Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trên địa bàn huyện triệu phong, tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.55 KB, 42 trang )

A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề án:
Quyền con người là giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt, nó hiện hữu
trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự và
trong quá trình thực hiện tố tụng hình sự quyền con người được thể hiện rõ nét,
đặc biệt trong đó quyền của bị can, bị cáo. Quyền của bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ những ngày đầu giành
được nền độc lập dân tộc và luôn được xác định như một u cầu có tính
ngun tắc của nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp của dân, do dân và vì dân.
Cùng với các giai đoạn cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề đảm
bảo quyền của bị can, bị cáo ở nước ta đã và đang từng bước được củng cố về
mặt lý luận và tôn trọng trong hoạt động thực tiễn nên đã trở thành một trong
những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá về sự cơng bằng, dân chủ và bình
đẳng trong xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện đẩy mạnh cải cách hoạt động bộ
máy Nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng, Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm đến việc quy định và bảo đảm quyền con người, trong đó có
quyền của bị can, bị cáo.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Địi hỏi của cơng dân và
xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật
sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng
thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa,
đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm”. Trong văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong
sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Văn
kiện Đại hội XII của Đảng vẫn khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện
Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà


nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
1


Sâu rộng hơn, phát triển với hội nhập quốc tế, Hiến pháp năm 2013 của
nước ta đã có nhiều quy định mới về quyền con người và bảo đảm quyền con
người, trong đó có các quyền của bị can, bị cáo.
Luật tố tụng hình sự, đạo luật có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống
xã hội, quyết định hiệu quả cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, đồng
thời liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của con người, của công
dân. Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên quan
rất chặt chẽ với quyền con người, trong đó có quyền của bị can, bị cáo. Các
biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất, chính điều này
quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo có nguy cơ
dễ bị xâm hại nhất. Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong những năm
qua cho thấy mặc dù pháp luật đã quy định khá chặt chẽ và tương đối đầy đủ
nhưng quyền của bị can, bị cáo chưa được triệt để tơn trọng, tình trạng vi phạm
các quyền của bị can, bị cáo còn xảy ra nhiều.Những vi phạm đó do nhiều
nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức,
thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của
Nhà nước, cơ quan, người tiến hành tố tụng đối với cơng dân... Vì vậy, có thể
nói nghiên cứu việc bảo đảm quyền con của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong
việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói
chung, trong cơng cuộc cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta. Viện kiểm sát
nhân dân huyện Triệu Phong cũng như Viện kiểm sát các địa phương khác
trong cả nước thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, không ngừng vươn lên
trong hoạt động kiểm sát, thực hiện theo tinh thần cải cách tư pháp chung, đồng
thời cụ thể hoá trong hoạt động kiểm sát, nhằm bảo đảm Viện kiểm sát giữ
vững công lý, đảm bảo công bằng xã hội, không làm oan người vô tội, không

bỏ lọt tội phạm, bảo đảm trong giải quyết án hình sự phải quyết định truy tố
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Có như thế, quyền con người mới được
đảm bảo và thể hiện được sự bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề bảo
đảm quyền của bị can, bị cao trong tố tụng hình sự là nội dung cịn khá mới mẻ
trong nhận thức của công dân, cũng như việc tổ chức và đảm bảo thực hiện đầy
đủ các quyền con người của bị can, bị cáo trên thực tế, đó là vấn đề khá phức
2


tạp cần phải được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện cả về lý luận lẫn
thực tiễn để góp phần vào việc đảm bảo cho quyền con người trong hoạt động
tố tụng hình sự. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, em chọn đề tài “Bảo đảm
quyền con người của bị can, bị cáo trên địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị”để thực hiện Đề án tốt nghiệp Cao cấp Lý luận chính trị.
2. Mục đích của đề án:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận bảo đảm quyền con người của bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định
pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự, làm sáng tỏ những bất
cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền
con người của bị can, bị cáo .
1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề án:
3.1. Đối tượng:
- Những vấn đề lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người
của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự;
- Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến bảo đảm quyền
con người của bị can, bị cáo trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự;
- Thực trạng đảm bảo quyền con người trong hoạt động tố tụng tại huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Kiến nghị những giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người

của bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Phạm vi của đề án:
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Thực tiễn tố tụng hình sự trên địa bàn huyện Triệu Phong từ năm 2012
đến năm 2015.(Tập trung chủ yếu vào nội dung bảo đảm quyền con người của
bị can, bị cáo trong mối liên hệ với các chế định khác của tố tụng hình sự).
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề án:
4.1. Ý nghĩa khoa học:
Góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm của Đảng về vấn đề bảo
đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự nước ta. Làm rõ
3


hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền con người của bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự ở cấp huyện. Đưa ra các giải pháp và kiến nghị tăng
cường bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự trên
địa bàn huyện Triệu Phong.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Góp một phần khiêm tốn trong việc giải quyết về mặt khoa học, một nội
dung cấp thiết hiện nay ở nước ta là vấn đề bảo đảm cho các quyền con người
của bị can, bị cáo được thực thi trong cuộc sống. Là một tài liệu tham khảo có
giá trị trong hoạt động lập pháp tố tụng hình sự, trong thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử cũng như trong học tập, nghiên cứu về tố tụng hình sự.

4


B - PHẦN NỘI DUNG:
1. CƠ SỞ KHOA HỌC, CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO.
1.1. Cơ sở khoa học đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo
1.1.1.Quan niệm về quyền con người và đảm bảo quyền con người
Con người là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên quyền con
người luôn luôn trở thành nội dung quan trọng thu hút được sự quan tâm cả về
phương diện lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của
từng khu vực và mang tính tồn cầu.
Quan niệm về quyền con người đã được các nhà tư tưởng từ thời cổ đại
đặt ra và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát triển
của lịch sử nhân loại. Quyền con người trước hết được hiểu là những đặc quyền
tự nhiên mà con người có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách nhiệm
nhất là tự bảo vệ nhưng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên) chưa phải là
quyền con người, mà để đạt đến cái gọi là “quyền” thì phải có yếu tố thứ hai là
pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân mới
trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật mới trở thành quyền con người.
Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, chủ nghĩa
Mác đã xác định: “con người là “con người xã hội”, bản chất của con người
trong tính hiện thực của nó là sự “tổng hồ các quan hệ xã hội”, cho nên quyền
con người thể hiện sâu sắc giá trị các quan hệ xã hội và hiển nhiên mang bản
chất đó.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này, khoa học pháp lý đã
chia quyền con người theo các lĩnh vực hoạt động của đời sống con người
thành các nhóm:
- Nhóm các quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm:Quyền bầu cử,
ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền bình đẳng
nam nữ; quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí; quyền được thơng tin; quyền tự
do tín ngưỡng.
- Nhóm quyền về dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: Quyền tự do đi
lại và cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền
5



bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được
an tồn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện báo, quyền khiếu nại, tố cáo ...
- Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, bao gồm: Quyền lao động; quyền
tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp về thừa kế; quyền học tập;quyền
nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền được bảo vệ sức khoẻ; quyền được bảo
vệ hơn nhân và gia đình; quyền trẻ em; quyền người già ..vv.
1.1.2. Vấn đề đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo
1.1.2.1. Các đặc điểm của bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là quy định trình tự, thủ tục của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan Nhà
nước khác và các tổ chức xã hội để giải quyết vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự. Hay nói cách khác, tố tụng hình sự là hoạt động khởi
tố, điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, hoạt động truy tố người phạm
tội ra trước tòa án của Viện kiểm sát, hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa
án và hoạt động thi hành bản án, quyết định bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tịa án. Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra và Điều tra viên,
Viện kiểm sát và Kiểm sát viên, Tòa án và Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm;
nhưng tham gia vào q trình tố tụng hình sự cịn những người tham gia tố tụng
khác mà quyền và lợi ích của họ có liên quan đến vụ án hoặc đến q trình tố
tụng như người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
làm chứng v.v…Như vậy, từ góc độ bảo đảm quyền con người, hoạt động tố
tụng hình sự có những đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, hoạt động tố tụng hình sự chỉ phát sinh khi có hành vi nguy
hiểm cho xã hội được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm được thực hiện. Khi
một hành vi nguy hiểm được thực hiện có dấu hiệu của tội phạm thì vụ án phải

được khởi tố để iều tra. Trừ các trường hợp quy định tại điều 107 Bộ luật tố
tụng hình sự thì khơng được khởi tố vụ án hình sự.
- Thứ hai, một người chỉ có thể bị khởi tố bị can khi xác định được rằng
họ đã thực hiện hành vi có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định tại điều 8
6


