Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Giải pháp hạn chế số lượng thẻ không hoạt động tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.87 KB, 92 trang )

1

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay văn minh thanh tốn khơng dùng tiền mặt đang được phổ
biến rộng rãi ở khá nhiều nước trên toàn thế giới. Một trong những cơng cụ
góp phần làm giảm việc thanh tốn tiền mặt chính là những chiếc thẻ ngân
hàng nhỏ gọn và xinh xắn, được coi là những “chiếc ví điện tử”. Thẻ ngân
hàng được sử dụng phổ biến trên thế giới từ những năm 50 nhưng những năm
gần đây mới được ứng dụng vào Việt Nam. Là Ngân hàng tuy mới ra nhập thị
trường thẻ Việt Nam nhưng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam đã đạt được những kết quả khá ấn tượng trong lĩnh vực thẻ, là một
trong những ngân hàng có số lượng thẻ phát hành lớn, thu hút được rất nhiều
khách hàng tham gia sử dụng thẻ. Tuy nhiên, giữ được khách hàng tiếp tục sử
dụng thẻ lại rất khó khăn bởi hiện tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam có số lượng thẻ khơng hoạt động (khách hàng có thẻ
nhưng khơng sử dụng) ngày càng gia tăng.
Trước tình hình trên, việc tìm ra những giải pháp cả về cơ sở vật chất
kỹ thuật, công nghệ, đào tạo nhân lực… nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
thẻ của Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam vơ cùng
quan trọng, chính vì vậy tơi chọn đề tài: “Giải pháp hạn chế số lượng thẻ
không hoạt động tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Những lý luận cơ bản liên quan đến thẻ và thanh tốn thẻ tại Việt
Nam.
- Phân tích rõ thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tại Ngân hàng Nông
Nghiệp và Phát triển Nơng thơn Việt Nam.
- Phân tích rõ thực trạng tình hình thẻ khơng hoạt động tại Ngân hàng
Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.



2
- Đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm hạn chế số lượng thẻ khơng
hoạt động từ đó góp phần nâng cao dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Nông Nghiệp
và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động kinh doanh dịch vụ thẻ tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tại Ngân
hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011.
Tìm giải pháp hạn chế số lượng thẻ khơng hoạt động từ đó góp phần nâng cao
hiệu quả dịch vụ thẻ Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu:
+ Các số liệu thống kê được thu thập qua tài liệu báo cáo thường niên,
kết quả điều tra được thực hiện trước đoa, nguồn dữ liệu thu thập từ các tài
liệu, thông tin nội bộ: Ban Tiếp thị và nghiên cứu sản phẩm, Trung tâm Thẻ
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Trụ sở chính…
các nguồn dữ liệu bên ngồi như: báo cáo của Hội thẻ, mạng internet… Các
nguồn dữ liệu này được trích dẫn trực tiếp trong luận văn và được ghi chú chi
tiết trong phần tài liệu tham khảo.
+ Tổng hợp: Kế thừa các nghiên cứu khác để đưa ra các ý kiến, nhận
định cho nghiên cứu này.
- Phương pháp phân tích số liệu: Kết quả tổng hợp số liệu được sử dụng
vào phân tích tình hình, thực trang sử dụng thẻ tại Ngân hàng Nông Nghiệp
và Phát triển Nơng thơn Việt Nam.
-Ngồi ra Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp
nghiên cứu lý thuyết với phân tích thực trạng hoạt động dịch vụ thẻ để đánh
giá và đề xuất giải pháp.



3
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thẻ ngân hàng
Chương 2: Thực trạng thẻ không hoạt động tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hạn chế số lượng thẻ không hoạt động tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam


4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẺ NGÂN HÀNG

1.1. Tổng quan về thẻ
1.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng - “thẻ thanh tốn” được ghi nhận là một phương tiện
thanh tốn thơng dụng và văn minh nhất thế giới ngày nay. Tuy nhiên, ngân
hàng không phải là nơi đầu tiên phát hành thẻ, trước đó đã có các cá nhân và
cơng ty thực hiện nghiệp vụ này. Lịch sử hình thành phương thức thanh tốn
bằng thẻ nói chung được ghi nhận vào năm 1914. Thẻ đầu tiên được phát
hành do công ty Mỹ là Western Union cung cấp là một tấm thẻ bằng kim loại
với một số thông tin được in nổi trên để đảm bảo hai chức năng cơ bản: Nhận
dạng khách hàng và có thể lưu trữ thơng tin được in nổi tấm kim loại. Chính
vì sự tiện lợi từ thẻ Western Union, công ty General Petroleum của Mỹ cũng
đã phát hành thẻ xăng dầu đầu tiên vào năm 1924. Như vậy, có thể nói những
tấm thẻ kim loại là nền tảng cho việc ra đời những tấm thẻ nhựa sau này.
Vào năm 1950, Frank Mc Namara và Ralph Schneider, hai doanh nhân
người Mỹ, đồng thành lập ra Diners Club sau một lần đi ăn ở nhà hàng và

quên đem theo tiền mặt. Chính việc phải cam kết thanh tốn đã gợi lên một ý
tưởng kinh doanh thẻ đối với Frank Mc Namara. Và tấm thẻ tín dụng đầu tiên,
được làm bằng chất liệu plastic đã được ra đời kể từ đó. Hai ơng đã cung cấp
cho bạn bè, đồng nghiệp của mình thẻ Diners Club, cho phép họ có thể ghi nợ
khi ăn, nghỉ tại một số nhà hàng, khách sạn ở New York và thanh toán số tiền
này định kỳ theo tháng.
Hình thức thanh tốn mới này khơng chỉ dừng lại ở việc mang lại tiện
ích cho người tiêu dùng mà nó cịn hứa hẹn một ngành kinh doanh mới đầy
triển vọng. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều tổ chức tham gia vào lĩnh vực
kinh doanh hấp dẫn này. Năm 1955, hàng loạt thẻ mới như Trip Charge,
Golden Key, Gourmet Club rồi đến Carte Blanche và American Express ra


