Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Đề án tốt nghiệp cơ chế tự chủ đại học ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.29 KB, 48 trang )

1

Phần 1 . MỞ ĐẦU
1.1.

Lý do chọn đề án
Sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam

đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng đào tạo,
với mục tiêu hội nhập và tiếp cận nền GDĐH tiến tiến trên thế giới. Tự chủ
của nhà trường là một trong những vấn đề cơ bản của GDĐH tiên tiến. Điều
này đã được Đảng, Nhà nước rất quan tâm và đã được ghi trong các văn kiện
Đại hội Đảng, quy định trong các văn bản pháp quy và được đưa ra thảo luận
tại các hội thảo nhằm tìm ra các giải pháp và bước đi phù hợp với điều kiện
của nước ta.
Như trong Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ
năm 2005 về Đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH Việt Nam đã nêu rõ: “Trên
cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lý GDĐH, kết hợp hợp lý và hiệu quả
giữa việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước và việc đảm
bảo quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ
sở GDĐH. Phát huy tính tích cực và chủ động của các cơ sở GDĐH trong
công cuộc đổi mới mà nòng cốt là đội ngũ giảng viên (GV), cán bộ quản lý và
sự hưởng ứng, tham gia tích cực của tồn xã hội”; “Chuyển các cơ sở GDĐH
cơng lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền
quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài
chính”; “Hồn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học theo hướng bảo
đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở GDĐH, sự quản lý của
Nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với GDĐH”. Trong
những năm gần đây, trong văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII, trong Luật
GDĐH (2012) và một số văn bản dưới luật của Chính phủ đã nhấn mạnh và
quy định rõ hơn những nội dung liên quan đến vấn đề cơ chế tự chủ của các


trường đại học (ĐH). Trên thực tế cơ chế tự chủ cũng đã được thực hiện ở
những mức độ khác nhau trong một số trường ĐH. Bên cạnh những kết quả


2

tích cực đạt được cũng đang cho thấy nhiều vấn đề bất cập, thậm chí tiêu cực
nảy sinh. Điều đó cho thấy rằng, về mặt chủ trương thực hiện cơ chế tự chủ
của các trường ĐH là đúng đắn và có sự nhất trí cao; nhưng đồng thời đang có
những sự khác biệt cả về mặt nhận thức, sự bất cập và chưa phù hợp của một
số quy định pháp lý, cơ chế, chính sách, và cả những bất cập, yếu kém, thậm
chí sai lệch trong tổ chức thực hiện
Vấn đề tự chủ ĐH chưa được hiểu và nghiên cứu một cách thấu đáo. Với
quan niệm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GD&ĐT) trên thực tế đã làm thay công việc của các trường, từ bổ nhiệm cán
bộ lãnh đạo đơn vị, bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư, phê duyệt chương trình
khung (chuẩn chương trình), phân bổ chỉ tiêu đào tạo, quyết định việc mở
ngành mới và mức học phí (đối với trường cơng lập).
Theo cơ chế chuyển đổi từ mơ hình kiểm soát sang giám sát mà nhiều
nước trên thế giới đang áp dụng, vai trò của Bộ GD&ĐT là xây dựng khn
khổ chính sách, hành lang pháp lý cho các trường trong khi các trường cần
được thực sự tự chủ theo qui định của pháp luật, nhưng phải đánh đổi bằng
trách nhiệm xã hội và trách nhiệm giải trình. Chính vì chưa có hành lang pháp
lý rõ ràng và sự thống nhất trong cách tiếp cận đã dẫn đến những mâu thuẫn
vốn âm ỉ và rất cần được giải quyết thấu đáo.
Hiện nay đã áp dụng thí điểm và trao quyền tự chủ ĐH cho 16 trường
ĐH và Học viện. Tuy nhiên, khi triển khai cách hiểu về tự chủ ĐH “lệch” quá
nhiều về tài chính mà ít chú ý đến vấn đề chuyên môn, học thuật; bộ máy tổ
chức, nhân sự. Vì vậy tơi chọn Đề tài “Cơ chế tự chủ đại học ở Việt Nam” để
nhìn nhận cho đúng bản chất của tự chủ ĐH và từ đó đưa ra các giải pháp, cơ

chế cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay.
1.2.

Mục tiêu của đề án

Xây dựng một hệ thống cơ chế, chính sách thống nhất và đồng bộ để
các cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ khi có đủ điều kiện; Từng bước


3

giảm sự can thiệp hành chính của các cơ quan chủ quản đối với hoạt động của
các cơ sở GDĐH, tiến tới tất cả các cơ sở GDĐH đều được tự chủ, khơng cịn
cơ quan chủ quản, chỉ cịn quản lý nhà nước của các Bộ, Ban, Ngành.
1.3.

Nhiệm vụ của đề án

Xây dựng được mơ hình hồn chỉnh về tự chủ ĐH cho GDĐH Việt Nam
để cho các cơ sở GDĐH làm căn cứ xác định các giải pháp và xây dựng kế
hoạch phù hợp để được giao quyền tự chủ nhằm thúc đẩy triển khai tự chủ
trong toàn hệ thống, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở GDĐH để
khẳng định được vị thế trong hệ thống, khu vực và thế giới.
1.4.

Giới hạn của đề án

1.4.4. Về đối tượng: các cơ sở GDĐH công lập ở Việt Nam.
1.4.2. Về không gian: các cơ sở GDĐH công lập trong nước (cụ thể là
tại các đại học, học viện, trường đại học).

