Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghiên cứu tình hình sử dụng các dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại 3 xã ia khươl ia phí hồ phú huyện chưpăh tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.46 KB, 72 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta có những bước
phát triển mạnh mẽ, đã làm thay đổi chất lượng cung cấp và lựa chọn các dịch
vụ y tế. Nhà nước đã có chủ trương đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch
vụ y tế. Bên cạnh hệ thống y tế của Nhà nước, khu vực khám y tế tư nhân đã
và đang tham gia cung cấp nhiều dịch vụ y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức
khoẻ nhân dân. Nhờ vậy người dân có thể lựa chọn dịch vụ theo nhu cầu, họ
có thể đến thẳng bệnh viện tuyến tỉnh, thậm chí tuyến trung ương hoặc y tế tư
nhân để khám chữa bệnh, mà không cần sự giới thiệu của tuyến dưới.
Trong những năm qua, hệ thống y tế nước ta đã được kiện toàn mạng
lưới tổ chức từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo thực hiện công bằng
trong khám chữa bệnh cho đối tượng nghèo, trẻ em và nhân dân vùng sâu,
vùng xa, đã góp phần đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân về chăm sóc sức
khỏe và thực hiện công bằng trong khám chữa bệnh. Tuy nhiên một vấn đề
đặt ra là phải tìm được sự thống nhất hài hòa giữa nhu cầu KCB của người
dân và khả năng cung cấp dịch vụ CSSK hiện nay. Trong khi nhiều Trạm y tế
(TYT) cơ sở phường, xã, thị trấn, Nhà nước đã đầu tư xây dựng khang trang
nhưng tình hình KCB vẫn khơng khả quan, tỷ lệ người dân đến KCB tại TYT
phường xã còn quá thấp. Trong khi đó tại các cơ sở y tế (CSYT) tuyến trên,
thì số người đến KCB ngày càng đơng, gây quá tải.
Theo nghị định Chính phủ số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/09/2004, mơ
hình tổ chức của Trung tâm y tế dự phịng huyện và bệnh viện đa khoa huyện
là nơi khám chữa bệnh cơ bản phục vụ nhân dân, đồng thời hỗ trợ trực tiếp
chuyên môn tuyến cơ sở xã phường, thị trấn. Củng cố kiện toàn mạng lưới y
tế tuyến huyện, không những nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tại chỗ mà
cịn hỗ trợ cơng tác chăm sóc sức khỏe ban đầu tại cộng đồng [13].
Từ khi đổi mới cho đến nay, cùng với phát triển kinh tế – xã hội, nhiều
lĩnh vực trong y tế có sự thay đổi đáng kể. Một trong những thay đổi đó là



1


2
người dân phải chi trả chi phí dịch vụ y tế theo hai hình thức thơng qua bảo
hiểm y tế, một hình thức khác là miễn phí một số đối tượng đực biệt như là.
Trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo ... Bên cạnh đó y tế tư nhân được phép hoạt
động cạnh tranh với y tế Nhà nước [11Ư, [13] và người thầy thuốc khơng cịn
là người hồn tồn ra quyết định nơi khám chữa bệnh cho người bệnh nữa mà
bệnh nhân có quyền quyết định
Cùng với sự thay đổi trên, rất nhiều chính sách y tế ra đời nhằm đáp
ứng yêu cầu chăm sóc sức khoẻ ngày càng cao của người dân. Hiện nay hệ
thống y tế cơ sở được mở rộng phạm vi bao gồm tuyến huyện xã thơn bản.
Trong đó Trạm y tế xã đóng góp vai trị quan trọng trong chăm sóc sức khoẻ
ban đầu cho người dân. Nhiều chính sách y tế ban hành như. Đưa bác sỹ về
xã, cũng cố hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, tăng cường thuốc trong thiết bị...
những chính sách này đã đóng góp đáng kể trong công tác tăng cường và
củng cố tuyến y tế cơ sở đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân
trong cộng đồng tạo điều kiện cho mọi người dân có thể tiếp cận dịch vụ y tế
nói chung và dịch vụ khám chữa bệnh nói riêng.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về việc sử dụng dịch vụ y tế của
cộng đồng, nhưng tại 3 xã Ia Khươl, IaPhí, Hồ Phú - Chư Păh thì chưa có
cơng trình nào.
Cùng với nhiều thông tin từ cộng đồng, thông tin về tình hình sử dụng
dịch vụ y tế là rất cần thiết cho các nhà quản lý y tế.
Xuất phát từ nhu cầu trên, chúng tôi tiến hành đề tài " Nghiên cứu tình
hình sử dụng các dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại 3 xã Ia Khươl,
Ia Phí, Hồ Phú, huyện Chưpăh, tỉnh Gia Lai " với mục tiêu sau
1. Xác định tỷ lệ sử dụng các dịch vụ khám chữa bệnh của người dân

tại 3 xã Ia Khươl, Ia Phí, Hồ Phú, huyện Chưpăh, tỉnh Gia Lai
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến sử dụng dịch vụ khám chữa
bệnh của nhân dân tại 3 xã Ia Khươl, Ia Phí, Hồ Phú, huyện Chưpăh.