Bộ luật hình sự và hành vi đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
quy định tại điều 23 Bộ luật hình sự. Xuất phát từ bản chất pháp lý của hoạt
động tố tụng mà căn cứ khởi tốvụ án hình sự, khởi tố bị can khác nhau. Theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì căn cứ khởi tố vụ án hình sự khi đã xác
định “có dấu hiệu của tội phạm” ;quyết định khởi tố vụ án hình sự chưa hướng
sự buộc tội vào người cụ thể nào, mà chỉ tạo cơ sở pháp lý để tiến hành các
biện pháp điều tra theo luật tố tụng hình sự. Cịn căn cứ khởi tố bị can phải là
“có đầy đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm”. Bởi vì, khi người tiến hành tố
tụng ra quyết định khởi tố bị can là đã thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với một người cụ thể; quyết định đó ảnh hưởng rất lớn đến quyền, lợi ích
của người bị khởi tố.
- Thứ ba, tố tụng hình sự là hoạt động phát hiện và xử lý hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm nhằm bảo vệ trật tự
pháp luật, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Vì vậy,
hoạt động tố tụng gắn liền chặt chẽ với quyền con người.
Để đạt được mục đích phát hiện, điều tra, xử lý chính xác, khách quan tội
phạm và người phạm tội, Nhà nước bất đắc dĩ phải ban hành một số quy định
hạn chế quyền con người của cơng dân nói chung, người tham gia tố tụng nói
riêng. Quyền con người trong tố tụng hình sự gắn rất chặt chẽ với các biện
pháp cưỡng chế được quy định và áp dụng trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên,
các hạn chế, các biện pháp cưỡng chế cần được quy định và thực hiện chỉ ở
mức độ cần và đủ để phát hiện, xử lý tội phạm, người phạm tội mà không ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền con người. Điều đó có nghĩa rằng:

a/ Biện phápcưỡng chế tố tụng liên quan đến quyền con người được quy
định hoặc thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết mà thiếu nó cơ quan, người
tiến hành tố tụng khơng thể hồn thành việc xác định sự thật khách quan của vụ
án, ngăn chặn tội phạm.
b/ Đồng thời, khi biện pháp cưỡng chế tố tụng đã được áp dụng trở nên
khơng cần thiết nữa thì cần phải được hủy bỏ. Không nhất thiết là nếu bị can đã
bị tạm giam trong giai đoạn điều tra thì tất yếu là phải được tiếp tục tạm giam
trong giai đoạn truy tố hoặc xét xử. Ví dụ: bị can bị tạm giam do có căn cứ nếu
khơng áp dụng tạm giam bị can sẽ gây khó khăn cho việc điều tra (thông cung,
7


khống chế người làm chứng, bỏ trốn…), khi việc điều tra đã hoàn thành, tội
phạm đã được chứng minh đầy đủ, khách quan, người phạm tội khai báo thành
khẩn, cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy có thể thay đổi biện pháp tạm giam đã
áp dụng. Để làm được điều này, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, những
người tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra tính có căn cứ, sự cần thiết
của những biện pháp đã áp dụng (Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự 2003). Đây là
một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong tố tụng hình sự để bảo đảm
quyền con người.
c/ Các biện pháp cưỡng chế tố tụng hạn chế quyền con người cần được
áp dụng ở mức “cần thiết” để đạt được mục đích đặt ra. Việc lạm dụng áp dụng
biện pháp cưỡng chế tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng là một trong những biểu hiện phổ biến của vi phạm quyền con người
trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta. Việc xác định mức độ cần thiết của
các biện pháp tố tụng được thực hiện thường xuất phát từ thực tế hành vi phạm
tội được thực hiện, nhân thân đối tượng được áp dụng cũng như căn cứ áp dụng
biện pháp đó.
- Thứ tư, việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự được thực
hiện thông qua các biện pháp khác nhau, nhưng tập trung ở biện pháp xây dựng và

hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng như thực hiện nghiêm
chỉnh các quy định đó trongthực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự và thi
hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án. Phải nói rằng, tuyệt đại
đa số các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự ở mức độ này hay mức độ khác
đều đã thể hiện quan điểm bảo đảm quyền con người của Nhà nước ta trong hoạt
động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quan điểm bảo đảm quyền con người được thể
hiện tập trung, đầy đủ trong các chế định tố tụng: Chế định nhiệm vụ của Bộ luật
tố tụng hình sự; Chế định về những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; Chế
định về cơ quan và người tiến hành tố tụng, chế định người tham gia tố tụng; Chế
định về các biện pháp ngăn chặn; Các quy định về các biện pháp tố tụng, các thủ
tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; Chế định về khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự; Quy định về chế tài tố tụng đối với việc vi phạm tố tụng
liên quan đến việc bảo đảm quyền con người.