1.4.3. Về thời gian: đề án thực hiện trong giai đoạn 9 năm từ năm 2017
đến năm 2025.
Phần 2. NỘI DUNG
2.1. Căn cứ xây dựng đề án
2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận
2.1.1.1. Khái niệm, bản chất về tự chủ và trách nhiệm giải trình
a) Tự chủ ĐH là quyền lực được uỷ thác từ Nhà nước trao cho các cơ
sở GDĐH tự quyết định sứ mạng, mục tiêu và chương trình hoạt động của
mình cùng với các cách thức và phương tiện thực hiện sứ mạng, mục tiêu và
chương trình hoạt động đó. Tự chủ thể hiện khả năng của các trường ĐH chủ
động trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược của mình mà khơng bị trói
buộc bởi các quy định và sự quản lý ở cấp vĩ mô.


4

b) Bản chất của tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH:
Thực hiện giao tự chủ cho các cơ sở GDĐH thực chất là quá trình phân quyền
và giao quyền trong mối quan hệ giữa Nhà nước – Nhà trường – Xã hội dân
sự. Quá trình phân quyền này luôn được thực hiện kèm theo các yêu cầu về
trách nhiệm giải trình. Đó chính là cơ chế cân bằng quyền lực trong cơ chế
quản trị ĐH hiện đại, trong đó có tự chủ ĐH. Bản chất tự chủ là nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục, không nhằm làm giảm gánh nặng ngân sách Nhà
nước, cũng không phải là “cơ hội” để các trường mở rộng quy mô đào tạo mà
không gắn liền với các giải pháp quyết liệt về chất lượng.
c) Việc phân quyền của Nhà nước cho cơ sở GDĐH luôn được thực
hiện kèm theo các yêu cầu về trách nhiệm giải trình. Trách nhiệm giải trình là
việc cơ sở GDĐH chịu trách nhiệm trả lời trước các cơ quan quản lý và xã hội
về các hành động quản lý mà họ được giao thực hiện. Các trách nhiệm giải
trình bao gồm: (i) sự tuân thủ các quy tắc và quy định trong quản trị của cơ sở

GDĐH; (ii) thực hiện báo cáo cho các cơ quan quản lý/giám sát đối với cơ sở
GDĐH; và (iii) được “thưởng” – “phạt” theo các kết quả thực hiện.
d) Trách nhiệm giải trình có thể thể hiện ở các hoạt động sau của cơ sở
GDĐH:
- Công khai về sứ mạng mục tiêu giáo dục và các giá trị cốt lõi của
trường đồng thời cam kết thực hiện những nội dung đó.
- Xây dựng, hồn thiện và tn thủ đầy đủ các văn bản quản lý nội bộ
cho các lĩnh vực hoạt động của trường.
- Công khai các điều kiện về nguồn lực, cam kết chất lượng và chất
lượng thực tế; các thông tin công khai phải được định kỳ cập nhật.
- Thực hiện kiểm định chất lượng (KĐCL) theo định kỳ và công khai
kết quả KĐCL.
- Thực hiện kiểm tốn độc lập hàng năm và cơng khai kết quả kiểm
toán.


5

- Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ chế độ báo cáo các cơ quan quản lý,
cơ quan giám sát.
2.1.1.2. Đổi mới quản trị đại học và tự chủ đại học
- Quản trị ĐH là những phương thức để những người có thẩm quyền
lãnh đạo hướng dẫn và giám sát các mục tiêu và giá trị của nhà trường thông
qua các chính sách và quy trình thực hiện thơng qua quá trình xây dựng và tập
hợp các quy tắc, hệ thống nhằm quản lý và kiểm sốt tồn bộ hoạt động của
một trường ĐH. Quản trị ĐH bao gồm nhiều hoạt động như quản trị hệ thống,
quản trị chiến lược, quản trị hoạt động đào tạo, quản trị khoa học và công
nghệ (KH&CN), quản trị nhân sự và nguồn nhân lực, quản trị tài chính, quản
trị cơ sở vật chất…
- Hội đồng trường là tổ chức quản trị, đại diện quyền sở hữu của cơ sở

GDĐH. Hội đồng trường có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Quyết nghị và giám sát thực hiện các vấn đề: chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển và quy chế về tổ chức và hoạt động; phương hướng hoạt
động đào tạo, KH&CN, hợp tác quốc tế, đảm bảo chất lượng (ĐBCL); cơ cấu
tổ chức và phương hướng đầu tư phát triển của cơ sở GDĐH; việc thực hiện
quy chế dân chủ trong các hoạt động của cơ sở GDĐH.
+ Định kỳ hàng năm hoặc đột xuất báo cáo, giải trình với cơ quan trực
tiếp quản lý trường, cơ quan quản lý nhà nước về các điều ĐBCL, các kết quả
hoạt động, việc thực hiện các cam kết và tài chính của cơ sở GDĐH; việc
thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể các tổ chức của cơ sở GDĐH.
+ Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thơng qua phương án bổ sung,
miễn nhiệm hoặc thay thế các thành viên của Hội đồng trường.
+ Thông qua các quy định về: Số lượng, cơ cấu lao động, vị trí việc
làm; việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng, phát triển đội ngũ viên chức, nhân
viên hợp đồng của đơn vị;