5
đời và thống lĩnh thị trường. Tuy nhiên, để hình thức thanh tốn lớn, khơng
chỉ trong phạm vi một địa phương, một quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu.
Đứng trước địi hỏi đó, InterBank (MasterCharge) và Bank of American
(Bank Americard) đã xây dựng một hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn trong xử
lý thanh tốn thẻ tồn cầu. Năm 1977, Bank Americard trở thành Visa USA
và sau đó trở thành Tổ chức thẻ quốc tế Visa. Năm 1979, MasterCharge cũng
trở thành một tổ chức thẻ quốc tế lớn khác là MasterCard. Ngày nay, có 5 tổ
chức thẻ quốc tế lớn nhất là Visa, MasterCard, American Express, JCB và
Diner Club. Các loại thẻ đang lưu hành trên thế giới chủ yếu là do 5 tổ chức
nói trên phát hành.
Thẻ ngân hàng lần đầu tiên được chấp nhận tại Việt Nam vào năm
1990, khi Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ký hợp đồng làm đại lý chi trả
thẻ Visa với Ngân hàng Singapore BFCE và đã mở đầu cho phương thức
thanh toán mới này tại Việt Nam.
Ngày nay, thẻ ngân hàng đã có mặt trên khắp thế giới với các hình
thức, chủng loại đa dạng, phong phú đang ngày càng đáp ứng đầy đủ những

nhu cầu riêng lẻ của người tiêu dùng. Sự phát triển mạnh mẽ này đã khẳng
định xu thế phát triển tất yếu của thẻ ngân hàng nói riêng cũng như “thanh
tốn thẻ” nói chung.
1.1.2. Khái niệm về thẻ ngân hàng
“Thẻ ngân hàng” (Bank card) hay còn gọi là “tiền nhựa” (Plastic
money) sau đây gọi tắt là thẻ (card), là một phương tiện thanh tốn khơng
dùng tiền mặt do ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính phát hành và cung cấp
cho khách hàng (gọi là chủ thẻ) dùng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thẻ. Do đặc điểm dùng để thanh
tốn nên thẻ ngân hàng cịn được gọi là “thẻ thanh toán” (payment card).
Từ khái niệm nêu trên ta có thể rút ra một số đặc điểm của thẻ ngân
hàng nói chung:


6
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt, ra đời
từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với việc
ứng dụng cơng nghệ tin học trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Thẻ ngân hàng là cơng cụ thanh tốn do ngân hàng phát hành thẻ cấp
cho khách hàng sử dụng để thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các điểm cung
ứng hàng hố dịch vụ có ký hợp đồng thanh toán với ngân hàng, hoặc rút tiền
mặt tại các máy rút tiền tự động hay các ngân hàng đại lý trong phạm vi số dư
tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp.
Thẻ ngân hàng cịn dùng để thực hiện nhiều dịch vụ khác như vấn tin
tài khoản, chuyển tiền, thanh toán tiền điện, nước, bảo hiểm, điện thoại…
thơng qua hệ thống giao dịch tự động hay cịn gọi là hệ thống tự phục vụ
ATM.
1.1.3. Cấu tạo thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng luôn được cấu tạo bằng plastic theo kích cỡ chuẩn quốc
tế và phải chứa đựng các yếu tố: Nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo

của nhà phát hành thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ... Ngồi ra thẻ cịn có thể có tên
cơng ty chịu trách nhiệm thanh toán thẻ hoặc thêm một số yếu tố khác theo
qui định của tổ chức thẻ quốc tế…
Mặt trước của thẻ
Biểu tượng: Mỗi loại thẻ có một biểu tượng riêng, mang tính đặc trưng
của tổ chức phát hành thẻ. Đây được xem như một yếu tố an ninh, chống lại
sự giả mạo.
- VISA: Hình chữ nhật 3 mầu: Xanh, trắng, vàng có chữ Visa chạy
ngang giữa màu trắng, trên hình chữ nhật 3 màu là hình chim bồ câu đang bay
in chìm.
- MASTERCARD: Có 2 hình trịn lồng nhau nằm ở góc dưới bên phải
(một hình mầu da cam, một hình mầu đỏ) và dịng chữ MasterCard mầu trằng