2


3
Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. HỆ THỐNG Y TẾ
Hệ thống y tế là một tập hợp các yếu tố có liên quan qua lại nhau.
Chúng góp phần tăng cường sức khoẻ tại nhà, tại các cơ sở giáo dục, tại các
nơi làm việc, tại cộng đồng cũng như trong môi trường tâm lý xã hội: Gồm y
tế và các ngành liên quan [ 26 ].
Hoạt động của hệ thống y tế bao gồm tất cả các hoạt động mà mục đích
cơ bản của nó là nhằm thúc đẩy, khơi phục và duy trì sức khoẻ
Hệ thống y tế được cấu thành từ người sử dụng dịch vụ y tế, người
cung cấp dịch vụ y tế, các ngành, các tổ chức cơ quan tham gia hoặc hổ trợ
dịch vụ y tế trong đó bao gồm cả thể chế chính trị các quan điểm triết học cả
quá trình phát triển kinh tế – văn hoá – xã hội [ 9 ].
Theo tổ chức y tế thế giới (năm 2001), hệ thống y tế có 4 chức năng, đó
là chức năng về tài chính, chức năng tạo ra nguồn lực, chức năng cung cấp
dịch vụ và chức năng quản ly
Mạng lưới y tế khác với hệ thống y tế ở chổ: Mạng lưới y tế là tổ chức
cấu thành của những người cung cấp dịch vụ y tế [ 9 ] .
1.2. DỊCH VỤ Y TẾ
1.2.1. Định nghĩa

Dịch vụ y tế là dịch vụ chỉ tồn bộ các hoạt động chăm sóc sức khoẻ
cho cộng đồng, cho con người mà kết quả là tạo ra các sản phẩm hàng hoá

3


4
khơng tồn tại dưới dạng hình thái vật chất cụ thể, nhằm thoả mãn kịp thời
thuận tiện và có hiệu quả hơn các nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng và
con người v? chăm sóc sức khoẻ [ 7 ], [ 22 ].
1.2.2. Đặc điểm của dịch vụ y tế
Dịch vụ y tế gồm 2 yếu tố: Tiêu thụ và đầu tư, sức khoẻ là kết quả trực
tiếp của việc tiêu thụ phúc lợi đồng thời người lao động có sức khoẻ sẽ đóng
góp cho sản xuất và đầu tư.
Chi phí chăm sóc sức khoẻ có thể cao hơn so với thu nhập, sức khoẻ
kém sẽ giảm khả năng kiếm sống, khi bị bệnh người bệnh thường ít tính toán
khả năng kinh tế mà dồn hết sức để chữa bệnh, thậm chí là cầm cố cả gia tài
để điều trị số khác có riền thường yêu cầu phục vụ rất cao.
Người bệnh trực tiếp tham gia sản xuất cũng như tiêu thụ dịch vụ y tế.
Quyết định dịch vụ y tế có khi khơng hồi phục được (thầy thuốc quyết
định chữa bệnh, cịn bệnh nhân phải trả tiền, có khi phải trả tiền nhưng vẫn bi
đát).
Dịch vụ y tế không hướng tới tự do cạnh tranh.
Sự cạnh tranh và hành phải có tiêu chuẩn và cần có cả uy tín và sự tin
cậy (bệnh nhân nào cũng muốn đến nơi chữa bệnh tốt dù chi phí rất cao).
Maketing của dịch vụ y tế không phải là chữa bệnh. Mục đích của y tế là làm
sao cho dân khoẻ mạnh ít vào bệnh viện, vì vậy maketing chỉ sử dụng cho
phòng bệnh tạo ra sức khoẻ và tăng cường sức khoẻ.
Dịch vụ y tế hoạt động ở bệnh viện không phải bao giờ cũng lãi có khi
lỗ nhưng vẫn phải duy trì lợi ích của xã hội và cộng đồng.


