Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Một số giải pháp cải cách quản lý thuế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.47 KB, 106 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH QUẢN LÝ THUẾ Ở VIỆT NAM

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là một công cụ quan trọng của Nhà nước để thực hiện các chức
năng kinh tế - xã hội. Thông qua hoạt động quản lý của cơ quan chức năng
(Cơ quan Thuế), cơng cụ này sẽ có những tác động điều chỉnh nhất định trên
các mặt của nền kinh tế theo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ
của Nhà nước. Các tác động điều chỉnh trên của thuế đối với nền kinh tế quốc
dân có đem lại hiệu quả hay khơng cịn phụ thuộc vào hệ thống thuế Nhà
nước ban hành có phù hợp và có được áp dụng bằng các phương pháp thích
ứng với từng đối tượng, từng giai đoạn cụ thể hay khơng. Từ đó, thấy được
tầm quan trọng của công tác quản lý thuế tại cơ quan quản lý hành chính nhà
nước trong lĩnh vực thuế (Cơ quan Thuế).
Ở nước ta, từ khi hệ thống thu thuế Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính
được thành lập (ngày 7-8-1990), hệ thống tổ chức quản lý thu thuế được tổ
chức thành một hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương, chịu trách
nhiệm quản lý thống nhất trong cả nước công tác thu thuế và thu khác. Qua
gần 15 năm thực hiện, hoạt động của hệ thống này đã góp phần quan trọng
vào việc hồn thành nhiệm vụ thu ngân sách hàng năm, thuế đã phát huy được
vai trị điều tiết vĩ mơ nền kinh tế, tạo mơi trường bình đẳng, thúc đẩy phát
triển sản xuất kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh giữa tất cả các thành phần
kinh tế.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế cũng như yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống thuế nói chung, cơng tác quản lý thuế nói

1


riêng còn bộc lộ những hạn chế, đòi hỏi phải được cải cách để phù hợp với
tình hình mới. Yêu cầu cải cách đặt ra đối với ngành Thuế xuất phát từ hiệu


quả của cơng tác quản lý thuế nói riêng, hiệu quả của cơng tác quản lý hành
chính nhà nước nói chung và nằm trong Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước 2001-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 179-2001.
Nhiệm vụ cải cách đã được cụ thể hóa thành chiến lược cải cách hệ
thống thuế Việt Nam đến năm 2010, đây là một chiến lược có sự nhất trí cao
trong tồn ngành và đã được Bộ Chính trị phê duyệt với mục tiêu bao trùm là
đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, cơng bằng xã hội; xây dựng hệ thống
chính sách thuế đồng bộ, hợp lý, phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường và xu hướng hội nhập quốc tế, đồng thời hiện
đại hóa quản lý thuế cả về cơ chế quản lý, công nghệ quản lý, bộ máy và con
người quản lý.
Từ những nhiệm vụ và tình hình thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu đề
tài "Một số giải pháp cải cách quản lý thuế ở Việt Nam" là yêu cầu cấp thiết
cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài này là làm rõ những vấn đề chung về quản
lý thuế, cả về lý luận cũng như thực trạng quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay,
kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm cải cách quản lý thuế của một số nước
trên thế giới. Từ đó đề xuất một số giải pháp thực hiện cải cách quản lý thuế
phù hợp với điều kiện của Việt Nam và phù hợp với định hướng cải cách
trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước 2001-2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý thuyết và
thực tiễn của công tác quản lý thuế ở Việt Nam trong mối liên hệ với định
hướng cải cách của ngành Thuế nói riêng cũng như chủ trương cải cách hành

chính của Nhà nước nói chung từ nay đến năm 2010.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở vận dụng các kiến thức trong lĩnh vực thuế, các quy định
hiện hành của Nhà nước, nội dung quản lý thuế ở Việt Nam đã được làm rõ
nét cả về lý luận và thực tiễn triển khai. Kết quả là đề tài cung cấp những
nhận thức tương đối cơ bản và đầy đủ về công tác quản lý thuế ở Việt Nam và
một số giải pháp trọng điểm để đến năm 2010, ngành Thuế Việt Nam có thể
đạt được mục tiêu đã đề ra trong Chương trình cải cách hệ thống thuế đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 201/2004/QĐ-TTG ngày 612-2004.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản lý thuế và cải cách quản lý
thuế ở một số nước trên thế giới
Chương 2: Thực trạng quản lý thuế ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp cải cách quản lý thuế ở Việt Nam