7
chạy ở giữa; trên hai hình trịn lồng nhau là hai nửa quả cầu lồng nhau in
chìm.
- JCB: Biểu tượng 3 mầu xanh cơng nhân, đỏ, xanh lá cây, có chữ JCB
chạy ngang giữa.
- AMEX: Biểu tượng hình đầu người chiến binh.
Số thẻ: Số này dành riêng cho mỗi chủ thẻ. được dập nổi trên thẻ và
được in lại trên hoá đơn khi chủ thẻ thanh toán bằng thẻ. Tuỳ theo từng loại
thẻ mà chữ số khác nhau và cách cấu trúc theo nhóm cũng khác nhau.
Thời gian hiệu lực của thẻ: Là thời hạn mà thẻ được phép lưu hành.
Tuỳ theo từng loại mà có thể ghi ngày hiệu lực cuối cùng của thẻ hoặc ngày
đầu tiên đến ngày cuối cùng được sử dụng thẻ.
Họ và tên chủ thẻ: được in chữ nổi trên mặt trước của thẻ.
Ký tự an ninh trên thẻ, số mật mã của đợt phát hành: Mỗi loại thẻ ln
có ký hiệu an ninh kèm theo in phía sau của ngày hiệu lực. Ví dụ: Thẻ Visa có
chữ V (hoặc CV, PV, RV, GV), thẻ MasterCard có chữ M và chữ C lồng vào

nhau.
Thẻ Amex còn in thêm số mật mã cho từng đợt phát hành.
Dải băng từ có khả năng lưu trữ các thơng tin như: Số thẻ, ngày hiệu
lực, tên chủ thẻ, ngân hàng phát hành…
Dải băng chữ ký: Trên dải băng này phải có chữ ký của chủ thẻ để cơ
sở chấp nhận thẻ có thể đối chiếu chữ ký khi thực hiện thanh tốn thẻ.
1.1.4. Phân loại thẻ ngân hàng
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại thẻ nhưng chủ yếu người ta sử
dụng 2 tiêu thức chính: Phân loại theo cơng nghệ sản xuất và phân loại theo
tính chất thanh toán của thẻ .


8
1.1.4.1. Phân loại theo công nghệ sản xuất

Nếu căn cứ theo cơng nghệ sản xuất thì thẻ ngân hàng được chia làm ba
loại sau:
Thẻ khắc chữ nổi (Embossing Card): Là loại thẻ được làm bằng nhựa
dựa trên kỹ thuật khắc nổi với các thông tin cần thiết được khắc trên thẻ.
Công nghệ này được sử dụng từ khi phát hành tấm thẻ nhựa đầu tiên và hiện
nay khơng cịn được sử dụng nữa vì kỹ thuật q thơ sơ, dễ bị lợi dụng làm
giả.
Thẻ từ (Mangnetic Stripe): Là loại thẻ có dải băng từ ở mặt sau thẻ.
Mọi thơng tin liên quan đến chủ thẻ và thẻ đều được mã hoá trong băng từ.
Đây là loại thẻ hiện nay được sử dụng phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, nó
cũng đã dần bộc lộ nhược điểm, đó là số lượng các thơng tin được mã hố
khơng nhiều và mang tính cố định nên không thể áp dụng kỹ thuật an tồn và
có thể bị ăn cắp thơng tin bằng các thiết bị nối với máy vi tính.
Thẻ thơng minh (Smart card): là giai đoạn phát triển hiện tại của thẻ
ngân hàng, thể hiện những ứng dụng hiện đại nhất của cơng nghệ thơng tin

vào lĩnh vực thẻ, đó là việc sử dụng chíp điện tử. Thơng thường, một tấm thẻ
thơng minh được gắn chíp điện tử để thay thế cho dải băng từ sau thẻ.
1.1.4.2 Phân loại theo tình trạng hoạt động
Thẻ hoạt động: là những thẻ được phát hành trên những tài khoản hoạt
động (active), thường xuyên có phát sinh giao dịch sau khi mở tài khoản.
Thẻ không hoạt động: là những thẻ được phát hành trên những tài
khoản khơng hoạt động (non active), khơng có phát sinh giao dịch trong một
thời gian dài sau khi mở tài khoản.


9
1.1.4.3. Phân loại thẻ theo tính chất thanh tốn
Nếu xét theo tính chất thanh tốn thẻ, thẻ ngân hàng được chia làm hai
loại sau:
Thẻ tín dụng (Credit Card)
Thẻ tín dụng là một phương thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt cho
phép người sử dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Khoảng thời gian từ
khi thẻ được dùng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền
cho ngân hàng có độ dài phụ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của các tổ chức
khác nhau. Chủ thẻ phải thanh toán số dư nợ trong một thời gian nhất định
nếu không chủ thẻ sẽ phải chịu lãi suất cao. Khi toàn bộ số tiền phát sinh
được hồn trả cho ngân hàng, hạn mức tín dụng của chủ thẻ được khôi phục
như ban đầu.
Ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành thẻ tín dụng cho khách
hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng. Khả
năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên tiêu chí như: thu nhập, tình hình
chi tiêu, uy tín, mối quan hệ sẵn có với các tổ chức tài chính, tài sản thế chấp
của khách hàng.
Thẻ tín dụng là cơng cụ thanh tốn hiện đại, văn minh và có tính thơng
dụng trên tồn thế giới. Khơng chỉ thanh tốn trong phạm vi lãnh thổ của một