4


5
Đo lường lợi nhuận ở bệnh viện khơng có tiêu chuẩn, khơng rõ ràng, ở
bệnh viện khơng khuyến khích lợi nhuận.
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ y tế
1.2.3.1. Tiếp cận
Tiếp cận y tế là khả năng mà người sử dụng các dịch vụ sức khoẻ cần
có thể được đáp ứng tại nơi cung cấp. Mục đích của dịch vụ y tế là đến với
mọi người cộng đồng, nhằm thoả mãn nhu cầu về sức khoẻ cho con người và
cộng đồng.
Tiếp cận dịch vụ y tế phục vụ thuộc vào 4 nhóm yếu tố sau:
-Nhĩm khoảng cách từ nơi ở đến cơ sở y tế.
-Nhóm yếu tố kinh tế.
-Nhóm yếu tố dịch vụ y tế,
-Nhóm yếu tố về văn hoá.
1.2.3.2. Yếu tố bệnh
Mức độ bệnh sẽ quyết định sự lựa chọn cách thức chữa bệnh của người
dân. Khi đau ốm nhẹ: Cảm cúm, đau bụng, nhức đầu ... thông thường mọi
người đều chung cách thức giải quyết, đó là để tự khỏi hoặc sử dụng các loại
thuốc có sẵn trong nhà hoặc tự ý mua thuốc tự chữa mà khơng có sự can thiệt
của thầy thuốc. Họ chỉ đến các cơ sở y tế khi bệnh khơng khỏi hoặc tiến triển
nặng hơn. Cịn đối với những người có điều kiện khá hơn thì đi khắp tuyến
trên ; đối với những người nghèo thì chọn y tế địa phương.
1.2.3.3. Yếu tố giá cả

5



6
Các trường hợp bệnh nặng, cấp cứu cấp tính nghiêm trọng ảnh hưởng
đến sức khoẻ và tính mạng, thì việc lựa chọn các dịch vụ y tế không phụ
thuộc vào thu nhập. Dù nghèo khó đến mức nào họ cũng sẵn sàng bán cả tài
sản thậm chí là cả nhà cửa, chỉ mong sao người thân của họ được cứu sống.
Thế nhưng các trường hợp nhẹ và vừa thì vấn đề thu nhập và giá cả có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn và sử dụng đến dịch vụ y tế. Lúc này họ
đến các cơ sở y tế thuộc địa bàn họ cư trú để khám chữa bệnh, vì giá cả thấp
hơn hợp lý với thu nhậo của họ.
1.2.3.4. Yếu tố dịch vụ y tế
Thường không được đo lường bằng các biến định lượng mà bằng cách
biến định tính, thể hiện nguyện vọng ý kiến của người dân đối với cơ sở y tế.
Yếu tố dịch vụ y tế bao gồm: Trình độ chun mơn của thầy thuốc,
trang thiết bị và vật liệu y tế.
1.2.3.5. Yếu tố đặc trưng cá nhân.
Nhiều tác giả cho thấy rõ các yếu tố liên quan gần nhất đến việc sử
dụng dịch vụ y tế yếu tố cá thể của con người như: Tuổi, giới, văn hoá, nghề
nghiệp, dân tộc ....
1.3.HỆ THỐNG CUNG CẤP DỊCH VỤ Y TẾ TẠI VIỆT NAM
1.3.1. Theo tổ chức hành nhà nước
Cơ cấu tổ chức của hệ thống cung cấp dịch vụ y tế được chia làm 4 cấp.
-Bệnh viện trung ương, các bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện trường
Đại học trực thuộc Bộ Y Tế: Chức năng chính là thực hiện chun mơn sâu
và kỹ thuật cao.

6


7

-Bệnh viện tuyến Tỉnh: Đây là những cơ sở khám chữa bệnh được trang
bị các phương tiện kỹ thuật tốt, tập trung hầu hết các Bác sỹ có chun mơn
cao.
- Bệnh viện Huyện là nơi cứu chữa cơ bản phục vụ nhân dân, đồng thờ
hỗ trợ trực tiếp cho tuyến xã. Cũng cố tuyến này không những nâng cao chất
lượng cứu chữa cơ bản tại chỗ mà còn hổ trợ cho cơng tác chăm sóc sức khoẻ
ban đầu của tuyến xã, giảm bớt gánh nặng tuyến Tỉnh và Trung ương.
-Trạm y tế xã: Mức thấp nhất trong hệ thống y tế Việt Nam là đơn vị
đầu tiên tiếp xúc với nhân dân nằm trong hệ thống y tế nhà nước, có nhiệm vụ
thực hiện các nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu như thực hiện các chương
trình y tế quốc gia, cung cấp thuốc và điều trị thiết yếu.
1.3.2. Theo thành phần kinh tế
Dựa theo thành phần kinh tế, hệ thống cung cấp dịch vụ y tế được chia
ra là:
-Cơ sở y tế nhà nước.
-Cơ sở y tế tư nhân.
1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ Y TẾ
1.4.1. Các nghiên cứu nước ngồi
Có nhiều nghiên cứu và báo cáo về thực trạng và làm thế nào để cải
thiện hệ thống cung cấp dịch vụ y tế trên thế giới bao gồm các chính sách tài
chính, các yếu tố chất lượng, độ bao phủ dịch vụ và chi phí… Các báo cáo
này đề cập đến cả y tế nhà nước và y tế tư nhân [ 34 ], [ 35 ], [ 36 ], [ 40 ],
[41],

[ 47 ].