3


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ CẢI CÁCH
QUẢN LÝ THUẾ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THUẾ

1.1.1. Quản lý hành chính nhà nước
Quản lý và vai trò của quản lý
Bất kỳ một hoạt động nào cũng bao hàm trong đó hai yếu tố cơ bản: đó
là bản thân hoạt động và yếu tố quản lý do con người đảm nhận. Hoạt động tự
bản thân nó khơng có ý nghĩa mà cần có sự nhận thức và vận dụng sáng tạo
của con người. Nói cách khác, hoạt động bản thân nó khơng phản ánh điều gì

mà chỉ có thơng qua cơng tác quản lý của con người, nó mới bộc lộ hết ưu
điểm, nhược điểm. Trong bản thân hoạt động tồn tại những mâu thuẫn nhất
định mang tính tự thân và địi hỏi được giải quyết thông qua hoạt động quản
lý.
Như vậy, thông qua quản lý, các hoạt động trong xã hội được "vận
động", được điều chỉnh và hồn thiện, phát huy vai trị trong thực tiễn đời
sống. Đây là tác động vô cùng quan trọng của quản lý tới sự phát triển của xã
hội.
Quản lý là một hoạt động khách quan nảy sinh trong đời sống kinh tế
xã hội để đạt được mục tiêu tại một thời điểm nhất định do chủ thể quản lý
định trước. Một hoạt động quản lý bao giờ cũng bao gồm 3 yếu tố cơ bản:
- Chủ thể quản lý là con người hoặc tổ chức tác động lên đối tượng
quản lý bằng những công cụ với những phương pháp thích hợp theo những
nguyên tắc nhất định.
- Đối tượng quản lý là đối tượng tiếp nhận trực tiếp sự tác động của chủ
thể quản lý.

4


- Khách thể quản lý chịu sự tác động của chủ thể quản lý, có thể là con
người hoặc các q trình xã hội.
Như vậy có thể hiểu quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ
chức và định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng nhất định để điều
chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm duy trì tính ổn định
và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định.
Xã hội càng phát triển, với nhiều công nghệ mới ra đời, các hoạt động
càng đa dạng và phong phú thì nội dung của quản lý mở rộng hơn và yêu cầu
đối với quản lý phức tạp hơn. Tuy nhiên, trong bất kỳ điều kiện xã hội nào
cũng cần xem xét quản lý trong mối quan hệ tác động với 05 nhóm yếu tố

sau: yếu tố con người, yếu tố tổ chức, yếu tố chính trị, yếu tố quyền lực và
yếu tố thơng tin.
Quản lý hành chính nhà nước
Khái niệm
Trong xã hội, do sự tồn tại của nhiều tổ chức và nhiều thành phần kinh
tế, tùy theo từng chủ thể kinh tế mà quản lý được hiểu và vận dụng khác nhau.
Hiểu theo nghĩa rộng, quản lý hành chính là hoạt động quản lý, điều
hành cơng việc của mọi tổ chức nhà nước cũng như của doanh nghiệp, các tổ
chức chính trị, xã hội... theo chức năng và điều lệ của tổ chức.
Trong quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước được hiểu là một
dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà
nước để tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của
con người. Như vậy, có thể hiểu quản lý hành chính nhà nước là hoạt động
hành chính của các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước để quản lý, điều hành
các lĩnh vực của đời sống xã hội theo luật pháp.
Chủ thể củ quản lý hành chính nhà nước gồm có: Chính phủ và cơ quan
chính quyền địa phương các cấp (không bao gồm các tổ chức thuộc Nhà nước

5


nhưng không nằm trong cơ cấu quyền lực như các doanh nghiệp và các đơn vị
sự nghiệp), các cơ quan quyền lực nhà nước trong lĩnh vực lập pháp, tư pháp
khơng thuộc hệ thống quản lý hành chính nhưng trong cơ chế vận hành của
mình cũng có cơng tác hành chính.
Cơng tác quản lý hành chính nhà nước được thực hiện phải dựa trên cơ
sở các văn bản pháp quy đã được ban hành. Thơng qua quản lý hành chính
nhà nước, các văn bản pháp quy này được vận dụng vào thực tiễn đời sống xã
hội bằng việc tổ chức, điều hành, kiểm tra, đánh giá của các chủ thể quản lý.
Ở nước ta, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền

hành pháp của Nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người do các cơ quan trong hệ thống chính phủ từ trung ương
đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước
nhằm duy trì và phát triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự tư pháp của
con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cách hiểu như trên về quản lý hành chính nhà nước bao hàm 3 nội
dung sau:
- Quản lý hành chính nhà nước, bản thân nó khơng phải là quyền lực
chính trị mà là sự vận dụng quyền lực chính trị để thực thi quyền hành pháp.
Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất thực hiện quyền hành pháp cao nhất
đối với toàn dân và tồn xã hội. Chính phủ thực hiện chức năng của mình
thơng qua hệ thống thể chế hành chính của nền hành chính nhà nước và được
coi là cơ quan quản lý hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tổ chức và có điều
chỉnh.
Tổ chức được coi là chức năng quan trọng nhất của quản lý hành chính
nhà nước. Đó là việc thiết lập các mối quan hệ giữa con người với con người,

6


giữa các tập thể để thực hiện quản lý hành chính nhà nước trong một q trình
xã hội. Như vậy, để quản lý thì trước tiên phải thực hiện tổ chức, coi tổ chức
như một sự sắp xếp định hướng ban đầu, khơng có tổ chức thì khơng thể quản
lý được.
Điều chỉnh là sự quy định về mặt pháp lý thể hiện bằng các quyết định
quản lý về quy tắc, tiêu chuẩn, biện pháp... nhằm tạo sự phù hợp giữa chủ thể
và khách thể quản lý, tạo sự cân bằng, cân đối các mặt hoạt động của các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người.

- Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động bằng quyền lực nhà
nước. Chủ thể quản lý căn cứ vào hệ thống luật pháp và nguyên tắc pháp chế
để tác động tới đối tượng quản lý. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, chủ
thể quản lý phải quán triệt những ngun tắc nhất định để đảm bảo tính cơng
bằng và nghiêm minh:
+ Ra quyết định quản lý phải dựa trên cơ sở luật pháp.
+ Nghiêm túc thực hiện các quy trình và thủ tục.
+ Đánh giá đúng thực chất của hành vi để ra quyết định đúng đắn.
+ Thực hiện đầy đủ và nghiêm minh nguyên tắc pháp chế trong quản
lý, chống phong cách qua loa, nể nang, tùy tiện trong quản lý.
+ Kết hợp pháp lý và đạo lý trong quản lý.
Đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước là một dạng quản lý xã hội nói chung
nhưng nó là dạng quản lý xã hội đặc biệt. những đặc điểm "đặc biệt" của quản
lý hành chính nhà nước cho phép phân biệt dạng quản lý này với các dạng
quản lý xã hội khác. Quản lý hành chính nhà nước có các đặc điểm cơ bản
sau:

7


- Quản lý hành chính nhà nước có tính quyền lực đặc biệt, thể hiện
mệnh lệnh đơn phương của chủ thể quản lý và tính chấp hành vơ điều kiện
của khách thể quản lý hành chính nhà nước.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có mục tiêu chiến lược, có
chương trình và kế hoạch để thực hiện mục tiêu.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt
trong việc điều hành, phối hợp để huy động mọi lực lượng phát huy hết sức
mạnh để thực hiện luật pháp, chính sách và mệnh lệnh của cấp trên trong
khuôn khổ phân công, phân cấp, đúng thẩm quyền và đúng nguyên tắc tập

trung dân chủ.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục và tương đối ổn định.
- Quản lý hành chính nhà nước có tính chun mơn hóa và nghề nghiệp
cao. Quản lý hành chính nhà nước được coi là một nghề tổng hợp, phức tạp và
sáng tạo nhất trong các nghề.
Quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa là một dạng quản lý đặc
biệt hơn cả vì ngồi các đặc điểm chung của quản lý hành chính nhà nước nói
chung cịn mang những đặc điểm riêng như sau:
- Quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa khơng có sự tách biệt
tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý.
- Quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa khơng vụ lợi. Ở đây,
Quản lý hành chính nhà nước khơng có mục đích tự thân mà tồn tại vì xã hội,
phục vụ lợi ích cơng cộng và lợi ích nhân dân.
- Quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân đạo.
Những đặc điểm riêng có của Quản lý hành chính nhà nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa xuất phát từ bản chất của Nhà nước dân chủ xã hội chủ
nghĩa: Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả các hoạt động của nền hành
chính nhà nước đều có mục tiêu phục vụ con người, tơn trọng quyền và lợi ích