quốc gia mà thẻ tín dụng quốc tế có thể được chấp nhận thanh tốn ở các đơn
vị có trưng biểu tượng của thẻ đó trên khắp thế giới.
Thẻ ghi nợ (Debit Card)
Giống như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ cũng là một phương tiện thanh tốn
khơng dùng tiền mặt, nó cho phép khách hàng tiếp cận với số dư tài khoản
của mình qua hệ thống kết nối trực tuyến để thanh toán hàng hoá dịch vụ tại
các ĐVCNT hoặc thực hiện các giao dịch liên quan tới tài khoản tại các máy
rút tiền tự động (máy ATM). Mức chi tiêu của chủ thẻ phụ thuộc chủ yếu vào
số dư trong tài khoản, ngân hàng giữ vai trị cung cấp dịch vụ và thu phí dịch
vụ. Đối với thẻ ghi nợ, giữa ngân hàng và khách hàng khơng diễn ra q trình


10
vay tín dụng, khơng có việc phân loại khách hàng nên khách hàng chỉ cần có
tài khoản tại ngân hàng là có thể tiếp cận với sản phẩm thẻ ghi nợ của khách
hàng. Chính vì vậy về mức độ có thể thay thế tiền mặt thẻ ghi nợ chiếm ưu
thế vượt trội hơn thẻ tín dụng.
Thẻ tính tiền: Là một hình thức của thẻ ghi nợ nhưng thẻ tính tiền được
phát hành giống như phương thức của thẻ tín dụng, tức là hàng tháng chủ thẻ
phải hoàn trả đầy đủ hoá đơn thanh toán. Thẻ này được nối mạng cùng hệ
thống với thẻ tín dụng nhưng lệ phí hàng năm lớn hơn thẻ tín dụng, đặc biệt là
đối với các loại thẻ vàng (Gold Charge Card). Loại thẻ này có thể mang đến
các lợi ích khác nhau như ưu tiên đặt chỗ, mua vé hay bao gồm phí bảo hiểm
du lịch và thường do các tổ chức du lịch và giải trí như Diners Club và
American Express phát hành.
1.1.4.4. Căn cứ vào phạm vi sử dụng của thẻ có thể chia thành thẻ trong
nước và thẻ quốc tế
Thẻ trong nước là thẻ do các ngân hàng, tổ chức tín dụng phát hành để
thanh toán hàng hoá dịch vụ và rút tiền mặt trong phạm vi quốc gia. Thơng
thường đó là thẻ ghi nợ của các ngân hàng thương mại, được phát hành, sử

dụng tại hệ thống máy ATM và mạng lưới các ĐVCNT của ngân hàng phát
hành, ngân hàng đại lý, ngân hàng liên kết với ngân hàng phát hành.
Thẻ quốc tế là thẻ mang thương hiệu của các tổ chức thẻ quốc tế do các
ngân hàng, tổ chức tín dụng làm đại lý phát hành. Thẻ quốc tế có thể được sử
dụng trên phạm vi trong nước và quốc tế, tại bất kỳ các ĐVCNT hoặc máy
ATM có mang biểu tượng chấp nhận thanh tốn thẻ đó. Để phát hành thẻ
quốc tế, ngân hàng phát hành thẻ phải đăng ký và được chấp nhận làm thành
viên của tổ chức thẻ quốc tế, tuân thủ chặt chẽ các qui định trong việc phát
hành và thanh toán thẻ do Tổ chức thẻ quốc tế đó ban hành.
Các chủ thể tham gia dịch vụ thẻ
Thẻ ngân hàng ra đời trực tiếp từ mối quan hệ gắn bó giữa người mua
hàng, các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ và các tổ chức tài chính tín


11
dụng. Khi ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng trở thành thành viên
chính thức hoặc đại lý cho các tổ chức và cơng ty thẻ thì tồn bộ hệ thống
phát hành và thanh toán trở nên đồng bộ. Như vậy, trong một giao dịch thanh
tốn thơng thường có 5 bên tham gia: Ngân hàng phát hành (Bank Issuer),
Ngân hàng thanh toán (Acquirer), Chủ thẻ (Cardholder), Đơn vị chấp nhận
thẻ (Merchant) và Tổ chức thẻ quốc tế (Card Association).
Ngân hàng phát hành (Bank Issuer)
Ngân hàng phát hành (NHPH) là ngân hàng được sự cho phép của tổ
chức thẻ hoặc công ty trao quyền phát hành thẻ mang thương hiệu của những
tổ chức và công ty này. Ngân hàng phát hành là ngân hàng có tên in trên thẻ
do ngân hàng đó phát hành thể hiện đó là sản phẩm của mình. Ví dụ như thẻ
Visa, MasterCard, American Express do Vietcombank phát hành sẽ có tên
Vietcombank Visa, Vietcombank MasterCard và Vietcombank American
Express.
Ngân hàng phát hành qui định những điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ

cho chủ thẻ tuân thủ. Ngân hàng phát hành có quyền ký kết hợp đồng đại lý
với bên thứ ba, là một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác
trong việc thanh tốn hoặc phát hành thẻ tín dụng. Trong trường hợp này,
ngân hàng phát hành tận dụng được ưu thế của bên thứ ba về kinh nghiệm,
khả năng thâm nhập thị trường và những ưu việt về vị trí địa lý. Tuy nhiên,
NHPH cũng phải chịu rủi ro về tài chính bởi bên thứ ba lúc này hoạt động
dưới danh nghĩa là ngân hàng đại lý. Bên thứ ba khi ký hợp đồng đại lý với
ngân hàng phát hành được gọi là ngân hàng đại lý phát hành. Nếu tên của
ngân hàng đại lý xuất hiện trên tấm thẻ của khách hàng thì nhất thiết ngân
hàng đại lý phải là thành viên chính thức của tổ chức thẻ hoặc các cơng ty thẻ.
Chủ thẻ (Cardholder)
Chủ thẻ là những cá nhân hoặc người được uỷ quyền (nếu là thẻ do
công ty uỷ quyền sử dụng), có tên in nổi trên thẻ và sử dụng thẻ theo những
điều khoản, điều kiện do ngân hàng phát hành quy định.


12
Chủ thẻ sử dụng thẻ để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị
cung ứng hàng hoá, dịch vụ có chấp nhận thẻ, lấy tiền mặt thuộc hệ thống
ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch tại máy rút tiền tự
động ATM. Đối với thẻ tín dụng, sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo
quy định của từng ngân hàng phát hành, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê. Sao kê
là bảng thông báo chi tiết toàn bộ các giao dịch chi tiêu sử dụng thẻ. Căn cứ
vào thông tin trên sao kê, chủ thẻ sẽ thực hiện thanh tốn khoản tín dụng thẻ
đã sử dụng cho ngân hàng phát hành.
Ngân hàng thanh toán (Acquirer)
Ngân hàng thanh toán là ngân hàng chấp nhận như một phương tiện
thanh tốn thơng qua việc ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các điểm cung
ứng hàng hoá, dịch vụ trên địa bàn. Trong hợp đồng chấp nhận thẻ ký kết với
các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ, ngân hàng thanh toán thẻ cam kết:

Chấp nhận các đơn vị này vào hệ thống thanh toán thẻ của ngân hàng; Cung
cấp các thiết bị đọc thẻ tự động cho các đơn vị này kèm theo những hướng
dẫn sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên các thức vận hành cùng với
dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong suốt thời gian hoạt động; Quản lý và
xử lý những giao dịch có sử dụng thẻ tại đơn vị này.
Thơng thường, ngân hàng thanh tốn thu từ các đơn vị cung ứng hàng
hố, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với họ một mức phí, phí này
được tính trên tổng số tiền giao dịch thực hiện thành công trên hệ thống trong
một thời gian nhất định (phí chiết khấu). Mức phí này cao hay thấp phụ thuộc
vào từng ngân hàng và vào mối quan hệ chiến lược đối với các đơn vị khác
nhau.
Trên thực tế, rất nhiều ngân hàng vừa là ngân hàng phát hành vừa là
ngân hàng thanh toán thẻ. Với tư cách là ngân hàng thanh toán, khách hàng là
các đơn vị cung ứng hàng hố, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ.


13
Đơn vị chấp nhận thẻ (Merchant)
Các điểm cung ứng hàng hố, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận
thẻ như một phương tiện thanh toán được gọi là đơn vị chấp nhận thẻ
(ĐVCNT). ĐVCNT bao gồm nhiều lĩnh vực như nhà hàng ăn uống, khách
sạn, sân bay, siêu thị, cửa hàng… Tại nhiều nước trên thế giới, khi thẻ ngân
hàng đã trở thành một phương tiện thanh tốn thơng dụng, chúng ta có thể
nhìn thấy những biểu trưng của thẻ xuất hiện tại các cửa hàng. Ở Việt Nam
hiện nay, các ĐVCNT tập trung chủ yếu tại những ngành hàng, dịch vụ có thu
hút nhiều khách nước ngồi như cửa hàng mỹ nghệ, cửa hàng lưu niệm tại các
trung tâm thương mại, nhà hàng, khách sạn hay đại lý bán vé máy bay.
Để trở thành ĐVCNT đối với một loại thẻ ngân hàng nào đó, nhất thiết
đơn vị này phải có tình hình tài chính tốt và có năng lực kinh doanh. Cũng
như việc ngân hàng phát hành thẩm định khách hàng trước khi phát hành thẻ

cho họ, các ngân hàng thanh toán cũng sẽ chỉ quyết định ký kết hợp đồng
chấp nhận thẻ với những đơn vị kinh doanh hiệu quả, có khả năng thu hút
nhiều giao dịch sử dụng thẻ.
Mặc dù phải trả cho ngân hàng thanh tốn một tỷ lệ phí chiết khấu theo
lượng tiền trong mỗi giao dịch, các ĐVCNT vẫn có được lợi thế cạnh tranh
bởi việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ ngân hàng sẽ giúp các đơn vị này thu
hút được lượng khách hàng lớn, nâng cao số lượng các giao dịch thực hiện,
góp phần tăng cao hiệu quả kinh doanh.
Tổ chức thẻ quốc tế
Tổ chức thẻ quốc tế là đơn vị đứng đầu, quản lý mọi hoạt động phát
hành và thanh tốn thẻ. Nó tồn tại dưới các hình thức hiệp hội (Card
Association) như Visa và MasterCard hay công ty độc lập (Independent
Companies) như American Express, Diner Club.
Một số biểu tượng của các tổ chức thẻ quốc tế