7


8

Các nghiên cứu sử dụng dịch vụ y tế trên thế giới đều cho thấy quyết
định của người bệnh đi đâu, làm gì khi bị bệnh phụ thuộc khá nhiều vào tính
sẵn có dịch vụ, chất lượng dịch vụ y tế, giá thành cũng như cấu trúc xã hội
niềm tin về sức khoẻ và các đặc trưng cá nhân của người bệnh cũng như loại
bệnh mức độ bệnh, khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế và khả năng tiếp cận tới
các dịch vụ y tế của người dân [ 40 ], [ 41 ].
Nghiên cứu sử dụng dịch vụ y tế trên thế giới đã được thực hiện ở
nhiều nước như Thuỵ Điển, Mỹ, Anh tư đầu thế kỷ XX.
Một ?i?u tra tại 4 làng c?a Thái Lan với 1755 trường hợp ốm được ghi
chép lại cho thấy có tới 70% tự điều trị khi ốm được khám bởi các cán bộ
chuyên môn [ 3 ].
Một tỷ lệ số người tự điều trị là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lạm
dụng thuốc. Đối với các nước đang phát triển, hiện tượng lạm dụng thuốc
càng xảy ra nghiêm trọng hơn, tình trạng tự mua thuốc điều trị đã trở thành
phổ biến. Một nghiên cứu 25.951 trường hợp ở Andhra Pradesh cho thấy 47%
thuốc ở các hiệu thuốc trong thành phố được bán khơng có chỉ định của thầy
thuốc [ 3 ].
Ở các nước đang phát triển, với nhiều lý do khác nhau, y tế tư nhân đã
được huy động tham gia cung cấp dịch vụ y tế, giảm bớt gánh nặng của y tế
nhà nước, đồng thời đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân.
Ở các nước mới cơng nghiệp hố và các nước khu vực Đông Nam Á do sự
tăng trưởng kinh tế cao, nên mức sống của người dân tăng lên và nhu cầu sử

8


9
dụng dịch vụ y tế cũng tăng nhưng y tế nhà nước chưa đáp ứng đủ. Đối với
một số nước đang trải qua thời kỳ quá độ chuyển từ nền kinh tế hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường nguồn bao cấp của nhà nước. Bị cắt giảm dẫn đến

tình trạng thiếu trang thiết bị y tế,suy giảm tinh thần và thái độ phục vụ trong
đó có Việt Nam. Đây là những yếu tố và lý do dẫn đến sự phát triển của hệ
thống y tế tự nhiên tại các nước này.
1.4.2. Các nghiên cứu trong nước
Ngay từ những năm 1990, ở nước ta đã có những cuộc nghiên cứu về
sử dụng dịch vụ y tế [ 5 ], [ 10 ], [ 18 ], [19 ], [28 ]. Điều này hoàn toàn phù
hợp với yêu cầu đổi mới chính sách y tế. Các nghiên cứu đã đưa ra nhiều mơ
hình sử dụng dịch vụ y tế rất khác nhau tuỳ theo vùng địa lý, theo các đặc
trưng của người ốm và theo mức độ nặng nhẹ của bệnh. Nhìn chung, các
nghiên cứu đều đưa ra kết quả chung là hình thức tự mua thuốc điều trị là cao
nhất với ký do bệnh nhẹ, trạm y tế ở xa. Nơi khám chữa bệnh của người dân
cũng đa dạng: Ở bệnh viện 25,66%, trạm y tế xã: 15,29%, y tế tư nhân
35,46% và tại gia đình 17,36% [ 19 ].
Trong báo cáo của Bộ y tế về nhân lực chăm sóc sức khỏe ban đầu năm
1993 cho thấy sử dụng dịch vụ y tế của cộng đồng là 49,9% tại các cơ sở y tế
tư nhân, trong đó 38,7% khám tại các y tế xã ph??ng [5]. Năm 1998 một
nghiên cứu của Ủy ban kế hoạch nhà nước và Tổng cục thống kê và cách ứng
xử của người dân khi bị bệnh thì thấy người bệnh đến với y tế tư nhân là

9


10
19,47%, y tế nhà nước là 15,05%, tự điều trị là 65,08%. Phổ biến ở những
nhóm có thu nhập thấp, trên 70% người nghèo khơng đến khám chữa bệnh,
trong đó chỉ có 55% số người giàu tự chữa bệnh. Đến với y tế tư nhân có 16%
người nghèo so với 25% người giàu đến với y tế tư nhân [ 19 ].
Cuộc điều tra ở Quảng Ninh về sử dụng dịch vụ y tế cho thấy rằng
35% tự mua thuốc, 31% đến với y tế nhà nước, 22% tự chữa không mua
thuốc, 12% đến với y tế tư nhân [ 19 ].