8


hợp pháp của cơng dân, coi đó là xuất phát điểm của hệ thống luật, thể chế,
quy tắc và thủ tục hành chính.
Phạm vi của quản lý hành chính nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước được thể hiện trong thực tiễn đời sống xã
hội là các mục tiêu, nhiệm vụ, chức năng hoạt động cụ thể của từng cơ quan
hành chính nhà nước. Tất cả các cơ quan hành chính ở trung ương và địa
phương đều có mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền; có cơ
cấu tổ chức và đội ngũ công chức tương ứng để thực hiện chức năng hành

pháp trong hành động về các lĩnh vực và các mặt sau:
- Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao,
an ninh, quốc phịng.
- Quản lý hành chính nhà nước về tài chính, NSNN, kế tốn, kiểm tốn,
quản lý tài sản và cơng sản.
- Quản lý hành chính nhà nước về khoa học, công nghệ, tài nguyên
thiên nhiên và môi trường.
- Quản lý hành chính nhà nước về nguồn nhân lực và phát triển nguồn
nhân lực, đặc biệt là xây dựng và phát triển đội ngũ công chức nhà nước.
- Quản lý hành chính nhà nước về tổ chức bộ máy hành chính.
Quy trình của quản lý hành chính nhà nước
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của từng nội dung quản lý hành chính
nhà nước nêu trên, một quy trình hoạt động của quản lý hành chính nhà nước
đã được xây dựng và là yêu cầu bắt buộc tuân thủ đối với các cơ quan hành
chính, các viên chức lãnh đạo và công chức ở các ngành, các cấp. Quy trình
được cụ thể gồm 7 bước sau:
- Quy hoạch, kế hoạch
Chính phủ, các Bộ ngành, các chính quyền địa phương phải xây dựng
và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, địa phương dựa

9


trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế, xã hội được hoạch định trong đường
lối của Đảng và được Quốc hội thơng qua.
- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Xây dựng bộ máy tinh gọn, đảm bảo sự điều hành tập trung, thống
nhất, thông suốt, linh hoạt, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn
đề do Nhà nước đặt ra và nhân dân đòi hỏi.
- Sắp xếp, bố trí và quản lý nhân sự

Nội dung này gồm có: sắp xếp lại cán bộ và tiêu chuẩn hóa đội ngũ
cơng chức; xây dựng đội ngũ cơng chức có uy tín về chính trị, có phẩm chất
đạo đức, giỏi chun mơn, có trách nhiệm khi thi hành cơng vụ; tổ chức hệ
thống quản lý và đánh giá công chức.
- Ra sức quyết định hành chính và tổ chức thực hiện quyết định
Để ra quyết định hành chính và tổ chức thực hiện quyết định một cách
hiệu quả cần tiến hành tập hợp đầy đủ thông tin, xử lý thông tin để đề ra các
phương án khác nhau, trên cơ sở thẩm định các phương án để lựa chọn
phương án có hiệu quả nhất, từ đó ban hành quyết định hành chính.
- Phối hợp
Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp hiệu quả. "Phối hợp" được hiểu
là tạo đồng bộ hoạt động theo cấp và phân hệ trong hệ thống hành chính. Việc
phối hợp được thực hiện giữa các cơ quan hành chính với các tổ chức xã hội,
tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp... để thực hiện các quyết định quản lý.
- Sử dụng nguồn tài lực
Có 3 nội dung cần thực hiện để sử dụng nguồn tài lực trong q trình
quản lý hành chính nhà nước. Đó là: xây dựng ngân sách, chú trọng khai thác
nguồn thu nhất là thuế; sử dụng hiệu quả ngân sách đúng chế độ, đúng chủ
trương ngân sách; quản lý chặt chẽ tài sản công bao gồm cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc...

10


- Giám sát, kiểm tra, báo cáo, tổng kết, đánh giá
Sau khi có quyết định phải tổ chức triển khai kịp thời. Tạo lập một hệ
thống giám sát, kiểm tra thực sự có hiệu quả, thường xuyên để có biện pháp
điều chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó, việc báo cáo - tổng kết - đánh giá giúp cán
bộ lãnh đạo rút kinh nghiệm qua thực tiễn quản lý để có giải pháp nâng cao
chất lượng công tác trong thời gian tới.