14

Tổ chức thẻ quốc tế đứng ra liên kết với các thành viên, đặt ra các qui
định bắt buộc các thành viên phải áp dụng và tuân theo thống nhất thành một
hệ thống toàn cầu. Bất cứ Ngân hàng nào hiện nay hoạt động trong lĩnh vực
thanh toán thẻ quốc tế đều phải gia nhập vào một tổ chức thẻ quốc tế nào đó.
Các tổ chức thẻ quốc tế khơng trực tiếp phát hành thẻ mà vai trị của nó
là thiết lập các qui tắc và trật tự cho việc phát hành và sử dụng thẻ, quảng bá
nhãn hiệu, hạn chế rủi ro và gian lận, vận hành hệ thống thanh toán với tốc độ
nhanh cho phép cấp phép, tiến hành thực hiện các giao dịch thẻ giữa các
thành viên của mình. Các cơng ty độc lập như American Express cũng tiến
hành những chức năng này, nhưng họ lại có mối quan hệ trực tiếp với người
tiêu dùng và đơn vị chấp nhận thẻ, phát hành thẻ và thực hiện các chức năng
ngân hàng đại lý thanh toán thẻ.

Như vậy, mỗi chủ thể tham gia hoạt động thẻ đều có vai trị nhất định
và khơng thể thiếu trong việc phát huy tối đa tính năng phương tiện thanh
tốn hiện đại không dùng tiền mặt của ngân hàng. Mối quan hệ giữa các thành
phần được tóm tắt qua sơ đồ sau:
10

CHỦ TH

Ngân hàng
phát hành

9
8
7

1

2

Tổ chức thẻ
quốc tế

5

ĐVCNT hoc
NH đại lý

6

3

4

S 1.1: Quy trỡnh thanh toỏn th

Ngân hàng
thanh toán


15

- Chủ thẻ yêu cầu thanh toán hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền mặt bằng
thẻ.
- ĐVCNT cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng.
- Gửi hoá đơn thanh tốn thẻ cho ngân hàng thanh tốn.
- Ghi có vào tài khoản của ĐVCNT hoặc ngân hàng đại lý.
- Gửi dữ liệu thanh toán tới Tổ chức thẻ quốc tế.
- Ghi có cho ngân hàng thanh tốn.
- Báo nợ cho ngân hàng phát hành.
- Thanh toán nợ cho tổ chức thẻ quốc tế
- Gửi sao kê cho chủ thẻ
- Thanh toán nợ cho ngân hàng phát hành.
Qua sơ đồ trên, ngân hàng thanh toán và ngân hàng phát hành thực hiện
những nghiệp vụ khác nhau. Ngân hàng thanh toán xây dựng và quản lý mạng
lưới đơn vị chấp nhận thẻ, tổng hợp những dữ liệu giao dịch do đơn vị chấp
nhận thẻ thực hiện để chuyển đòi ngân hàng phát hành thông qua trung gian là
Tổ chức thẻ Quốc tế. Ngân hàng phát hành quản lý các chủ thẻ và chịu trách
nhiệm thanh toán với ngân hàng thanh toán đối với những giao dịch do chủ
thẻ của mình thực hiện.
Các nghiệp vụ về dịch vụ thẻ ngân hàng
Hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng thương mại bao gồm 2 mảng

chính là phát hành và thanh tốn. Ngồi ra ngân hàng cũng có nhiều hoạt
động quan trọng mang tính bổ trợ như quản lý rủi ro, phát triển công nghệ,
marketing…
* Hoạt động phát hành: Hoạt động phát hành của ngân hàng bao gồm
việc triển khai và quản lý toàn bộ quá trình đưa thẻ ra thị trường, sử dụng thẻ
và thu nợ chủ thẻ. Về cơ bản hoạt động phát hành thẻ gồm các nội dung chính
sau đây:


16
Xây dựng các qui định về việc sử dụng phát hành, sử dụng thẻ và thu
hồi nợ như hồ sơ phát hành, hạn mức rút tiền, thanh toán, chuyển khoản, số
tiền thanh toán tối thiểu, ngày sao kê, thời gian ân hạn, các loại phí, lãi, hạn
mức tín dụng tối đa, các chính sách ưu đãi đối với chủ thẻ…
Thẩm định khách hàng phát hành thẻ, cấp hạn mức thanh toán
Thiết kế và tổ chức mua thẻ trắng, in và mã hố, tạo mã PIN cho khách
hàng.
Quản lý thơng tin khách hàng và hoạt động sử dụng thẻ của khách
hàng.
Quản lý tình hình thu nợ khách hàng
Cung cấp dịch vụ khách hàng
Tổ chức thanh toán với ngân hàng thanh toán và các tổ chức thẻ quốc
tế.
Với hoạt động phát hành thẻ, ngồi việc hưởng phí phát hành thu được
từ chủ thẻ, ngân hàng phát hành cịn được hưởng khoản phí do ngân hàng
thanh tốn chia sẻ từ phí thanh tốn, được lợi từ nguồn tiền gửi vãng lai…
Đây là phần lợi nhuận cơ bản của các tổ chức tài chính, ngân hàng phát hành
thẻ. Trên cơ sở nguồn thu này, các tổ chức tài chính, ngân hàng phát hành thẻ
đưa ra được những chế độ miễn lãi và ưu đãi khác cho khách hàng nhằm thu
hút khách hàng cũng như khuyến khích chi tiêu thẻ.