6

+ Giới thiệu nhân sự hiệu trưởng, phó hiệu trưởng để thực hiện quy
trình bổ nhiệm theo quy định; thực hiện đánh giá hàng năm việc hoàn thành
nhiệm vụ của hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng; kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền miễn nhiệm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng; tổ chức lấy phiếu thăm dị
tín nhiệm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng giữa nhiệm kỳ hoặc đột xuất trong
trường hợp cần thiết.
+ Yêu cầu hiệu trưởng giải trình về những vấn đề chưa được thực hiện
đúng, chưa được thực hiện đầy đủ theo nghị quyết của Hội đồng trường, nếu
có. Nếu Hội đồng trường khơng đồng ý với giải trình của hiệu trưởng thì báo
cáo cơ quan trực tiếp quản lý trường.
- Hiệu trưởng có trách nhiệm tổ chức thực hiện các nghị quyết hoặc kết

luận của Hội đồng trường trong phạm vi nhiệm vụ của Hội đồng trường; có
trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho Hội đồng trường thực hiện nhiệm vụ
của mình, báo cáo tình hình và kế hoạch hoạt động của Nhà trường tại các
phiên họp của Hội đồng trường; chỉ đạo các đơn vị chức năng cung cấp thơng
tin đầy đủ khi có u cầu; đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí
và bộ máy để Hội đồng hoạt động bình thường; chịu trách nhiệm giải trình đối
với Hội đồng trường.
  Quan hệ giữa Chủ tịch Hội đồng trường và Hiệu trưởng là quan hệ phối
hợp công tác, thực hiện các quy định của pháp luật và Điều lệ trường ĐH.
2.1.1.3. Thực trạng triển khai tự chủ đại học
a) Kinh nghiệm và mơ hình tự chủ đại học phổ biến trên thế giới
- Trên thế giới, tự chủ ĐH là yếu tố cơ bản trong quản trị ĐH. Mức độ
tự chủ được thể hiện ở mức độ kiểm soát của Nhà nước đối với cơ sở GDĐH
- ở các quốc gia rất khác nhau do chịu ảnh hưởng của thể chế chính trị, hình
thái lịch sử, kinh tế, xã hội khác nhau.
- Bốn mơ hình quản trị ĐH phổ biến với các mức độ tự chủ khác nhau
bao gồm: i) Nhà nước kiểm sốt hồn toàn (state control); ii) Bán tự chủ


7

(semi-autonomous); iii) Bán độc lập (semi-independent); iv)Độc lập
(independent). Tuy nhiên, trong mơ hình Nhà nước kiểm sốt hồn tồn, cơ
sở GDĐH vẫn được hưởng một mức độ tự chủ nhất định do tính đặc thù của
tổ chức học thuật, Nhà nước khơng thể kiểm sốt được tất cả các hoạt động
của cơ sở GDĐH. Trong mơ hình độc lập, Nhà nước vẫn kiểm soát về mặt
chiến lược và yêu cầu tính giải trình cao đối với cơ sở GDĐH.
- Kinh nghiệm của các trường ĐH tiên tiến với mô hình quản trị độc
lập, được quyền tự chủ cao và toàn diện ở hầu hết các lĩnh vực như việc miễn
nhiệm/bổ nhiệm lãnh đạo, chức danh giáo sư, xác định biên chế và tiền lương

của GV, tuyển sinh và quy mô tuyển sinh, xác định các học phần trong
chương trình đào tạo (CTĐT), lựa chọn ngôn ngữ giảng dạy, giáo trình giảng
dạy, các ưu tiên nghiên cứu, tham gia các hội đồng, quản lý ngân sách của
nhà trường, phê duyệt các doanh nghiệp tạo nguồn thu, sở hữu cơ sở vật chất
và trang thiết bị…và thường là những trường ĐH có uy tín cao, có nhiều
thành tựu lớn, có thứ hạng cao trong các bảng xếp hạng ĐH thế giới, làm bài
học kinh nghiệm đáng học hỏi cho sự tự chủ của các nền GDĐH khác...
b) Các vấn đề bất cập trong thực trạng triển khai tự chủ ĐH ở Việt
Nam
Tự chủ ĐH của cơ sở GDĐH Việt Nam chính thức được triển khai từ
khi thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP năm 2006, Luật Giáo dục ĐH từ
năm 2013, Nghị quyết số 77/NQ-CP từ năm 2014 và Nghị định số
16/2015/NĐ-CP từ năm 2015. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai tự chủ ở các cơ
sở GDĐH vẫn còn vướng mắc do các vấn đề bất cập sau đây:
+ Nhận thức về tự chủ ĐH chưa đúng và đầy đủ ở cả cấp quản lý và
cơ sở GDĐH. Cách tiếp cận và tư duy về bản chất, mức độ và các điều kiện
thực hiện tự chủ ĐH còn khác nhau dẫn đến sự khác nhau trong quan điểm
giữa cơ sở GDĐH và các cơ quan quản lý, gây khó khăn cho việc tổ chức
thực hiện tự chủ ở cấp đơn vị. Cơ sở GDĐH chưa coi tự chủ ĐH như là một


8

giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, có trường chưa rõ thẩm quyền được
tự chủ của mình, dẫn đến việc thực hiện tự chủ nhưng trách nhiệm giải trình
và thực hiện cơng khai chưa được thực hiện một cách đầy đủ, chặt chẽ; chưa
chú trọng đến việc cải thiện các điều kiện ĐBCL, dẫn tới chất lượng đào tạo
chưa cao, điều kiện ĐBCL chưa đáp ứng quy mô tuyển sinh, cịn có sai phạm
trong tổ chức thực hiện đào tạo...
+ Hệ thống văn bản pháp lý về tự chủ ĐH cịn thiếu, chưa có quy định

