Thị Hương Giang (2013) cho
thấy: Chỉ có 50,4% số ĐTNC điều trị THA là dùng thuốc kết hợp với thay đổi lối
sống, vẫn còn 49,6% Số ĐTNC vẫn thực hiện sai nguyên tắc điều trị [63]. Trịnh Thị
Hương Giang (2013) cho kết quả: 17,8% ĐTNC có kiến thức chưa đạt về phịng biến
chứng THA, có 21,1% ĐTNC vẫn sử dụng rượu, bia; 42,9% ĐTNC không giảm
lượng muối, nước mắm khi chế biến thức ăn; 64,7% thực hành khơng đạt để phịng
biến chứng TBMMN [64].
Kết quả khảo sát của Đinh Thị Thu và cộng sự cho thấy tới 96,6% người bệnh
biết biến chứng đột quỵ tiếp đó là biến chứng ở tim với 69,6%, 29,2% biến
chứng về mắt, 26,1% biến chứng về thận và không biết THA có thể gây ra biến
chứng gì là 2,8%. Tỷ lệ người bệnh biết những biến chứng của TBMMN là
cao nhất và tương đồng với khảo sát của Trịnh Thị Hương Giang (2015) là 98,2%
biết biến chứng tại não [1], Châu Văn Nga (2015) là 92,8% [5] nhưng cao hơn
nghiên cứu của Nguyễn Phan Thạch năm 2015 [8] và Trịnh Thị Thúy Hồng năm


1

2015 [3] lần lượt là 82%, 80,4%. Kiến thức về dấu hiệu cụ thể của biến chứng, kết
quả khảo sát cho thấy các dấu hiệu của biến chứng đột quỵ được biết đến tương
đối tốt, trong đó chủ yếu là dấu hiệu méo mồm, méo mặt, nói khơng rõ chiếm
94,7%; tê liệt tay/ chân/ một bên cơ thể chiếm 92,2%; dấu hiệu khó khăn khi
bước đi, mất thăng bằng 10,9%.



1

CHƯƠNG 2
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1. Đặc điểm tình hình về Bệnh viện Đa khoa khu vực Phúc Yên
Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên được thành lập năm 2004, là bệnh
viện đa khoa hạng I tuyến tỉnh, trực thuộc sở y tế Vĩnh Phúc, với quy mô 850
giường theo kế hoạch, thực kê 1300 giường. Nhân lực bệnh viện có tổng số 831cán
bộ, trong đó bác sĩ là 175 bác sĩ, điều dưỡng 391 điều dưỡng, hành chính và các bộ
phận giúp việc bao gồm có 265 cán bộ nhân viên. Hiện tại bệnh viện đang hoạt
động với 33 khoa phòng với đầy đủ các chuyên khoa: Nội, ngoại, sản, nhi, chuyên
khoa lẻ…và các phòng chức năng. Tiếp nhận hàng ngày khoảng 700 người bệnh
đến khám và gần 1300 người bệnh điều trị nội trú/ngày.
Với các khoa khối Ngoại (ngoại chấn thương, ngoại tổng hợp, ngoại thận,
ung bướu, phụ sản) hàng năm với khoảng 460 giường điều trị cho khoảng 27.785
lượt người bệnh điều trị nội trú, phẫu thuật ước tính 5.634 ca, thủ thuật khoảng
9.195 ca. Với các khoa khối Nội ( Hồi sức tích cực, cấp cứu, Nội Tổng hợp, nội tim
mạch, nội Thận tiết niệu, nội tiêu hóa, Lão khoa, Nội Tiết….), Nhi, Sơ sinh và các
khoa thuộc chuyên khoa ( Mắt, răng hàm mặt, Tai mũi họng) điều trị hàng năm với
khoảng 26.995 lượt người bệnh nội trú, thực hiện phẫu thuật ước tính 1.725 ca và
khoảng 115.765 ca thủ thuật.
Khoa Nội Tim Mạch được tách ra và hoạt động độc lập từ năm 2011 đến
nay, ban đầu có 3 bác sĩ, 9 điều dưỡng và 1 hộ lý và số giường kế hoạch là 25
giường đến nay khoa hoạt động với 50 giường bệnh thực kê, nhân lực có 5 bác sĩ (1
bác sĩ chuyên khoa II, 3 bác sĩ chuyên khoa I, 1 bác sĩ đa khoa), nhân lực điều
dưỡng 13 người ( 3 điều dưỡng đại học và 10 điều dưỡng cao đẳng) và 01 dược sĩ
cao đẳng. Khoa có 1 phịng khám và điều trị ngoại trú cấp thuốc hàng tháng cho
người bệnh mắc bệnh Tăng huyết áp và tim mạch. Trong đó người bệnh được quản

lý mắc bệnh Tăng huyết áp là 146 người bệnh chiếm trên 1/3 số người bệnh đến
khám cấp thuốc điều trị ngoại trú theo hẹn tại khoa. Khoa đã thực hiện tốt các chức
năng nhiệm vụ của mình như: Khám và điều trị nội trú, ngoại trú cho người bệnh
mắc các bệnh Tăng huyết áp, Tim mạch và không ngừng phát triển hoạt động của



×