8


1.1.2.2. Bị can, bị cáo và bảo đảm quyền con người của các chủ thể này
trong tố tụng hình sự
Bị can, bị cáo là những người tham gia tố tụng có vị trí trung tâm trong
q trình giải quyết vụ án hình sự. Họ là người bị cơ quan tiến hành tố tụng coi
là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật hình sự quy
định là tội phạm; tùy theo giai đoạn tố tụng khác nhau mà tên gọi cũng như địa
vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ tố tụng hình sự) của người đó cũng khác nhau.
* Bị can: Thuật ngữ bị can được sử dụng trong luật tố tụng hình sự từ
những văn bản tố tụng đầu tiên của nước ta. Khái niệm pháp lý về bị can được
quy định lần đầu trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (Điều 34)và được sử
dụng lại nguyên văn trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Theo Điều 49 Bộ
luật tố tụng hình sự, bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị can là người
mà Cơ quan điều tra có đủ căn cứ xác định rằng đã thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm nên đã ra quyết
định khởi tố bị can. Kể từ thời điểm quyết định khởi tố bị can, tức Nhà nước
thể hiện sự buộc tội đối với con người cụ thể, bị can là người chính thức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Đây là điểm khác biệt rất lớn giữa bị can
và người bị tạm giữ liên quan đến việc bảo đảm quyền con người của họ trong
tố tụng hình sự. Từ góc độ áp dụng các biện pháp cưỡng chế, là người đã bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, bị can có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế
tố tụng nghiêm khắc hơn so với người bị tạm giữ hoặc người tham gia tố tụng
khác. Bị can có thể bị tạm giam (chứ khơng phải là tạm giữ) và các biện pháp
ngăn chặn khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm; bị can có thể bị kê biên tài sản, bị truy nã nếu bỏ trốn; bị can
được hỏi cung, chứ không phải là lấy lời khai v.v… Nhìn từ khía cạnh bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, là người đã bị buộc tội vì có căn
cứ xác định là đã thực hiện tội phạm, bị can là người dễ có nguy cơ bị xâm
phạm các quyền tự do dân chủ, nhất là quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm… Các xâm
phạm này có thể xuất phát từ cơ quan, người tiến hành tố tụng (như truy bức,
dùng nhục hình trong điều tra…) hoặc từ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân (trả thù
của người bị hại, quyết định tạm đình chỉ cơng tác của cơ quan, tổ chức…). Từ
9


góc độ xác định địa vị tố tụng, do khả năng có thể bị áp dụng , thay đổi biện
pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, do chính thức đã bị truy cứu trách nhiệm hình
sự và hậu quả pháp lý nặng nề phát sinh từ việc truy cứu đó, do khả năng bị
xâm phạm quyền con người cao hơn…, bị can được quy định có nhiều quyền tố
tụng hơn, trách nhiệm tố tụng được nới rộng hơn để làm cơ sở pháp lý cho bị
can bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bác bỏ việc buộc tội hoặc bảo
vệ mình trước khả năng bị xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp trong q
trình tố tụng hình sự giải quyết vụ án hình sự. Ví dụ: là người chính thức đã bị

buộc tội, bị can hồn tồn có quyền tự mình hoặc nhờ người khác sử dụng tất
cả các biện pháp mà Bộ luật hình sự quy định để bào chữa, bác bỏ sự buộc tội
từ phía cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền; là người bị buộc tội, bị can có
quyền sử dụng các biện pháp mà pháp luật không cấm để bảo vệ mình khỏi sự
buộc tội; bị can có quyền khiếu nại với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án về những hành vi tố tụng, quyết định tố tụng trái pháp luật, có quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại do cơ quan, người tiến hành tố tụng gây ra…
* Bị cáo: Theo Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo là người đã bị Tòa
án quyết định đưa ra xét xử. Sau khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra, thấy
rằng có đủ chứng cứ để khẳng định rằng bị can đã phạm tội do Bộ luật hình sự
quy định thì đề nghị Viện kiểm sát truy tố ra trước Tịa án. Viện kiểm sát thấy
có căn cứ pháp lý ra quyết định truy tố chuyển Tịa án xét xử. Trong q trình
chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa thấy rằng có đủ
điều kiện để đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để
điều tra bổ sung, khơng có căn cứ để đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án thì ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ thời điểm này, bị can trở thành bị cáo trong
vụ án hình sự. Cũng như bị can, bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, bị buộc tội. Vì vậy, địa vị pháp lý, tình trạng của bị cáo cũng giống như bị
can; có nghĩa là bị cáo cũng có khả năng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố
tụng do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, có nguy cơ bị xâm phạm các quyền
con người cao, đã có sự buộc tội chính thức nên cần có các quyền tương ứng để
bào chữa, cho nên các biện pháp bảo đảm quyền con người đối với bị can, bị
cáo cơ bản là giống nhau. Tuy nhiên, một điểm khác biệt quan trọng giữa bị
cáo và bị can là bị cáo tham gia tố tụng trong một cơ chế tố tụng hoàn chỉnh,
10