cụ thể về các điều kiện, nguyên tắc chung và mức độ tự chủ giao cho các cơ
sở GDĐH; chưa có hướng dẫn cụ thể về cách tiếp cận, bản chất của tự chủ
ĐH, mức độ và điều kiện thực hiện tự chủ, dẫn đến nhận thức của các cơ sở
GDĐH về tự chủ cịn khác nhau và có sự khác nhau giữa cơ sở GDĐH và các
cơ quan quản lý về quan điểm, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện; chưa
có hướng dẫn về tự chủ đối với các cơ sở GDĐH cơng lập khơng có cơ quan
chủ quản, dẫn đến khó khăn trong việc việc hồn thiện các điều kiện và năng
lực tự chủ của một số trường ĐH thuộc diện này (như thành lập Hội đồng
trường, tiến hành các thủ tục đầu tư theo quy định...).
Về tài chính: Chưa có hướng dẫn cụ thể quyền tự chủ trong việc quyết
định các định mức chi; chưa có chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn đối với các
trường được giao thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP để đầu tư
phát triển cơ sở vật chất; chưa có hướng dẫn cụ thể, kịp thời về việc miễn thuế
thu nhập doanh nghiệp từ lãi tiền gửi ngân hàng và thu nhập từ các hoạt động
đào tạo ngắn hạn theo Nghị quyết 59/NQ-CP ngày 07/7//2016 của Chính phủ;
chưa có hướng dẫn kịp thời về miễn thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu
nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với các khoản thu học phí, lệ phí sau khi các
khoản thu này chuyển qua thực hiện theo cơ chế giá theo Luật phí và lệ phí số
97/2015/QH13 có hiệu lực 01/01/2017; chưa có hướng dẫn về việc sử dụng
nguồn lực tham gia liên doanh, liên kết để tăng nguồn thu cho các trường...


9

Về tổ chức và nhân sự: Hướng dẫn chưa đầy đủ về việc bổ nhiệm,
tuyển dụng ứng viên trong và trên độ tuổi lao động để thực hiện các hoạt
động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và lãnh đạo, quản lý; quy trình Hội
đồng trường bầu Hiệu trưởng để Bộ trưởng Bộ GD&ĐT phê chuẩn kết quả
bầu Hiệu trưởng; chưa có quy định rõ về vai trị, chức năng, thẩm quyền của
Hội đồng trường trong mối quan hệ với Đảng ủy, Hiệu trưởng trong nhiệm vụ

quản trị trường ĐH đối với các trường được giao tự chủ.
Về đào tạo: Chưa có hướng dẫn về xác định chỉ tiêu tuyển sinh của
hoạt động liên kết với nước ngoài, áp dụng tương tự như chỉ tiêu tuyển sinh
chính quy, các trường thực hiện thí điểm sẽ phải chia sẻ chỉ tiêu giữa đào tạo
chính quy và đào tạo liên kết trong khi các chương trình liên kết có sự tham
gia về nguồn lực của cả trường đối tác nước ngoài...
+ Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ để thực hiện tự
chủ; cịn có sự chưa thống nhất trong một văn bản về tự chủ của cơ sở
GDĐH; hoặc chưa thống nhất giữa văn bản quy phạm pháp luật và văn bản
điều hành dẫn đến lúng túng và dễ sai phạm trong việc triển khai tự chủ tại
các cơ sở GDĐH.
+ Chế độ, chính sách, chế tài hiện hành chưa đủ mạnh và chưa tương
thích để các cơ sở GDĐH thực hiện tự chủ, như: chế chế độ lương, đãi ngộ
GV thấp; mức thu học phí bị áp trần; Việt Nam chưa có các tạp chí khoa học
hoạt động theo thông lệ quốc tế nằm trong danh mục ISI và Scopus để tạo
điều kiện thuận lợi cho công bố quốc tế...; các cơ sở GDĐH gặp khó khăn
trong quản lý, điều hành theo mơ hình tự chủ.
+ Trách nhiệm giải trình xã hội và việc thực hiện các nội dung công
khai của nhiều cơ sở GDĐH chưa được triển khai đầy đủ và chưa được giám
sát chặt chẽ bằng các cơ chế giám sát cụ thể và có hiệu quả cao.
+ Năng lực và điều kiện thực hiện tự chủ của cơ sở GDĐH chưa đáp
ứng yêu cầu; nguồn lực của cơ sở GDĐH còn yếu, chủ yếu dựa vào nguồn thu


10

học phí; các điều kiện ĐBCL chưa được đầu tư; Đề án tự chủ của các cơ sở
GDĐH thí điểm chưa được thẩm định chặt chẽ. Do đó, cịn xảy ra tình trạng
cơ sở GDĐH được tự chủ nhưng điều kiện cơ sở vật chất không đảm bảo để
nâng cao chất lượng đào tạo; được quyền tự quyết định mức thu học phí cao