Theo nghiên cứu của đơn vị chăm sóc sức khoẻ ban đầu – Bộ y tế năm
1994 đến năm 1995 tại Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Long An, Cần Thơ, thì tỷ
lệ người ốm đau tự mua thuốc về nhà mà không qua khám chữa bệnh là phổ
biến. Nơi cao nhất là Long An (47,7%), thấp nhất là Thừa Thiên Huế (28,9%)
[22 ].
Theo một nghiên cứu được tiến hành qua phỏng vấn 1000 hộ gia đình
tai xã Cổ Nhuế huyện Từ Liêm ngoại thành Hà Nội về nơi đến khám chữa
bệnh của người ốm trong vòng 2 tuần (trước khi điều tra): Trạm y tế xã là
26,10%, y tế tư nhan là: 16,44%, bệnh viện 20,76%, mua thuốc tự điều trị là
30,72%, khơng chữa gì là 2,41% [ 1 ].
Trong 2 năm 1997 – 1998 các tác giả Dương Đình Thiện, Phùng Văn
Hồn, Vũ Diễn và cộng sự đã thực hiện đề tài “Các biện pháp nâng cao chất
lượng thông tin y tế tuyến cơ sở” cho thấy: Chỉ có 33,8% tổng số người dân
đau ốm là đến khám tại Trạm y tế [ 23].

10


11
Từ năm 1991 – 1993 trong nghiên cứu “Chất lượng các dịch vụ y tế
cộng đồng và những quyết định của gia đình về chăm sóc sức khoẻ ở 4 xã tại
Quảng Ninh” các tác giả Trương Việt Dũng, Nguyễn Thanh Tâm và cộng sự
đã cho thấy cái cách xử trí của gia đình khi có trường hợp ốm đau: 22% tự
chữa lấy không mua thuốc, 35% mua thuốc tự chữa, 43% có đi khám chữa
bệnh (22% đến cơ sở y tế cộng đồng, 12% đến thầy thuốc tư và 9% đến bệnh
viện tuyến trên) [ 23 ].
Năm 1997, Lữ Ngọc Kính, Nguyễn Thành Trung và cộng sự đã nghiên
cứu đánh giá thực trạng hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở xã Hợp
Tiến - Đồng Hỷ – Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ người ốm đến trạm y tế là
32,8% với ý do người ốm đến khám tại Trạm y tế là gần nhà và tinh thần phục

vụ của cán bộ y tế tốt [ 23 ].
Tác giả Nguyễn Thị Kim Chúc trong cơng trình nghiên cứu về tình
hình sử dụng dịch vụ y tế của người dân Ba Vì năm 1999, cho thấy tỉ lệ ốm
trong vịng 4 tuần là 47,7% tỷ lệ người dân tự điều trị khi ốm từ 62,73% được
phân bố khơng có sự khác biệt lớn giữa các nhóm kinh tế, văn hố và nghề
nghiệp. Các cơ sở y tế tư nhân được sử dụng nhiều hơn, trong khi các trạm y
tế đã được sử dụng với tỷ lệ thấp. Tỷ lệ đến khám chữa bệnh tại bệnh viện cao
hơn ở nhóm tuổi có trình độ học vấn cao và nhóm cán bộ nhà nước và cơng
nhân. Khơng có sự khác biệt giữa các nhóm kinh tế về mơ hình sử dụng dịch

11


12
vụ y tế; nghề nghiệp là một yếu tố liên quan một cách có ý nghĩa thống kê đến
sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh bệnh viện [ 15 ].
Tác giả Nguyễn Minh Tuấn và Hoàng Khải lập, khi nghiên cứu về thực
trạng khám chữa bệnh của bệnh nhân có thẻ Bảo hiểm y tế và bệnh nhân phải
trả viện phí ở một số bệnh viện của Tỉnh Lào Cai và cho thấy: Khơng có sự
khác nhau về thái độ phục và chăm sóc giữa người bệnh có bảo hiểm y tế và
người bệnh phải trả viện phí, trong một số trường hợp bệnh nhân có thẻ bảo
hiểm y tế vẫn mua thuốc bên ngoài (47,5%) và 50,8% số bệnh nhân đã không
từng dùng thẻ bảo hiểm y tế để khám chữa bệnh [ 32 ].
Theo tác giả Dương Huy Lương, để việc chăm sóc sức khoẻ có hiệu
quả thì chăm sóc đó phải được dựa trên nhu cầu của con người. Với đặc tính
hay ốm đau người già có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn so với các
nhóm đối tượng thuộc lứa tuổi trẻ. Một nghiên cứu về tình hình sức khoẻ của
người già tại vùng nơng thôn cho thấy tỷ lệ điều trị ở người già là 70,7%
trong khi đó tỷ lệ điều trị nói chung cho mọi lứa tuổi chỉ là 45 – 60%. Tuy
nhiên thực tế, việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho người già hiện