1.1.2. Quản lý thuế
Thuế và hệ thống thuế
Khái niệm, đặc điểm và chức năng của thuế
Thuế ra đời là một sự cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn
tại và phát triển của bộ máy nhà nước. Nhà nước ra đời và để duy trì sự tồn tại
của mình, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để huy động một bộ
phận của cải trong xã hội để chi phí cho bộ máy hành chính nhà nước. Việc
huy động này chỉ có thể được thực hiện bằng cách bắt buộc sự đóng góp của
các cá nhân trong xã hội. Đó là lý do làm xuất hiện phạm trù thuế. Từ khi ra
đời, thuế được nhìn nhận dưới rất nhiều quan điểm khác nhau.
Khái quát toàn bộ các trường phái lý thuyết thuế khác nhau có thể thấy
thuế có những đặc trưng chung chủ yếu sau:
- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ phát
sinh giữa Nhà nước với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.
- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách
khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt.
- Theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được
pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Với những nét chung nêu trên có thể nhận thức một cách tồn diện về
thuế như sau: Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể

11


nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy
định, nhằm sử dụng cho mục đích cơng cộng.
Thuế có những đặc điểm riêng có giúp phân biệt thuế với các hình thức
động viên khác của Nhà nước.
- Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong xã
hội cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự.

Nhà kinh tế học nổi tiếng Joseph E.Stiglit cho rằng: "Thuế khác với đa
số những khoản chuyển giao tiền từ người này sang người kia: trong khi tất cả
các khoản chuyển giao đó là tự nguyện thì thuế lại là bắt buộc". Đây chính là
đặc điểm để phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của
NSNN. Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền
tệ được hình thành một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt. Việc
phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là phương thức phân
phối của Nhà nước mà kết quả của q trình đó là một bộ phận thu nhập của
người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm một sự cấp
phát hoặc quyền lợi trực tiếp nào cho người nộp thuế.
Tính bắt buộc của thuế được bắt nguồn từ những lý do sau:
Trong xã hội, Nhà nước là chủ thể chủ yếu sản xuất và cung cấp hàng
hóa cơng cộng để phục vụ nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Bởi những
hàng hóa cơng cộng có tính chất đặc biệt: nó khơng thể phân bổ theo khẩu
phần và những người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo khẩu phần.
Mặt khác, hàng hóa cơng cộng khơng có tính cạnh tranh và khơng thể đem
trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp các chi phí. Việc sử dụng các hàng
hóa cơng cộng cũng có tính chất đặc biệt, khơng xác định được ai sử dụng
nhiều, ai sử dụng ít và khơng ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng
hóa đó, nghĩa là đã xuất hiện những "người ăn khơng". Chính vì thế, khơng có
cá nhân - tổ chức nào muốn sản xuất và cung cấp loại hàng hóa này. Nhà

12


nước phải đứng ra đảm nhiệm theo đúng chức năng của nó. Để thực hiện chức
năng này, Nhà nước phải đặt ra sự đóng góp mang tính bắt buộc - thuế - để
buộc "người ăn không" phải chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực
công.
Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế khơng gắn với lợi ích

cụ thể nào của người nộp thuế nên không thể sử dụng phương pháp tự nguyện
trong việc chuyển giao. Như vậy, để đảm bảo nhu cầu chỉ tiêu công cộng, Nhà
nước phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập
phải chuyển giao một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế khơng có nội dung hình sự. Hành
động đóng thuế cho Nhà nước khơng phải là hành động xuất hiện khi có biểu
hiện phạm pháp. Hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của
người cơng dân với Nhà nước.
- Thuế là hình thức chuyển giao thu nhập khơng mang tính chất hồn
trả trực tiếp.
Các thể nhân và pháp nhân thực hiện chuyển giao một phần thu nhập
vào NSNN suy cho cùng sẽ nhận được các dịch vụ công cộng của Nhà nước.
Tuy nhiên, người nộp thuế cũng khơng có quyền địi hỏi Nhà nước phải cung
cấp hàng hóa dịch vụ cơng cộng trực tiếp cho mình thì mới thực hiện việc
chuyển giao thu nhập cho Nhà nước. Và mức độ thụ hưởng các dịch vụ và
hàng hóa cơng cộng do Nhà nước cung cấp cho người nộp thuế khơng hồn
tồn dựa trên mức thuế mà các đối tượng này chuyển giao cho Nhà nước.
Mức độ này phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu tài chính chung của Nhà nước.
- Thuế là hình thức chuyển giao thu nhập được quy định trước bằng
pháp luật.