đầy đủ những người tham gia tố tụng, các cơ quan, người tiến hành tố tụng với
chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử; thực hiện các quyền tố tụng của mình
trong phiên tịa cơng khai, dân chủ và bình đẳng. Rõ ràng, so với bị can tham

gia tố tụng (nhất là hỏi cung) trong mơi trường chỉ có người buộc tội, (trường
hợp cá biệt mới có người bào chữa, người chứng kiến), bị cáo tham gia tố tụng
trong phiên tịa cơng khai, khơng chỉ có mặt những người tham gia tố tụng, mà
cịn có sự chứng kiến của cơng chúng. Trong quá trình xét xử, người tiến hành
tố tụng khó có khả năng sử dụng các biện pháp trái pháp luật, vi phạm quyền
con người của bị cáo (như đe doạ bức cung, dùng nhục hình, mua chuộc nhận
tội…); trong khi đó, đối với bị can thì tình trạng này dễ xảy ra hơn. Không
ngẫu nhiên mà nhiều luật sư bào chữa bức xúc cho rằng trong giai đoạn điều
tra,Cơ quan điều tra thường xuyên gây khó khăn cho người bào chữa tham gia
hỏi cung bị canvà các hoạt động tố tụng khác; trong nhiều phiên tòa, kháng cáo
phúc thẩm, khiếu nại giám đốc thẩm của mình, bị cáo thường tố cáo người tiến
hành tố tụng bức cung, dùng nhục hình để bị cáo nhận tội, gây nên tình trạng
oan sai trong xét xử vụ án hình sự. Và trên thực tế, trong nhiều trường hợp sự
thật đó đã được chứng minh.
Tóm lại, dù ở các mức độ khác nhau nhưng bị can, bị cáo đều chỉ là
những người bị nghi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật hình
sựquy định là tội phạm. Họ là người tham gia tố tụng chiếm vị trí trung tâm
trong tố tụng hình sự; khơng có họ thì khơng thể có tiến trình tố tụng hồn
chỉnh.Đối với họ có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự; các
hoạt động tố tụng hình sự động chạm đến quyền con người của họ nhiều nhất.
Tuy nhiên, vì chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với
họ, cho nên bị can, bị cáo chưa phải là người phạm tội. Vì vậy, từ góc độ bảo
đảm quyền con người, các biện pháp cưỡng chế tố tụng, các hạn chế tố tụng
đối với họ chỉ ở mức cần thiết để đạt được mục đích tố tụng là phát hiện nhanh
chóng, xử lý công minh tội phạm và người phạm tội.
1.1.3. Các nguyên tắc đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm phát hiện kịp thời nhanh
chóng, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, cần tuân thủ các nguyên tắc của luật tố tụng hình
11



sự. Các nguyên tắc này là những tư tưởng chỉ đạo tồn bộ q trình xây dựng
và áp dụng luật tố tụng hình sự,thể hiện quan điểm, đường lối và chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.Các
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự chi phối tồn bộ hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án.Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự bao gồm nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có nguyên tắc bảo vệ
quyền con người. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đã quy định các nguyên
tắc cơ bản về quyền con người sau đây:
- Nguyên tắc thứ nhất:Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân, được quy định tại Điều 4 của của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 “Khi
tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm trong
phạm vi trách nhiệm của mình phải tơn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân, thường xun kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết
của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện
pháp đó,nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn cần thiết nữa”.
Ngun tắc này thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đề cao và
tơn trọng quyền con người, vì lợi ích của con người. Đó là quyền bình đẳng
trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ tính
mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về
chỗ ở, an tồn và bí mật thư tín điện thoại, điện tín. Đây là các quyền cơ bản
của cơng dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp.Bảo đảm sự tôn trọng và bảo
vệ các quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự thể hiện bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn đề cao và tôn trọng các giá trị của con
người, vì lợi ích của con người.
- Nguyên tắc thứ hai:Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật, được quy định tại Điều 5 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 “ Tố
tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp

luật, khơng phân biệt dân tộc,nam, nữ,tín ngưỡng, tơn giáo,thành phần xã hội,
địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”. Trong tố
tụng hình sự, nguyên tắc này được hiểu là: Người nào phạm tội, thì dù họ là ai
cũng phải bị xử lý theo pháp luật hình sự, chứ khơng được xử lý theo kiểu “ xử
12