nay vẫn cịn gặp nhiều khó khăn. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận
dịch vụ y tế của người già có thể là: (1) khó khăn về vấn đề kinh tế; (2) do
giảm khả năng đi lại; (3) bất tiện do khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế; (4) bị
phụ thuộc vào con cái. Tác giả cũng cho thấy chi phí cho khám chữa bệnh của
một người già tại một Huyện nông thôn thường cap gấp 2,1 lần so với các

12


13
nhóm đối tượng khác và đây cũng là một lý do làm cản trở việc tiếp cận cơ sở
y tế của người già. Trong nghiên cứu này khoảng hơn 70% số cụ già mong
muốn miễn giảm phí khám chữa bệnh [24].
Với đặc điểm của người già là phụ thuộc vào con cái, khả năng tự đi lại
khám chữa bệnh hạn chế, hơn nữa đặc tính truyền thống gia đình Việt Nam
người già ốm đau thường muốn khám chữa bệnh và chăm sóc ngay tại nhà.
Điều tra về mức sống dân cư năm 1993 cho thấy hơn 60% người già khi ốm
đau thường ở nhà tự điều trị. Sử dụng dịch vụ y tế tư nhân cũng là một hình
thức thường được người già lựa chọn với lý do gần nhà và có thể mời thầy
thuốc tư đến khám chữa bệnh. Tác giả Dương Huy Lương cho thấy các cụ
già khi ốm đau sử dụng dịch vụ y tế như sau: Tự điều trị 32%, y tế tư nhân
39%, trạm y tế 28,4%, bệnh viện 22,8% [ 25 ].
Các thuốc được tự dùng là những thuốc không kê đơn, được sản xuất
phân phối và bán có người dân tự dùng. Tự dùng thuốc thích hợp nhằm phịng
và điều trị bệnh mà không cần đến việc khám và theo dõi của Thầy thuốc.
Điều này làm giảm bớt sức ép cho các dịch vụ y tế. Đối với người dân vùng
nông thôn xa xôi khi tiếp cận các dịch vụ y tế người bệnh có thể tự chữa cho
mình một cách dễ dàng hơn vì chỉ khi bệnh khơng đáp ứng với thuốc tự dùng,
tình trạng bệnh kéo dài, năng hơn thì lúc đó dân mới tìm đến Bác sĩ [33].
Khi nghiên cứu về “Thực trạng sự lựa chọn mua thuốc của người dân

Huyện Từ Sơn”, tác giả Phạm Văn Khanh cho thấy khi bị ốm, người dân đến

13


14
trạm y tế xã là 20,79%, nhà thuốc tư nhân 4,03%, hiệu thốc nhà nước 2,96%.
Lý do: Tin tưởng vào chất lượng thuốc ở trạm y tế xã và hiệu thuốc nhà nước
là lý do hàng đầu, ở trạm y tế xã đủ thuốc để mua là lý do thứ 2, th?y thu?c t?
nhân g?n nhà là lý do th? 3 [ 21 ]
1.5. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI TẠI XÃ IAKHƯƠL
CHƯPĂH:
1.5.1. Đặc điểm
Xã Iakhươl thuộc Huyện Chưpăh cách Thành phố Pleiku khoảng 34km
và cách Trung tâm Huyện khoảng 18km có đặc điểm.
- Diện tích tực nhiên: Khoảng 52.500 hecta; trong đó diện tích canh tác
thấp, chủ yếu là diện tích rừng và trồng cây cơng nghệp.
- Dân số: Khoảng 5.455 người; Trong đó:Nam: 2.518

Nữ 2.637, Trẻ

em dưới 6 tuổi : 645. Phụ nữ 15 – 49: 1.107
Với cơ cấu dân số là đồng bào dân tộc thiểu số tỷ 82%
- Giáo dục:
+ Mầm non: Có 1 trường mầm non chính tại cụm trung tâm xã và mỗi
làng đều có một lớp học mầm non.
+ Tiểu học: Một trường tiểu học cụm chính và 06 trường cụm phụ.
+ Một trường phổ thơng cơ sở.
+ Có bưu điện văn hố xã.
+ Khí hậu: Có hai mùa rõ rệt.