* Hoạt động thanh tốn: Cùng với hoạt động phát hành, hoạt động
thanh tốn thẻ đóng vai trò quyết định đến sự phát triển dịch vụ thẻ. Hoạt
động thanh toán của ngân hàng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin ĐVCNT
- Quản lý hoạt động của mạng lưới ĐVCNT
- Tổ chức thanh toán các giao dịch sử dụng thẻ cho các ĐVCNT
- Cung cấp dịch vụ khách hàng
- Tổ chức tập huấn kiến thức thanh toán thẻ cho nhân viên các ĐVCNT
- Cung cấp trang thiết bị, vật tư phục vụ cho cơng tác thanh tốn thẻ.


17
Việc triển khai hoạt động thanh toán thẻ giúp ngân hàng thu lợi nhuận
từ nguồn phí tính trên giá trị giao dịch thanh toán bằng thẻ từ các ĐVCNT,
đồng thời qua đó cung cấp cho khách hàng một dịch vụ tiện ích, tạo cơ sở
thuận lợi cho việc sử dụng thẻ. Một trong những hoạt động quan trọng của
ngân hàng trong lĩnh vực kinh doanh thẻ là mở rộng ĐVCNT, điều này có ý
nghĩa rất quan trọng:
Trước hết, số lượng ĐVCNT lớn, có mặt tại khắp các thị trường và các
ngành hàng kinh doanh đồng nghĩa rằng thẻ ngân hàng được chấp nhận thanh
toán tại nhiều nơi hơn, dễ dàng, thuận tiện hơn và mang lại lợi ích nhiều hơn
cho cả chủ thẻ, các ĐVCNT và sau đó là các ngân hàng phát hành và thanh
tốn thẻ.
Khơng chỉ mở rộng thị trường thanh toán bằng cách bằng cách ký kết
hợp đồng thanh toán với các ĐVCNT mới, một ngân hàng thanh tốn thẻ đặc
biệt quan tâm tới việc duy trì mối quan hệ với các ĐVCNT sẵn có, thể hiện
trong cơng tác chăm sóc khách hàng. Nếu khơng có những chính sách thích
hợp, những dịch vụ hỗ trợ tốt, tạo điều kiện cho các ĐVCNT có thể chấp nhận
thanh tốn thẻ một cách dễ dàng, được ngân hàng báo có đúng cam kết sau
khi đã trừ đi tỷ lệ phí chiết khấu, các ngân hàng khác sẽ tranh thủ cơ hội này

để chào những dịch vụ hoàn hảo hơn tới các ĐVCNT. Như vậy, khách hàng
trong hoạt động thanh toán sẽ giảm đi, mục tiêu thu lợi của các ngân hàng sẽ
bị ảnh hưởng sâu sắc.
Hiện nay hoạt động thanh toán thẻ trên thị trường quốc tế đã phát triển
ở mức độ rất cao với trên hàng trăm nghìn ĐVCNT tại hơn 200 quốc gia,
chấp nhận thẻ mang các thương hiệu nổi tiếng thế giới như Visa, MasterCard,
American Express, Diner Club, JCB và nhiều loại thẻ quốc tế và ngân hàng
nội địa khác. Tại Việt Nam tuy thẻ ngân hàng cịn mới mẻ nhưng đã đáp ứng
nhu cầu thanh tốn của một lượng khách nước ngoài cũng như thị trường nội
địa đang phát triển.


18
* Hoạt động quản lý rủi ro: Hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng
phải đối mặt với nhiều loại rủi ro khác nhau: thẻ giả, thẻ mất cắp, thất lạc, thẻ
bị lợi dụng, giao dịch thanh toán giả mạo…Những rủi ro đó ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi nhuận, uy tín của ngân hàng phát hành thẻ và gây phiền nhiễu cho
chủ thẻ. Chính vì vậy, ngân hàng ln ln quan tâm đặc biệt đến hoạt động
quản lý rủi ro.
Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro mỗi ngân hàng phát hành và thanh
toán thẻ phải thực hiện đầy đủ và đúng như quy trình, chế độ phát hành và
thanh toán thẻ. Các quy định này được các ngân hàng ban hành dựa trên quy
tắc tiêu chuẩn của các tổ chức thẻ quốc tế, qui định của mỗi quốc gia và tình
hình thực tế ở từng ngân hàng. Ngồi ra, khi đã là thành viên chính thức của
các tổ chức thẻ quốc tế, các ngân hàng có điều kiện tham gia vào hệ thống xử
lý, trao đổi thông tin và quản lý rủi ro trên phạm vi tồn cầu thơng qua một hệ
thống mạng trực tuyến hoạt động có hiệu quả. Đó chưa kể đến các chương
trình tập huấn, dịch vụ hỗ trợ, đào tạo nghiệp vụ mà tổ chức thẻ quốc tế thực
hiện đối với các thành viên của mình. Nhưng vấn đề cốt yếu vẫn là ở quan
điểm, nhận thức của từng ngân hàng trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro.