lý nội bộ”. Việc khởi tố,điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự đều được tiến
hành theo thủ tục, trình tự thống nhất do Bộ luật tố tụng hình sự quy định,
khơng có ngoại lệ vì lý do dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần xã hội,địa
vị xã hội của người bị hại hoặc của bị can,bị cáo. Mọi người tham gia tố tụng
đều được hưởng những quyền và thực hiện những nghĩa vụ tố tụng ngang nhau.
- Nguyên tắc thứ ba:Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
quy định tại Điều 6 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 “ Khơng ai bị bắt,nếu
khơng có quyết định của Tồ án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát,
trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định
của bộ luật này. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình”.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền tự do cá
nhân quan trọng nhất của con người. Vì vậy, việc Bộ luật tố tụng hình sự coi
việc đảm bảo nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố
tụng hình sự, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ
quyền con người nói chung,bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể con
người nói riêng.
- Nguyên tắc thứ tư: Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của công dân, được quy định tại Điều 7 của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003: “Cơng dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản”. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người
làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ
mà bị đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài

sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp
cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối
xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm…”
và Bộ luật tố tụng hình sự coi đó là một ngun tắc quan trọng của tố tụng hình
sự vì tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân phải được
tơn trọng và bảo vệ trong q trình tố tụng.
13


Trong tố tụng hình sự, ngun tắc này khơng cho phép những người tiến
hành tố tụng có những việc làm trái pháp luật như: đánh, thoá mạ bị can, bị cáo
hoặc truy bức, dùng nhục hình đối với họ; khám xét, thu giữ tài sản một cách
trái pháp luật; khám người mà khơng có người cùng giới khám; hành hạ, ngược
đãi phạm nhân ở tại giam; sử dụng vũ khí trái pháp luật trong khi làm nhiệm
vụ, làm chết hoặc gây thương tích cho bị can,bị cáo….vv..
- Nguyên tắc thứ năm:Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an
tồn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân, được quy định tại Điều
8 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 “ Khơng ai được xâm phạm chỗ ở, an
tồn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cơng dân. Việc khám xét chỗ ở,
khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng phải theo
đúng quy định của Bộ luật này”.Về nguyên tắc này cũng đã được khẳng định
tại Điều 22 của Hiến Pháp năm 2013. Bộ luật tố tụng hình sự đã coi việc bảo
đảm quyền này của công dân là một nguyên tắc chỉ đạo hoạt động tố tụng hình
sự vì sinh hoạt tại chỗ ở và trao đổi thư tín là những hoạt động thuộc về đời tư
của công dân cần được tôn trọng.
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm, phát hiện tội phạm, thu thập chứng
cứ….các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có quyền tiến hành khám người,

khám nhà,khám địa điểm, thu giữ tang vật, điện báo…. Song việc tiến hành các
biện pháp này phải theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (Từ Điều
140 đến Điều 149) để ngăn ngừa những việc làm tuỳ tiện của những người tiến
hành tố tụng, xâm phạm quyền tự do của công dân. Việc xâm phạm quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở của công dân như: Khám trái pháp luật chỗ ở của
người khác, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ….đã được Điều
124 Bộ luật hình sự quy định là hành vi phạm tội. Việc xâm phạm bí mật hoặc
an tồn thư tín, điện thoại, điện tín như: chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax
hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thơng và máy vi
tính hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm bí mật hoặc an tồn
thư tín, điện thoại, điện tín của người khác cũng là hành vi phạm tội theo quy
định tại Điều 125 Bộ luật hình sự.
- Ngun tắc thứ sáu: Khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội
của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật,đã được quy định tại Điều 9 của Bộ luật tố
14


tụng hình sự năm 2003 “ Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật”. Đây là nguyên tắc
quan trọng đã được Hiến pháp năm 2013 (Điều 31) phản ánh sự đổi mới trong
tư duy pháp lý, cơ sở khoa học, đảm bảo việc xử lý vụ án được khách quan,
đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trước các cơ quan
tiến hành tố tụng.
- Nguyên tắc thứ bảy: Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, được quy định tại Điều 11 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 “
Người bị tạm giữ, bị can,bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tồ án có nhiệm vụ bảo đảm cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của
Bộ luật này”.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,bị cáo là quyền về tố tụng