14


15
+ Kinh tế: Khá khó khăn nguồn thu nhập chính của người dân là từ
nông nghiệp, tổng số hộ nghèo là: 149/ 1197 12,4%
+ Giao thơng đi lại cịn gặp rất nhiều khó khăn.
1.5.2. Hoạt động y tế xã
-Trạm y tế được xây dựng vào năm 1996 có 9 phịng làm việc và khám
chữa bệnh, cơ sở còn khá khang trang, có vườn thuốc nam.
- Nhân lực: có 5 cán bộ y tế:
+ 1 Bác sỹ đa khoa làm trưởng trạm: Phụ trách chung, chịu trách nhiệm
khám chữa bệnh, phụ trách quản lý các bệnh xã hội, sốt rét.
+ 1 Y sĩ đa khoa làm phó trạm: Kiêm phụ trách chương trình vệ sinh
mơi trường và phịng chống suy dinh dưỡng.
+ 1 Nữ hộ sinh trung học: Phụ trách chương trình Vệ sinh mơi trường
và Phịng chống suy dinh dưỡng.
+ Điều dưỡng trung học: Quản lý các nguồn thuốc và kiêm nhiệm thêm
chức năng xét nghiệm cụm kính.
+ 1 y tá sơ học: Theo dõi chống dịch.
-Quản lý:
UBND xã thành lập Ban chỉ đạo cơng tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu
do đồng chí Phó chủ tịch UBND xã làm trưởng ban, Bác sĩ trưởng trạm làm
Phó ban cùng với các ban ngành đoàn thể làm thành viên.

15


16

Trạm y tế hoạt động dưới sự chỉ đạo toàn diện của Phòng y tế Huyện và
UBND xã cũng như một số chương trình mục tiêu y tế quốc gia Trung tâm y
tế dự phòng trực tiếp chỉ đạo.
- Các dịch vụ y tế mà Trạm y tế xã đảm nhận.
+ Khám chữa bệnh và cung cấp thuốc thiết yếu miễn phí.
+ Dịch vụ chăm sóc bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em.
+ Dịch vụ phòng và chống các bệnh dịch lây truyền.
+ Dịch vụ phòng và chống các bệnh xã hội.
+ Dịch vụ vệ sinh môi trường (theo sự chi phối của Trung tâm y tế dự
phòng huyện).
1.6. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI TẠI XÃ IAPHÍ
CHƯPĂH:
1.6.1. Đặc điểm
Xã IaPhí thuộc Huyện Chưpăh cách Thành phố Pleiku khoảng 36km và
cách Trung tâm Huyện khoảng 20km có đặc điểm.
- Diện tích tực nhiên: Khoảng 7.619 hecta; trong đó diện tích canh tác
thấp, chủ yếu là diện tích rừng và trồng cây cơng nghệp.
- Dân số: Khoảng 5.397 người; Trong đó:

Nam: 2.660 Nữ 2.737
Trẻ em dưới 6 tuổi : 750
Phụ nữ 15 – 49tuổi: 956

Với cơ cấu dân số là đồng bào dân tộc thiểu số tỷ 100%

16


17
- Giáo dục:

+ Mầm non: Có 02 trường mầm non . Cụm chính tại cụm trung tâm xã
và cum lẻ tại ba làng Lòng Hồ.
+ Tiểu học: Một trường tiểu học cụm chính và 06 trường cụm phụ.
+ Phổ thơng Trung học cơ sở có 02 trường. 01 trường chính tại trung
tâm xã và 01 trường phụ tại ba làng Lịng Hồ.
+ Có bưu điện văn hố xã.
+ Khí hậu: Có hai mùa rõ rệt: Một mùa mưa và một mùa nắng.
+ Kinh tế: Khá khó khăn nguồn thu nhập chính của người dân là từ
nơng nghiệp, tổng số hộ nghèo là: 372/ 1194 32,2%
+ Giao thơng đi lại cịn gặp rất nhiều khó khăn.Vào mùa mưa thì trơn
trợt, vào mùa nắng thì bụi bặm.Đặt biệt là ba làng Lịng Hồ.
1.6.2. Hoạt động y tế xã
-Trạm y tế được xây dựng vào cuối năm 2006 và 5 phòng làm việc và
khám chữa bệnh, cơ sở cịn khá khang trang, khơng có vườn thuốc nam.
- Nhân lực: có 5 cán bộ y tế:
+ 1 Y sĩ đa khoa làm phó trạm: Kiêm phụ trách chương trình Lao,
Phong.
+ 1 Y sĩ đa khoa: Kiêm phụ trách chương trình Vệ sinh mơi trường,
Tiêm chủng mở rộng, quản lý các nguồn thuốc bảo hiểm Y tế xã hội .