theo đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhưng chưa đủ nguồn lực và
ĐBCL để thu hút người học, do đó vẫn phải duy trì mức học phí bằng mức
quy định chung của Nhà nước áp dụng cho các cơ sở GDĐH chưa thực hiện
cơ chế tự chủ, vì vậy chưa có tích lũy để đầu tư các cơng trình, dự án lớn phục
vụ cơng tác đào tạo.
+ Đổi mới quản trị ĐH chưa thực hiện tương xứng và gắn với thực
hiện tự chủ ĐH, đây là bất cập lớn nhất ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ
trương giao quyền tự chủ ĐH, dẫn đến việc sử dụng nguồn lực kém hiệu quả,
cịn có sai phạm trong quá trình thực hiện quyền tự chủ (hoạt động đào tạo, tổ
chức nhân sự và bộ máy, tài chính). Thậm chí nhiều cơ sở GDĐH đã thực
hiện tự chủ nhưng cơ chế quản trị chưa hoàn thiện do chưa thành lập Hội
đồng trường mặc dù đã hơn 3 năm Luật GDĐH có hiệu lực.
+ Tự chủ ĐH mới chỉ được thực hiện thí điểm, chưa trở thành thuộc
tính vốn có của các cơ sở GDĐH ở Việt Nam, cơ sở pháp lý chưa vững chắc
và thiếu đồng bộ nên việc triển khai còn nhiều lúng túng, chưa thống nhất.
Trong đó, có trường cịn dựa vào lợi thế ngành để chú trọng tăng học phí và
tăng chỉ tiêu tuyển sinh, chưa chú trọng đúng mức đến nâng cao chất lượng
đào tạo.
+ Việc thí điểm tự chủ ĐH (theo Nghị quyết số 77/NQ-CP) giai đoạn
2014 - 2017 chưa có tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm, làm căn cứ cho
việc thực hiện tự chủ ĐH ở giai đoạn sau; đồng thời chưa có định hướng cụ
thể về việc chuyển tiếp từ giai đoạn thí điểm sang giai đoạn triển khai chính
thức thực hiện hoặc tiếp tục kéo dài thời gian thí điểm, dẫn đến gây khó khăn


11

cho các trường trong việc xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn, đầu tư vào
các điều kiện ĐBCL (cơ sở vật chất và con người).
Nhìn chung, các cơ sở GDĐH tự chủ đã được giao quyền mạnh mẽ

hơn trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, tổ chức
bộ máy và nhân sự, tài chính giúp giảm bớt các thủ tục hành chính nên đã chủ
động, linh hoạt hơn trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường,
từng bước chủ động đổi mới cơ chế để hoạt động ngày càng hiệu quả. Mơ
hình thí điểm tự chủ bước đầu được đánh giá là có những chuyển biến tích
cực, các cơ sở GDĐH đã có những thành tựu nhất định và được sự chấp nhận
của xã hội.
Tuy nhiên, việc giao quyền tự chủ đối với GDĐH mới chỉ thực hiện
trong phạm vi thí điểm, tự chủ chưa trở thành nhu cầu nội tại của các trường;
điều kiện tự chủ mới chỉ tiếp cận chủ yếu từ góc độ về tài chính, chưa tính
đến năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức quản lý của các cơ sở đào tạo.
Những bất cập từ nhiều phía đã hạn chế việc triển khai và hiệu quả của thực
hiện tự chủ của các cơ sở GDĐH; tự chủ chưa thực sự trở thành động lực giúp
các cơ sở GDĐH phát huy khả năng chủ động, sáng tạo, nâng cao hiệu quả
hoạt động, tăng cường cạnh tranh và đa dạng hóa các loại hình giáo dục trong
hệ thống GDĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu về nguồn
nhân lực của đất nước và hội nhập quốc tế, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao.
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý
a) Luật Giáo dục (Luật số 44/2009/QH12 ngày 25/11/2009) đã cho
phép các trường trung cấp, trường cao đẳng, trường đại học quyền tự chủ và
tự chịu trách nhiệm tại Điều 60; Luật GDĐH (Luật số 08/2012/QH13 ngày
18/6/2012) quy định quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học tại Điều 32.
b) Nghị quyết của Trung ương: Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu


12

cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong điều kiện kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”;
c) Các Nghị định, Nghị quyết và văn bản của Chính phủ:
+ Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ về việc
Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức
bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
+ Nghị quyết số 44/NQ-CPngày 09/06/2014 của Chính chủ về Chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW.
+ Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về Thí
điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 20142017.
+ Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Chính phủ Quy
định cơ chế tự chủ của đơn vị nghiệp công lập.
+ Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 22/7/2016 của Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng, và thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020. Trong đó có việc xây dựng
và triển Đề án tự chủ GDĐH, Bộ GD&ĐT là cơ quan chủ trì, Bộ LĐTBXH
phối hợp.
+ Nghị quyết số 89/NQ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ trong đó
nêu rõ chủ trương đẩy mạnh thực hiện tự chủ ĐH gắn với tăng cường chất
lượng GDĐH và những giải pháp tổng thể cho việc thực hiện tự chủ ĐH
(Mục 6). Trong đó, trong đó nêu rõ chủ trương đẩy mạnh thực hiện tự chủ ĐH
gắn với tăng cường chất lượng GDĐH và những giải pháp tổng thể cho việc
thực hiện tự chủ ĐH.
+ Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 của Chính phủ,
trong đó giao trách nhiệm cho Bộ GD&ĐT mở rộng quyền tự chủ tuyển sinh,