Về phía ngân hàng:
- Tuân thủ các qui định và tham gia chương trình quản lý rủi ro của các
tổ chức thẻ quốc tế.
- Sử dụng các biện pháp kỹ thuật và nghiệp vụ phù hợp để phòng ngừa
rủi ro cho tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình phát hành, sử dụng và
thanh toán thẻ.
- Tuân thủ các qui định về cho vay phát hành thẻ: thế chấp, bảo lãnh
hay cầm cố.
- Thực hiện việc thẩm định khách hàng và ĐVCNT chính xác.
- Thành lập trung tâm cấp phép cho chủ thẻ và ĐVCNT.
- Cập nhật danh sách thẻ đen do các tổ chức thẻ quốc tế cung cấp.


19
- Phối hợp với các cơ quan pháp luật trong nước và quốc tế trong phòng
chống tội phạm giả mạo thẻ.
Về phía chủ thẻ:
- Tuân thủ các qui định trong hợp đồng sử dụng thẻ
- Nắm vững cách sử dụng thẻ, lưu hoá đơn, thanh toán sao kê, thủ tục
khiếu nại, tranh chấp.
- Thực hiện tốt công tác bảo mật, liên hệ với ngân hàng khi có mất mát,
thất lạc thẻ hay thay đổi về địa chỉ liên lạc.
Về phía ĐVCNT:
- Tuân thủ các qui định về chấp nhận, thanh toán thẻ của ngân hàng.
- Nắm vững cách phân biệt thẻ thẻ thật, thẻ giả, cách sử dụng danh sách
thẻ cấm lưu hành, thủ tục thanh toán với ngân hàng.
- Thực hiện quy định về tra soát, khiếu nại, tranh chấp.
- Quản lý, đào tạo đội ngũ nhân viên.
1.1.5. Các tiện ích của dịch vụ thẻ
Trải qua vài thập kỷ hình thành và phát triển, phương thức thanh tốn

thẻ đã và đang chứng tỏ ưu việt của mình so với các phương thức tồn tại trước
đó. Các tiện ích mà nó đem lại cho nền kinh tế cũng như các chủ thể tham gia
hoạt động thanh toán thẻ là một yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển
của loại hình thanh tốn này trên tồn thế giới.
Đối với nền kinh tế
Hoạt động giao dịch dùng tiền mặt và trao đổi hàng hoá chiếm phần
đáng kể trong hầu hết các nền kinh tế, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Dù
được gọi bằng bất kỳ tên nào như thành phần kinh tế khơng chính thức, thị
trường chợ đen hay nền kinh tế trong bóng tối thì việc phụ thuộc vào thanh
toán tiền mặt sẽ tạo điều kiện cho các giao dịch trở thành hoạt động ngoài
luồng của nền kinh tế chính thống. Bằng việc khuyến khích hệ thống thanh
toán điện tử phát triển mà cốt lõi là thanh tốn thẻ, các chính phủ có thể giảm
được khối lượng tiền mặt trong lưu thông, làm cho thương mại minh bạch


20
hơn, tăng doanh thu từ thuế, thực hiện biện pháp kích cầu, cải thiện mơi
trường văn minh thương mại, thu hút khách du lịch và đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Đối với chủ thẻ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế các phương thức thanh toán phi
tiền mặt như séc, ngân phiếu…ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các
giao dịch kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Tuy nhiên, các phương tiện
thanh toán này mới chỉ giới hạn trong các giao dịch kinh tế, ít được phổ biến
trong sinh hoạt của đại bộ phận dân cư. Sự ra đời của thẻ ngân hàng chính là
đáp ứng nhu cầu giao dịch đơn lẻ của các cá nhân nhằm từng bước thay thế
tiền mặt trong giao dịch của xã hội. Như vậy có thể nói chủ thẻ chính là người
hưởng lợi trực tiếp nhất trong hoạt động thanh toán thẻ. Các tiện ích mà hoạt
động thanh tốn thẻ đem lại cho chủ thẻ như:
Sự linh hoạt: Với nhiều loại đa dạng, phong phú, thẻ thích hợp với mọi

đối tượng khách hàng, từ những khách hàng có thu nhập thấp (thẻ thường)
cho tới những khách hàng có thu nhập cao (thẻ vàng), khách hàng có nhu cầu
rút tiền mặt (thẻ rút tiền mặt), cho tới nhu cầu du lịch giải trí, thẻ cung cấp
cho khách hàng độ thoả dụng tối đa, thoả mãn nhu cầu của mọi đối tượng
khách hàng.
Sự tiện lợi: Là một phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt, thẻ
cung cấp cho khách hàng sự tiện lợi mà khơng một phương tiện thanh tốn
nào có thể mang lại được. Đặc biệt đối với những người đi công tác nước
ngồi hay đi du lịch nước ngồi thì thẻ có thể giúp họ thanh toán ở bất cứ nơi
nào mà không cần phải mang theo tiền mặt hay séc du lịch, không phụ thuộc
vào khối lượng tiền họ cần thanh toán. Thẻ được coi là phương tiện thanh
toán ưu việt nhất trong số các phương tiện thanh toán phục vụ tiêu dùng.
Sự an tồn và nhanh chóng: Chủ thẻ có thể hồn tồn n tâm về số
tiền của mình trước nguy cơ bị mất cắp. Thâm chí, dù thẻ có thể bị lấy cắp,



×