13


Để huy động nguồn tài chính thơng qua thuế Nhà nước phải sử dụng
quyền lực của mình, quyền lực ấy được thể hiện bằng luật pháp. Đặc điểm
này thể hiện tính pháp lý cao của thuế. Trong q trình xây dựng hệ thống văn
bản pháp luật điều chỉnh hoạt động này Nhà nước không được tùy tiện mà
phải dựa trên những cơ sở khoa học nhất định.

- Thuế là một hình thức phân phối lại, chứa đựng yếu tố kinh tế - xã
hội.
Việc đánh thuế của Chính phủ khơng thể thốt ly khỏi yếu tố kinh tế,
xã hội bởi vì nguồn từ thuế chính là kết quả của q trình hoạt động kinh tế.
Khơng có hoạt động kinh tế hoặc hoạt động kinh tế kém hiệu quả không thể
tạo ra nguồn thu của thuế. Ngược lại, việc đánh thuế của Chính phủ tất yếu sẽ
ảnh hưởng đến q trình kinh tế, xã hội thông qua việc sử dụng nguồn lực tài
chính này để sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ cơng cộng, để duy trì và
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Thuế ra đời là một sự cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn
tại và phát triển của bộ máy nhà nước. Thuế được coi là một công cụ hữu ích
của Nhà nước trong điều tiết vĩ mơ nền kinh tế bởi nó có hai chức năng cơ
bản sau: chức năng huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước và chức năng
điều tiết.
- Thứ nhất, chức năng huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước
Xét về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức
năng đầu tiên phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế. Trong quá trình tồn tại
và phát triển của mình, chức năng của Nhà nước được mở rộng và phát triển,
nhu cầu chi tiêu tài chính ngày càng tăng. Huy động nguồn lực tài chính từ
thuế trở thành cấp thiết và thuế trở thành nguồn thu có tỷ trọng lớn nhất trong
NSNN.
- Thứ hai, chức năng điều tiết kinh tế

14


Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được nhận thức và sử dụng phổ
biến từ những năm đầu của thế kỷ XX. Việc tăng cường vai trò kinh tế xã hội
của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên đòi
hỏi Nhà nước phải mở rộng quỹ tài chính nhà nước để đáp ứng nhu cầu này.

Thuế với chức năng là kênh huy động nguồn lực chủ yếu của NSNN đã tạo
tiền đề khách quan cho sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế hay nói cách
khác, q trình thực hiện tập trung nguồn lực thông qua thuế đã làm xuất hiện
chức năng điều tiết kinh tế của thuế.
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế thể hiện thông qua việc quy định
các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và
đối tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến
khả năng của người nộp thuế. Thông qua việc đưa các quy định về thuế vào
thực tế đời sống, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo
chung và phù hợp với lợi ích của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, vai trị
kích thích kinh tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao, chức năng điều
tiết kinh tế của thuế được Nhà nước phát huy để tác động đến lợi ích kinh tế
của các chủ thể kinh tế vì lợi ích của xã hội.
Hai chức năng cơ bản của thuế có mối quan hệ biện chứng. Biểu hiện:
chức năng huy động nguồn lực tài chính xuất hiện cùng với sự ra đời của thuế
và được coi là chức năng cơ sở quy định sự tác động và sự phát triển của chức
năng điều tiết. Việc vận dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế làm cho
chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế có điều kiện phát triển.
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng thuế với hai chức năng cơ bản này,
cần nhận thức: một mặt, sự tăng cường chức năng huy động tập trung làm cho
thu nhập của Nhà nước tăng lên từ đó mở rộng khả năng thực hiện các
chương trình kinh tế xã hội của Nhà nước. Mặt khác, việc tăng cường chức
năng huy động một cách quá mức sẽ làm tăng gánh nặng thuế và hậu quả của

15


nó là làm giảm động lực kinh tế cũng có nghĩa là làm giảm hiệu quả của chức
năng điều tiết kinh tế. Từ đó, Nhà nước cần phân tích đúng đắn tính hai mặt
của sự tác động từ thuế trong q trình hoạch định chính sách thuế ở mỗi giai