13

tự chủ tài chính, tự chủ về chương trình, nội dung đào tạo và khảo thí cho các

cơ sở GDĐT (Mục 15, Phần III).
2.1.3 Căn cứ thực tiễn
Kể từ khi thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, Nghị quyết số
14/2005/NQ-CP và Luật GDĐH và thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số
77/NQ-CP trong toàn hệ thống GDĐH cho thấy: hệ thống GDĐH vẫn chưa có
những chuyển biến có tính hệ thống; việc thực hiện tự chủ chưa hiệu quả nên
chưa có tác động mạnh mẽ đến toàn hệ thống như mong muốn. Trong q
trình triển khai cịn nhiều vướng mắc, cụ thể:
- Cơ chế, chính sách về tự chủ cịn thiếu và chưa đồng bộ; việc giao
quyền tự chủ đối với GDĐH mới chỉ thực hiện trong phạm vi thí điểm; điều
kiện tự chủ mới chỉ tiếp cận chủ yếu từ góc độ về tài chính; trong q trình
thực hiện nhiều cơ sở GDĐH được giao thí điểm tự chủ chưa nhận thức đúng
và đầy đủ về tự chủ; một số cơ sở GDĐH chưa đủ năng lực và thiếu sự sẵn
sàng nên lúng túng trong thực hiện; chưa thống nhất thực hiện tự chủ các
nhiệm vụ được giao.
- Tự chủ ĐH chưa gắn liền với đổi mới quản trị ĐH trong cơ sở GDĐH
nên ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương tự chủ ĐH, làm cho việc sử
dụng nguồn lực kém hiệu quả và chất lượng đào tạo chưa được nâng cao.
Do đó, dẫn đến hiệu qủa thực hiện tự chủ chưa cao, tự chủ chưa thực sự
trở thành động lực giúp các cơ sở GDĐH phát huy khả năng chủ động, sáng
tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường cạnh tranh và đa dạng hóa các
loại hình giáo dục trong hệ thống GDĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
đáp ứng nguồn nhân lực của đất nước và hội nhập quốc tế.
Vì yêu cầu của quá trình đổi mới - phát triển đất nước và toàn cầu hóa hội nhập quốc tế, trong đó có giáo dục, nhất là GDĐH, đòi hỏi phải đổi mới
mạnh mẽ thể chế phát triển giáo dục, trong đó có cơ chế tự chủ ĐH, song phải


14

có mơ hình và bước đi phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của nước

ta, đồng thời tiếp cận với những tiêu chí - chuẩn mực chung của quốc tế.
Điều quan trọng đầu tiên là về mặt nhận thức cần khắc phục cả hai cách
hiểu sai lệch về tự chủ của các cơ sở giáo dục nói chung và của GDĐH nói
riêng: đó là quá nhấn mạnh một chiều đến “quyền” tự quyết định của các cơ
sở GDĐH mà khơng tính đến các điều kiện, trình độ, yêu cầu – trách nhiệm
thực tế và khách quan bị chế định và tương tác với các chủ thể khác trong xã
hội, nhất là Nhà nước; mặt khác lại có khuynh hướng vẫn muốn “quản chặt”
từ phía các cơ quan quản lý nhà nước với nhiều lý do khác nhau, đồng thời
cũng có những cơ sở giáo dục “ngại” phải thực hiện cơ chế tự chủ vì khơng
dám chịu trách nhiệm và vẫn muốn được bao cấp và bảo trợ theo cơ chế cũ.
Thậm chí cịn có tư duy muốn được bao cấp kinh phí “đầu vào” nhiều hơn,
nhưng được “tự chủ và quyền hạn” chi “đầu ra” cùng với quyền tự quyết định
các hoạt động cao hơn.
Vì vậy, để thúc đẩy thực hiện tự chủ trong các cơ sở GDĐH hiệu quả
theo đúng bản chất, quan điểm tiếp cận, mục đích và thống nhất trong tồn hệ
thống, cần thiết phải xây dựng Đề án “Cơ chế tự chủ đại học ở Việt Nam” với
giải pháp, kế hoạch, lộ trình thực hiện làm cơ sở triển khai tự chủ ĐH nhằm
đổi mới hệ thống GDĐH, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế là việc rất cần thiết trong bối cảnh
của đất nước hiện nay.
2.2. Nội dung cơ bản của đề án
2.2.1 Thực trạng tự chủ đại học ở Việt Nam
Trong những thập niên vừa qua, xu hướng tự chủ ĐH ngày càng gia tăng
ở các nước Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng dẫn tới việc quản lý nhà
nước về GDĐH cũng cần có những thay đổi để hỗ trợ các trường thực hiện
quyền tự chủ của họ. Cân bằng với giao quyền tự chủ cho các trường là đòi


15


hỏi giải trình về hiệu quả và tác động của việc sử dụng nguồn lực và quyền tự
chủ mà các trường được trao.
Theo Luật GDĐH (2012), các cơ sở GDĐH của Việt Nam được phân
thành 4 loại gồm: (a) trường cao đẳng; (b) trường đại học, học viện; (c) đại
học vùng, đại học quốc gia; và (d) viện nghiên cứu được cho phép đào tạo
trình độ tiến sĩ.
Năm 2016, hệ thống GDĐH Việt Nam có 442 trường (223 trường ĐH,
học viện và 219 trường cao đẳng). Các trường chịu sự quản lý bởi các bộ chủ
quản, hoặc ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố, trừ hai đại học quốc
gia (ĐHQG) chịu sự quản lý bởi Chính phủ. Tất cả các cơ sở GDĐH phải
thực hiện các quy định quản lý nhà nước về giáo dục do Bộ GD&ĐT làm đầu
mối, nhưng về nhân sự và tài chính thì theo sự quản lý của cơ quan chủ quản
là các bộ, ngành hoặc UBND các tỉnh, thành phố. Điều này cho thấy các cơ sở
GDĐH của Việt nam được phân loại theo phương diện quản lý thông qua cơ
chế cơ quan chủ quản mà chưa được phân loại xét theo khía cạnh sứ mệnh
phát triển của các trường.
Các tồn tại cơ bản hiện nay của hệ thống GDĐH Việt Nam:
- Chưa có sự nhận thức đúng đắn về quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội
của các cơ sở GDĐH. Các trường thì địi quyền tự chủ cao, nhưng khơng chú
ý đến trách nhiệm xã hội phải đảm bảo. Nhà nước đại diện là Bộ GD&ĐT thì
lo quản lý tồn diện và do đó làm hạn chế quyền tự chủ của các trường ĐH.
- Chưa quán triệt nội hàm của quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của
các cơ sở GDĐH một cách khoa học, do đó chưa phân định được rõ được
phạm vi quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội giữa nhà nước mà đại diện là Bộ
GD&ĐT với các cơ sở giáo dục ĐH và ngược lại.
- Chưa có một cơ chế và tổ chức để đảm bảo quyền tự chủ cho các cơ sở
GDĐH và đảm bảo trách nhiệm xã hội của các cơ sở này (như hệ thống kiểm
định công nhận chất lượng độc lập để giám sát thực hiện).