17


18
+ 1 Nữ hộ sinh trung học: Phụ trách chương trình Chăm sóc sức khỏe
sinh sản và phịng chống suy dinh dưỡng, quản lý các nguồn thuốc trẻ em .
+1 y tá sơ học: Quản lý các nguồn thuốc cứu đau, quản lý trương trình
Sốt rét
+ 1 y tá sơ học:Thực hiện các chương trình y tế tại ba làng Lòng Hồ.
- Quản lý:

UBND xã thành lập Ban chỉ đạo cơng tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu
do đồng chí Phó chủ tịch UBND xã làm trưởng ban,Y sĩ Phó trưởng trạm làm
Phó ban cùng với các ban ngành đồn thể làm thành viên.
Trạm y tế hoạt động dưới sự chỉ đạo tồn diện của Phịng y tế Huyện và
UBND xã cũng như một số chương trình mục tiêu y tế quốc gia Trung tâm y
tế dự phòng trực tiếp chỉ đạo.
- Các dịch vụ y tế mà Trạm y tế xã đảm nhận.
+ Khám chữa bệnh và cung cấp thuốc thiết yếu miễn phí.
+ Dịch vụ chăm sóc bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em.
+ Dịch vụ phòng và chống các bệnh dịch lây truyền.
+ Dịch vụ phòng và chống các bệnh xã hội.
+ Dịch vụ vệ sinh môi trường (theo sự chi phối của Trung tâm y tế dự
phòng huyện).
1.7. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI TẠI XÃ HÒA PHÚ
CHƯPĂH:

18


19
1.7.1. Đặc điểm
Xã Hòa Phú thuộc Huyện Chưpăh cách Thành phố Pleiku khoảng
23,5km và cách Trung tâm Huyện khoảng 7km có đặc điểm.
- Diện tích tực nhiên: Khoảng 5.481hecta; trong đó diện tích canh tác
thấp, chủ yếu là diện tích rừng và trồng cây công nghệp.
- Dân số: Khoảng 5.132 người; Trong đó:

Nam: 2.578

Nữ 2.554


Trẻ em dưới 6 tuổi : 769
Phụ nữ 15 – 49 tuổi: 1387
Với cơ cấu dân số là đồng bào dân tộc thiểu số tỷ 26,1%
- Giáo dục:
+ Mầm non: Có 05 trường mầm non .01 Cụm chính tại cụm trung tâm
xã và 04 cum lẻ tại 04 thôn lang.
+ Tiểu học: Một trường tiểu học cụm chính và 04 trường cụm phụ.
+ Phổ thơng Trung học cơ sở có 01 trường tại trung tâm xã
+ Có bưu điện văn hố xã.
+ Khí hậu: Có hai mùa rõ rệt: Một mùa mưa và một mùa nắng.
+ Kinh tế: Khá khó khăn nguồn thu nhập chính của người dân là từ
nông nghiệp, tổng số hộ nghèo là: 120/ 1044 11,5%
+ Giao thơng đi lại cịn gặp rất nhiều khó khăn.
1.7.2. Hoạt động y tế xã

19


20
-Trạm y tế được xây dựng vào năm 1994 có 5 phòng làm việc và khám
chữa bệnh, cơ sở xuống cấp trầm trọng, có vườn thuốc nam.
- Nhân lực: có 5 cán bộ y tế:
+ 1 Bác sĩ đa khoa làm trưởng trạm: Kiêm phụ trách chương trình Sốt
rét, Tâm thần, Phong.
+ 1 Nữ hộ sinh trung học làm phó trạm: Phụ trách chương trình Chăm
sóc sức khỏe sinh sản và phòng chống suy dinh dưỡng, quản lý nguồn thuốc
trẻ em .
+ 1 Y sĩ đa khoa: Kiêm phụ trách chương trình Lao quản lý chăm sóc
vườn thuốc Nam

+ 1 Y sĩ đa khoa: chương trình Vệ sinh mơi trường, Tiêm chủng mở
rộng, quản lý nguồn thuốc cấp cứu.
+1 y tá sơ học: Quản lý các nguồn thuốc bảo hiểm Y tế, thuốc cứu đau,
người nghèo.
UBND xã thành lập Ban chỉ đạo cơng tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu
do đồng chí Phó chủ tịch UBND xã làm trưởng ban, Bác sĩ trưởng tr?m làm
Phó ban cùng với các ban ngành đoàn thể làm thành viên.
Trạm y tế hoạt động dưới sự chỉ đạo tồn diện của Phịng y tế Huyện và
UBND xã cũng như một số chương trình mục tiêu y tế quốc gia Trung tâm y
tế dự phòng trực tiếp chỉ đạo.
- Các dịch vụ y tế mà Trạm y tế xã đảm nhận.

20



×