đoạn phát triển kinh tế khác nhau để hai chức năng cơ bản của thuế bổ trợ hữu
ích cho nhau nhằm đạt mục tiêu chung của Nhà nước trong quản lý kinh tế xã
hội.
Hệ thống thuế
Một hệ thống thuế bao gồm các bộ phận chính sau: hệ thống chính sách
thuế và hệ thống các định chế về thuế.
- Hệ thống chính sách thuế. Đó là tổng hợp các hình thức thuế khác
nhau với cơ chế hoạt động, đối tượng điều chỉnh, phương pháp đánh thuế,
mức độ điều tiết và phương pháp thu nộp khác nhau, phản ánh mục tiêu điều
chỉnh kinh tế vĩ mô của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển
kinh tế của đất nước. Các hình thức thuế có mối quan hệ mật thiết, tác động
lẫn nhau nhằm thực hiện mục tiêu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Hệ thống chính sách thuế gồm có: các chính sách thuế trong phạm vi nội luật
và các thỏa thuận, cam kết quốc tế về thuế được ban hành dưới dạng các văn
bản quy phạm pháp luật về thuế (Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư, Hiệp
định về thuế...).
Các hình thức thuế nằm trong hệ thống thuế có thể được phân loại dựa
trên nhiều tiêu thức khác nhau. Trên thực tế thường sử dụng hai tiêu thức cơ
bản là phương thức đánh thuế và cơ sở đánh thuế để phân loại thuế.
* Phân loại theo phương thức đánh thuế: bao gồm thuế trực thu và thuế
gián thu.
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của
người nộp thuế. Đối tượng nộp thuế đồng nhất với đối tượng chịu thuế. Đây là
loại thuế mang tính lũy tiến vì có tính đến khả năng của người nộp thuế,

16


người có thu nhập cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp.
Thuế trực thu thường bao gồm sắc thuế đánh trên thu nhập của tổ chức và cá

nhân. Các sắc thuế trực thu ở nước ta bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế sử dụng đất nông nghiệp,
thuế nhà - đất...
Thuế gián thu là loại thuế đánh gián tiếp thơng qua giá cả hàng hóa,
dịch vụ. Người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ là người chịu loại thuế này. Đối
tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế khơng đồng nhất. Nó ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế giá cả thị trường. Đây là loại
thuế mang tính lũy thối vì nó khơng tính đến khả năng thu nhập của người
nộp thuế.
* Phân loại thuế theo cơ sở đánh thuế: bao gồm thuế thu nhập, thuế tiêu
dùng, thuế tài sản...
Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập
kiệm được. Khoản thu nhập này có thể có từ nhiều nguồn: từ lao động dưới
dạng tiền lương - tiền công, thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới
dạng lợi nhuận - lợi tức cổ phần... Từ đó quy định các loại thuế tương ứng:
thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp...
Thuế tiêu dùng là loại thuế có cơ sở đánh thuế là phần thu nhập của tổ
chức, cá nhân được mang ra tiêu dùng trong hiện tại. Các loại thuế trong
nhóm này gồm có: thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia
tăng...
Thuế tài sản là loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản, bao gồm
thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
Việc phân loại thuế theo các tiêu thức khác nhau như trên giúp xây
dựng một hệ thống chính sách thuế hiệu quả, phù hợp với năng lực quản lý

17


của ngành, tâm lý chung của xã hội và mục tiêu điều tiết thu nhập của Nhà
nước.

Tùy thuộc vào khả năng và ý đồ của Chính phủ trong việc điều chỉnh
sự vận động của các dòng thu nhập ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác
nhau và mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ mà
Chính phủ quy định số lượng hình thức thuế trong hệ thống chính sách thuế
nhiều hay ít. Nhìn chung, trong hệ thống thuế thường bao gồm các hình thức
thuế cơ bản sau: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu
nhập cá nhân, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế trước bạ, thuế
nhà đất,...
- Hệ thống các định chế về thuế. Đó là tổng hợp các quy định, các biện
pháp về nghiệp vụ, về tổ chức, về kinh tế và hành chính... và cơ chế vận hành
chúng nhằm tổ chức có hiệu quả việc thi hành các luật thuế như: các biện
pháp nghiệp vụ, các thủ tục, quy trình quản lý và thu thuế; bộ máy, trường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuế và hệ thống các tổ chức tư vấn, dịch vụ thuế...
Hệ thống thuế có hai tính chất cơ bản:
- Thứ nhất, tính tương hỗ
Các bộ phận của hệ thống thuế ln có quan hệ ảnh hưởng qua lại và
đó là mối quan hệ nhân quả. Chính sách thuế hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc
thực thi các luật thuế. Tuy nhiên, nếu hệ thống quản lý thuế không tốt thì dù
chính sách thuế có được xây dựng hợp lý thì việc triển khai các luật thuế sẽ
khơng đem lại hiệu quả như mong muốn.
- Thứ hai, tính khơng ổn định
Hệ thống thuế thay đổi để phù hợp với diễn biến kinh tế chính trị xã hội
của một quốc gia. Một phần tử của hệ thống thuế thay đổi đều làm nảy sinh
những thay đổi của những bộ phận khác. Hiệu quả của sự thay đổi phải được
tính trên hiệu quả của toàn hệ thống.