16

Điều này địi hỏi phải có mơ hình quản lý GDĐH như thế nào để dung
hòa được cơ chế quản lý của Việt Nam với đòi hỏi của thị trường theo xu thế
thời đại trong đào tạo nguồn nhân lực. Nâng cao năng lực và quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các cơ sở GDĐH trong thực hiện sứ mệnh, mục tiêu và
nhiệm vụ của mình; từ đó, phát huy khả năng chủ động, sáng tạo, nâng cao
hiệu quả hoạt động, tăng cường sức cạnh tranh trong hệ thống GDĐH nhằm
duy trì, nâng cao chất lượng GDĐH, đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của
đất nước và hội nhập quốc tế.
Xây dựng cơ chế, chính sách hướng tới hình thành mơ hình cơ sở GDĐH
được quyền tự chủ về tổ chức bộ máy, về học thuật và về tài chính, đồng thời
chịu trách nhiệm giải trình trước Nhà nước và xã hội.
2.2.2. Nội dung tự chủ giáo dục đại học
2.2.2.1. Tự chủ về tổ chức bộ máy
Hiệu trưởng hoặc giám đốc cơ sở GDĐH được quyết định thành lập, sáp
nhập, chia, tách, giải thể các phòng, ban chức năng; khoa, bộ môn; tổ chức
khoa học và công nghệ; tổ chức phục vụ đào tạo; cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ trên cơ sở nghị quyết của Hội đồng trường.
2.2.2.2. Tự chủ về nhân sự
2.2.2.2.1. Đối với cơ sở GDĐH tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu
tư và cơ sở GDĐH tự bảo đảm chi thường xuyên, sau khi Hội đồng trường
thông qua, Hiệu trưởng được quyết định:
a) Chính sách phát triển nguồn nhân lực của đơn vị; quy định tiêu chuẩn
và tuyển dụng, quản lý, sử dụng đối với công chức, viên chức, người lao động
theo quy định của pháp luật; thực hiện các chế độ, chính sách, chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần của công chức, viên chức, người lao động.
b) Chế độ và chính sách thu hút, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ
đối với công chức, viên chức, nhà khoa học, nhà quản lý, GV, giáo viên có
trình độ cao, nghiên cứu viên làm công tác KH&CN; quyết định định mức



17

chi trả tiền lương, tiền công đối với công chức, viên chức, người lao động
theo chất lượng và hiệu quả sản phẩm công việc.
c) Mời các nhà khoa học, nhà quản lý, chun gia có uy tín ở trong và
ngồi nước đến làm công tác chuyên môn: giảng dạy, NCKH, thực hiện các
đề án, dự án, CTĐT và KH&CN.
d) Tổ chức tuyển dụng, tiếp nhận công chức, viên chức theo quy định
của pháp luật.
đ) Thực hiện các nhiệm vụ khác về tự chủ nhân sự theo quy định của
pháp luật hiện hành.
e) Xây dựng, thẩm định và phê duyệt đề án vị trí việc làm, số lượng
người làm việc, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp. Quyết định số
lượng người làm việc, tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức
hàng năm báo cáo cơ quan chủ quản để tổng hợp báo cáo Bộ Nội vụ theo quy
định.
2.2.2.2.2. Đối với cơ sở GDĐH tự đảm bảo một phần chi thường xuyên,
sau khi Hội đồng trường thông qua, Hiệu trưởng được quyết định:
a) Các nội dung quy định tại các điểm a,b,c,d,đ của Mục 2.2.2.2.1.
b) Xây dựng đề án vị trí việc làm, số lượng người làm việc, cơ cấu viên
chức theo chức danh nghề nghiệp trình cấp có thẩm quyền thẩm định, quyết
định theo quy định của pháp luật hiện hành. Thực hiện tuyển dụng, sử dụng
và quản lý công chức, viên chức theo quy định của pháp luật số lượng người
làm việc do cấp có thẩm quyền giao.
2.2.2.3. Tự chủ về học thuật (đào tạo, khoa học công nghệ và hợp tác
quốc tế)
2.2.2.3.1. Đối với cơ sở giáo dục đại học tự bảo đảm chi thường xuyên
và chi đầu tư

Cơ sở GDĐH tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và cơ sở
GDĐH chưa được phân loại là đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên và chi