mà pháp luật dành cho họ để chống lại việc buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,bị cáo là một
nguyên tắc tố tụng hình sự rất quan trọng đã được Hiến pháp quy định tại Điều
132, thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử được khách quan, toàn diện,
đầy đủ và ngăn ngừa sự phiến diện, chủ quan trong những công tác đó. Ngun
tắc này đã được cụ thể hố trong các điều luật về quyền của người bị tạm giữ,
bị can,bị cáo (các Điều 48, 49,50 của Bộ luật tố tụng hình sự) và về người bào
chữa (các Điều 56,57,58).
- Nguyên tắc thứ tám:Xét xử công khai, được quy định tại điều 18 của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 “Việc xét xử của Toà án được tiến hành cơng khai,
mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định”.
Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước, thuần phong mỹ tục
của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo u cầu chính đáng của họ
thì Tồ án xét xử kín, nhưng phải tun án cơng khai.
Ngun tắc xét xử công khai đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tồ án
có hiệu quả trong giáo dục xã hội, thu hút mọi hoạt động trong xã hội tham gia
phòng ngừa và đấu tranh tội phạm; đồng thời tạo điều kiện để nhân dân giám
sát hoạt động của cơ quan xét xử, có tác dụng nâng cao trách nhiệm của Toà án
15


trước nhân dân.Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp
luật quốc tế. “ Mọi người đều được hưởng quyền bình đẳng, được xét xử cơng
bằng và cơng khai bởi một Tồ án độc lập và không thiên vị trong việc quyết
định các quyền và nghĩa vụ của họ cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với
họ”. Ngun tắc cơng khai ngồi việc tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân
tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan xét xử, cịn tác dụng nâng cao
trách nhiệm của Tồ án trong đấu tranh, phòng chống tội phạm và bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức,cơng dân cũng như quyền và

lợi ích hợp pháp của bị can,bị cáo, đảm bảo không để lọt tội phạm, không làm
oan người vơ tội. Cơng khai, dân chủ hố các hoạt động tố tụng hình sự cũng là
một trong các phương tiện hữu hiệu bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo nói riêng.
- Ngun tắc thứ chín:Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tồ án, được quy
định tại Điều 19 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 “Kiểm sát viên, bị cáo,
người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự,bị đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tồ án.
Tồ án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm
rõ sự thật khách quan của vụ án”.Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong
việc làm sáng tỏ vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ,bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân, của bị cáo, người
bị hại….Thực hiện đúng nguyên tắc này, chúng ta sẽ tránh được tình trạng “
Hợp pháp hố một chủ trương xét xử đã được dự kiến trước”. Nguyên tắc này
còn khẳng đinh vị trí của Viện kiểm sát là người cơng minh giữa bên buộc tội
và bên gỡ tội.
1.2. Cơ sở pháp lý đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo
1.2.1. Quyền con người theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng… là
những quyền cơ bản của con người. Quyền con người là thành quả phát triển
của lịch sử lâu dài sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo
thiên nhiên của cả nhân loại. Trong một thế giới đang tồn cầu hố hiện nay,
16


quyền con người ở mỗi quốc gia, khơng kể hồn cảnh lịch sử, chế độ chính trị xã hội, kinh tế và văn hố đều có những giá trị chung giống nhau, không thể
chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau, đó là tính phổ cập của quyền con người. Tuy
nhiên, quyền con người cịn mang tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh

khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hố và tơn giáo. Chính từ những đặc điểm
này mà trên thế giới tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người.
Quan điểm về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta dựa trên nền
tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống
văn hố dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu chuẩn về quyền con người
được thế giới thừa nhận rộng rãi. Xuất phát từ những quan điểm đó:
Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI của Đảng đặt ra nhiệm
vụ:“Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó
đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng
hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người”.Văn kiện Đại hội XII của Đảng vẫn khẳng định: “Tiếp tục
đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ
pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
cá nhân.
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong q trình xây dựng và
hồn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, được Đảng và
Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, trong đó đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp. Tiếp đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó
xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị“Về chiến lược cải
cách tư pháp” khẳng định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư
pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu
17



bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và vi phạm”.Ngoài ra quyền con người quy định trong Luật trách
nhiệm bồi thường của nhà nước về bồi thường thiệt hại cho cá nhân do người
người thi hành công vụ trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người được cụ thể
hóa trong Hiến pháp năm 2013:
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội (khóa XIII) thơng qua tại kỳ họp thứ
6, gồm 11 chương, 120 Điều có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, giảm 01 chương và
27 điều so với Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên trong Hiến pháp năm 1992 có 34
Điều nói về quyền con người, quyền cơng dân thì Hiến pháp năm 2013 có đến 36
Điều nói về quyền con người, quyền cơng dân. Hiến pháp năm 2013 đã quy định
bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa
của con người. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân được tại chương V thì ở Hiến pháp năm 2013 chương về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương II, chỉ xếp sau chương
về chế độ chính trị. Đây khơng phải là sự ngẫu nhiên hoặc cơ học mà đây là một
điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con người trong Hiến pháp. Hiến
pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của
Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân; thể
hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
Tại Điều 14 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng". So với Hiến pháp
năm 1992 thì Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền con người, quyền công
dân chỉ sẽ hạn chế trong một số trường hợp nhất định, tránh tình trạng xâm
phạm quyền con người, quyền công dân.