18


Để đánh giá hệ thống thuế của một quốc gia, chất lượng của hệ thống

thuế là yếu tố được đề cao hơn là số lượng các hình thức thuế trong hệ thống.
Mỗi quốc gia tùy theo điều kiện lịch sử kinh tế, xã hội ở các giai đoạn khác
nhau mà định hướng xây dựng hệ thống thuế riêng của mình. Hệ thống thuế
đó phải phản ánh được những mục tiêu của Nhà nước đặt ra. Vì vậy, việc tìm
ra những tiêu thức chung để đánh giá một hệ thống thuế có hiệu quả hay
khơng khơng phải đơn giản. Tuy nhiên, trên cơ sở xem xét các yêu cầu chung
của sự phát triển nền kinh tế quốc dân cũng như đòi hỏi của một xã hội dân
chủ trong việc xác lập một hệ thống thuế tích cực, phù hợp và hiệu quả, có thể
thơng qua một số tiêu thức để đánh giá.
Trong tác phẩm "Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của
nhân loại" nhà kinh tế học Adam Smith đã vạch ra bốn nguyên tắc cơ bản xây
dựng hệ thống thuế hợp lý, đó là: "thuế phải huy động phù hợp với khả năng
và sức lực của dân cư; mức thuế và thời hạn thanh toán phải được xác định
chính xác; thời gian thu thuế cần được quy định thuận lợi đối với người nộp
thuế; các chi phí để tổ chức thu nộp thuế cần phải rất thấp.
Đây là những nguyên tắc nền tảng để các nhà kinh tế học hiện đại hoàn
chỉnh, bổ sung và khái quát thành những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá một hệ
thống thuế hiệu quả và là kim chỉ nam để xây dựng hệ thống chính sách thuế
ở các nước có nền kinh tế thị trường. Hệ thống tiêu chuẩn của một hệ thống
thuế hiện đại là: tính cơng bằng, tính hiệu quả, tính linh hoạt, tính thơng lệ và
cạnh tranh quốc tế. Các tiêu chuẩn này là thống nhất và hỗ trợ cho nhau cùng
phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng để xây dựng hệ thống thuế có
những mâu thuẫn phát sinh đòi hỏi Nhà nước phải cân nhắc và xử lý hài hịa
để phù hợp với hồn cảnh kinh tế đất nước và đặt trong các mối quan hệ kinh
tế khu vực và quốc tế có liên quan.

19


Vận dụng vào tình hình thực tiễn nước ta hiện nay thì hệ thống thuế cần

đảm bảo các tiêu thức cụ thể sau:
- Thuế phải bao quát hết nguồn thu để quản lý và thu cho NSNN.
- Thuế phải là cơng cụ điều tiết vĩ mơ nền kinh tế có hiệu quả góp phần
khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư và khuyến
khích tối đa cho xuất khẩu nhằm thực hiện thành cơng cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
- Thuế phải góp phần động viên cơng bằng, hợp lý thu nhập xã hội.
- Chính sách thuế khoa học, đơn giản, cụ thể, dễ hiểu, dễ làm, phù hợp
với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với thế
giới, phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước trong từng thời kỳ cũng như
truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc.
Trong quá trình đưa hệ thống thuế vào thực tiễn sẽ có những tác động
nhất định đến đời sống kinh tế xã hội đất nước, đó chính là vai trò của thuế.
Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
Vai trò của thuế là biểu hiện cụ thể chức năng của thuế trong những
điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của
thuế được thể hiện trên những mặt sau:
- Thuế là công cụ chủ yếu tập trung nguồn thu cho NSNN
Có nhiều hình thức huy động nguồn lực tài chính mà Nhà nước có thể
sử dụng trong q trình hoạt động, đó là: phát hành thêm tiền; phát hành trái
phiếu để vay trong nước và ngoài nước; bán một phần tài sản quốc gia; thu
thuế... Trong đó, thuế là công cụ chủ yếu và quan trọng nhất. Bởi công cụ
thuế có ưu điểm hơn so với các cơng cụ khác:
Thứ nhất, thuế là cơng cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn.
Đối tượng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân và phát sinh
nguồn thu nhập nộp thuế.

20




×