18

đầu tư nếu được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng của tổ chức KĐCLGD
quốc tế được Bộ GD&ĐT công nhận hoặc đạt kết quả KĐCL cơ sở GDĐH
của Việt Nam với mức 6/7 trở lên và có ít nhất 10% GV cơ hữu giảng dạy các
môn chuyên ngành ở tất cả các ngành, chuyên ngành đang được đào tạo có
bài báo, cơng trình cơng bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có tên trong
danh mục ISI, Scopus trong ba năm gần nhất, được tự chủ về học thuật như
sau:
a) Được Bộ GD&ĐT uỷ quyền quyết định mở ngành đào tạo theo nhu
cầu xã hội nếu đáp ứng đủ điều kiện mở ngành theo quy định của pháp luật,
phù hợp với định hướng phát triển của cơ sở GDĐH đã được Hội đồng trường
quyết nghị thông qua và báo cáo Bộ GD&ĐT;
b) Được quyền quyết định quy mô đào tạo;
c) Được quyền xác định chỉ tiêu tuyển sinh theo nhu cầu xã hội và năng
lực đào tạo của cơ sở giáo dục đại học; xác định các điều kiện tuyển sinh và
công bố công khai trên trang thông tin điện tử của nhà trường. Cơ sở
GDĐHchịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh theo quy định hoặc theo đề án
tự chủ tuyển sinh, bảo đảm công khai, minh bạch và báo cáo Bộ GD&ĐT;
d) Được quyền quyết định các hoạt động đào tạo (CTĐT; phương pháp
đào tạo; hình thức đào tạo; phương pháp kiểm tra, đánh giá; công tác tổ chức
đào tạo; in, cấp phát và quản lý văn bằng, chứng chỉ) theo quy định của pháp
luật; bảo đảm chuẩn đầu ra, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động;
đ) Được quyền quyết định liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo trong
nước, nước ngoài trên cơ sở chương trình liên kết đã được KĐCL hoặc đang
được phép đào tạo và tự xác định chỉ tiêu liên kết theo quy định hiện hành,

công khai cơ sở, địa điểm, chương trình liên kết đào tạo và các điều kiện
ĐBCL, báo cáo Bộ GD&ĐT.
e) Được quyền quyết định mơ hình tổ chức, phương thức hoạt động của
tổ chức KH&CN;


19

g) Được quyền quyết định hướng nghiên cứu; thực hiện thương mại hóa
kết quả NCKH; quyết định tham gia các nhiệm vụ KH&CN, dịch vụ khoa học
công nghệ với các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước;
h) Được quyền thực hiện cung cấp dịch vụ giáo dục đào tạo do Nhà nước
đặt hàng và được tự chủ các nội dung khác theo quy định của pháp luật hiện
hành.
2.2.2.3.2. Đối với cơ sở giáo dục đại học tự bảo đảm chi thường xuyên
Cơ sở GDĐH tự bảo đảm chi thường xuyên; cơ sở GDĐH chưa được
phân loại là đơn vị đảm bảo chi thường xuyên nếu đáp ứng đủ các điều kiện:
Đạt kết quả kiểm định chất lượng cơ sở GDĐH của Việt Nam với mức 5/7 trở
lên; tỷ lệ GV cơ hữu, nghiên cứu viên cơ hữu có trình độ TS chiếm ít nhất
30% tổng số GV; có ít nhất 80% GV cơ hữu có cơng trình khoa học được xét
tính điểm theo quy định của Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước trong ba
năm gần nhất; trong đó, có GV cơ hữu giảng dạy các mơnchun ngành có
bài báo, cơng trình cơng bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có tên trong
danh mục ISI, Scopus trong ba năm gần nhất thì được tự chủ thực hiện hoạt
động đào tạo, KH&CN sau đây:
a) Được quyền mở ngành đào tạo trong danh mục cấp IV khi đáp ứng đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật, phù hợp với định hướng phát triển của
cơ sở GDĐH đã được Hội đồng trường quyết nghị thông qua và báo cáo Bộ
GD&ĐT;
b) Được quyền quyết định liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo trong

nước và tự xác định chỉ tiêu liên kết trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy định
hiện hành về liên kết đào tạo trong nước. Công khai cơ sở, địa điểm, chương
trình liên kết đào tạo và các điều kiện ĐBCL, báo cáo Bộ GD&ĐT;
c) Được quyền quyết định các nội dung quy định tại điểm c, d, h của
Mục 2.2.2.3.1.


20

2.2.2.3.3. Đối với các cơ sở giáo dục khác
Cơ sở GDĐH tự bảo đảm một phần chi thường xuyên hoặc cơ sở GDĐH
đạt kết quả KĐCLGD của Việt Nam được tự chủ thực hiện hoạt động đào tạo
đối với các nội dung quy định tại các điểm b, c của Mục 2.2.2.3.2.
2.2.2.4. Tự chủ về tài chính
2.2.2.4.1. Đối với cơ sở giáo dục đại học tự đảm bảo chi thường
xuyên và chi đầu tư
A) Nguồn tài chính
a) Nguồn thu học phí: Mức thu học phí chương trình đại trà theo phương
thức chính quy và giáo dục thường xuyên do cơ sở GDĐH tự quyết định theo
nguyên tắc bù đắp chi phí và có tích lũy hợp lý;
b) Thu dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ,
bổ sung kiến thức, kỹ năng để cấp chứng chỉ, giấy chứng nhận đào tạo và các
hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn khác; thu dịch vụ khảo thí, kiểm định
chất lượng giáo dục đào tạo; tư vấn giáo dục đào tạo; thu từ hoạt động
NCKH, chuyển giao công nghệ, thu phí bản quyền, giá trị thương hiệu, phí
quản lý các hợp đồng nghiên cứu khoa học, phí quản lý dự án. Cơ sở GDĐH
thực hiện mức thu như sau:
- Dịch vụ có sử dụng ngân sách nhà nước:
+ Các dịch vụ Nhà nước chưa quy định mức giá hoặc khung giá cụ thể,
cơ sở GDĐH được xác định giá dịch vụ trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật,

định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ chi
phí như sau: Năm 2017 tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp (chưa tính
chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định); đến năm 2018 tính đủ chi
phí tiền lương, chi phí trực tiếp và chi phí quản lý (chưa tính chi phí khấu hao
tài sản cố định); đến năm 2020 tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi
phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Căn cứ vào tình hình thực tế,
cơ sở GDĐH được phép thực hiện trước lộ trình tính giá dịch vụ giáo dục đào



×