So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 thay cụm từ "mọi
công dân" thành "mọi người", cụ thể tại Điều 16 quy định "Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật. Khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân
18


sự, kinh tế, văn hóa, xã hội". Bổ sung thêm quy định: "Mọi người có quyền
sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Khơng ai bị tước đoạt tính
mạng trái pháp luật" tại Điều 19 Hiến pháp sửa đổi năm 2013.
Tại khoản 3 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có
quyền hiến mơ, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc
thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào
khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm”, đây là
điểm mới so với Hiến pháp năm 1992, thể hiện được quyền hiến mô, bộ phận
cơ thể người và hiến xác của mọi người để chữa bệnh cho người thân, cũng như
đề cao vai trò của bộ phận cơ thể người phục vụ cho việc nghiên cứu, chữa
bệnh trong y học hiện nay.
Ngoài một số nội dung cơ bản trên, Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân đã quy định rõ ràng, cụ thể và bổ
sung đầy đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992 như gộp các Điều 65, 66, 67 và bổ
sung thêm một số nội dung thành Điều 37 Hiến pháp năm 2013; tách Điều 53
Hiến pháp năm 1992 quy định về cơng dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước
trưng cầu ý dân thành Điều 29 Hiến pháp năm 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi
trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”…
Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng
theo hướng ghi nhận mọi người có quyền, cơng dân có quyền và quyền con
người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng cũng có quyền đó; quyền cơng dân là
quyền của người có quốc tịch Việt Nam… Để mọi người, cơng dân thực hiện
quyền của mình thì Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước là
phải ban hành văn bản pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và

công dân thực hiện đầy đủ các quyền của mình.
Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân là sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong Hiến pháp năm 1946, đồng thời, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối,
quan điểm của Đảng và nhà nước ta về quyền con người, coi con người là chủ
thể, là động lực quan trọng của sự phát triển đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nhằm hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
19


Quyền con người còn được quy định trong các văn bản pháp luật
khác...Bộ luật hình sự, Luật bồi thường trách nhiệm nhà nước...
1.3. Cơ sở thực tiễn đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo
Triệu Phong nằm phía Đơng - Nam Quảng Trị, là địa bàn có nhiều tuyến
giao thông quan trọng đi qua: Quốc lộ 1A;  Tỉnh lộ 580 nối từ Quốc lộ 1A đến
Cảng Cửa Việt; Tỉnh Lộ 581 nối từ QL1A qua Thị xã Quảng Trị đi qua hai xã
phía nam Huyện, đến huyện Hải Lăng và đến giáp Thừa Thiên Huế. Diện tích
tự nhiên 353,04 km2, bao gồm 18 xã và một thị trấn. Dân số 107.817 người
(tính đến 31/12/2009), chiếm khoảng 16,8% dân số của cả tỉnh Quảng Trị. Thị
trấn Ái Tử là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hố - xã hội của huyện, cách
thành phố Đông Hà 7 km về phía Nam, thị xã Quảng Trị 6 km về phía Bắc.
Ở vị trí nói trên, Triệu Phong có điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế,
văn hoá, xã hội với các địa phương trong và ngồi tỉnh thơng qua tuyến đường
hành lang kinh tế Đông Tây, tuy nhiên bên cạnh đó tình hình an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong được thành lập năm 1989, là
đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị. Tính đến thời điểm
hiện tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong có 11 biên chế trong đó
Kiểm sát viên 05 người số còn lại là cán bộ, chuyên viên mới ra trường. Mặc

dù số lượng Kiểm sát viên chưa đáp ứng với số lượng công việc nhưng với sự
nổ lực của tồn đơn vị trong những năm qua ln hồn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, không oan sai. Cụ thể
kết quả như sau:
1.3.1. Đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo trong áp dụng biện
pháp ngăn chặn
*Số liệu năm 2012:
-Tổng số người bị tạm giữ : 25 người. Trong đó bắt khẩn cấp 18 người,
quả tang 07 người.
Xử lý: Khởi tố chuyển tạm giam 20 người. Khởi tố áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác: 5 người.
-Tổng số người bị tạm giam: 45 người, Trong đó từ tạm giữ chuyển tạm
giam 20người, bắt bị can để tạm giam 25 người.
20



×