Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.83 KB, 63 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAI THỊ HOÀI THƯƠNG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

Luan van


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAI THỊ HOÀI THƯƠNG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN


HÀ NỘI, năm 2020

Luan van


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên địa bàn tỉnh Bình Định, tội vi phạm quy định (VPQĐ) về tham gia giao
thơng đường bộ (GTĐB) những năm qua có những diễn biến khá phức tạp về số vụ,
số người chết, bị thương, cũng như những thiệt hại về vật chất cho cá nhân và xã
hội, để lại nhiều di chứng đáng tiếc cho người bị hại, có người bị thương tật suốt đời
là gánh nặng cho gia đình, người thân và cộng đồng xã hội. Theo thống kê của Ban
ATGT tỉnh Bình Định, từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 1.466
vụ tai nạn và va chạm GTĐB, làm chết 817 người, bị thương 1.102 người, gây thiệt
hại trên 8 tỷ đồng [7].
Từ thực trạng trên, từ khi Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã có nhiều chủ trương,
kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện nhiều giải pháp đảm bảo trật tự, an tồn
giao thơng trên địa bàn tỉnh nhằm đưa Điều 260 BLHS hiện hành đi vào cuộc sống
và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tình hình trật tự, an tồn giao thơng
có những chuyển biến, tai nạn giao thơng đã được kiềm chế, giảm liên tiếp về số
vụ, số người chết và số người bị thương. Đồng thời đã đề ra nhiều chủ trương, giải
pháp cụ thể để ngăn chặn, nhằm phấn đấu làm giảm loại tội phạm này trên địa
bàn. Mặc dù trong q trình xét xử, Tịa án ln áp dụng những hình phạt nghiêm
khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi của bị cáo gây ra,
đủ sức răn đe, giáo dục phòng ngừa chung trong tình trạng vi phạm ATGT, đã góp
phần đấu tranh phịng, chống tội này trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Tuy nhiên, tình hình TNGT trên địa bàn tỉnh Bình Định vẫn xảy ra khá nhiều
với hàng trăm vụ, làm chết hàng trăm người mỗi năm. Tình hình trên đã tác động

lớn đến công tác đảm trật tự ATGT trên địa bàn tỉnh, trong đó có những vụ TNGT
đặc biệt nghiêm trọng gây thiệt hại về người và tài sản, tình trạng uống rượu, bia
điều khiển phương tiện tham gia giao thông gây tai nạn vẫn chứa đựng nhiều nguy
cơ tiềm tàng gây mất ổn định về trật tự ATGT trên địa bàn tỉnh, đây là vấn đề toàn
1

Luan van


xã hội quan tâm, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội
và hình ảnh của Bình Định nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung với bạn bè
quốc tế. Trước tình hình đó, việc đấu tranh phịng, chống tội VPQĐ về tham gia
GTĐB trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Từ các lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Bình Định” để làm Luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ luật học với mong muốn được trình bày một số quan điểm của mình về vấn
đề cần thiết này, đồng thời tìm ra những nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, sai sót
trong q trình áp dụng pháp luật đối với tội phạm này trên địa bàn tỉnh. Từ đó, có
cơ sở vững chắc đưa ra một số kiến nghị và đề xuất khoa học nhằm đảm bảo áp
dụng đúng pháp luật trong công tác xét xử của ngành Tịa án để góp phần đấu tranh
có hiệu quả hơn đối với tội phạm này trong thời gian đến.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến thời điểm hiện tại đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu khoa
học của nhiều tác giả đã đề cập đến các vấn đề liên quan đến tội VPQĐ về tham gia
GTĐB. Các cơng trình khoa học nêu trên đa số tập trung chủ yếu đi sâu nghiên cứu
về hoạt động đấu tranh đối với tội VPQĐ về tham gia giao thông và chưa tập đề cập
thực trạng, phân tích hạn chế bất cập, nguyên nhân rồi từ đó mới đưa ra giải pháp
phịng, chống tội VPQĐ về tham gia GTĐB có tính thực thi và hiệu quả tối ưu nhất.
Nghiên cứu những cơng trình trên, tác giả thấy rằng đều nghiên cứu tình hình
tội VPQĐ về tham gia GTĐB ở nhiều địa bàn khác nhau và trong góc độ nào đó đã

đề cập đến các dấu hiệu của tội phạm này, tình hình cơng tác đấu tranh, phòng
chống và TNHS đối với loại tội này… trong khi đó chưa có cơng trình nào nghiên
cứu một cách chuyên sâu, khoa học và có hệ thống về tội VPQĐ về tham gia GTĐB
theo BLHS 2015 trên cơ sở đặc điểm địa lý, dân cư, về kinh tế, chính trị trên địa
bàn tỉnh nhà Bình Định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là đánh giá những điểm, quy định mới của
2

Luan van


quy định pháp luật về trông BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và áp dụng
thực tế. Kết quả nghiên cứu đã đạt được nhiều đánh giá hiệu quả cũng như làm sáng
tỏ những hạn chế của về tội VPQĐ về tham gia GTĐB ở nước ta.
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và quy định pháp quy về cũng như
đánh giá thực tiễn xét xử tội VPQĐ về việc tham gia GTĐB theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định trong giai đoạn 5 năm (2015 - 2019).
- Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội
VPQĐ về tham gia GTĐB và đưa ra một số kiến nghị trên cơ sở nghei6n cứu khoa
học với mong muốn sửa đổi, bổ sung một số hạn chế, bất cập trong quy định của
pháp luật hiện hành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề xuất các giải pháp khoa học, lô gic nhằm đảm bảo áp dụng đúng pháp luật
hình sự về tội VPQĐ về tham gia GTĐB và đưa ra một số kiến nghị đảm bảo tính khả
thi với mong muốn sửa đổi, bổ sung một số hạn chế, bất cập trong quy định của pháp
luật hiện hành.
- Đưa ra các dự báo khoa học về tình hình có liên quan và tình trạng người
tham gia phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Định trong

thời gian tới và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
theo chức năng của lực lượng thực thi pháp luật của địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam tội VPQĐ
về tham gia GTĐB và thực tiễn xét xử về tội vi phạm quy định điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ tai Tòa án 02 cấp tịa địa phương Bình Định trong giai
đoạn 5 năm (2015 -2019) để nghiên cứu các nội dung nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự về tội VPQĐ về tham gia GTĐB từ thực tiễn tại địa phương tỉnh Bình Định,
tác giả cịn viện dẫn các ví dụ chứng minh hành vi vi phạm của người tham gia giao
3

Luan van


thông đường bộ từ thực tiễn của địa phương tỉnh Bình Định trong giai đoạn 5 năm
(2015 – 2019) để nghiên cứu.
Địa bàn nghiên cứu: Được giới hạn tại địa phương tỉnh Bình Định.
Với thời gian nghiên cứu: Được xác định từ năm 2015 đến năm 2019.
Chủ thể nghiên cứu: Tịa án nhân dân hai cấp địa phương tỉnh Bình Định.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở nghiên cứu khách quan, khoa học đảm bảo tính khả thi cao trong q
trình thực hiện luận văn. Dựa vào quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước Việt Nam để đưa ra cách nhìn nhận, đánh giá và giải quyết các vấn đề lý
luận chung đối với tội VPQĐ về tham gia GTĐB, hay về định tội danh và áp dụng
TNHS đối với tội VPQĐ về tham gia GTĐB.
Khái quát về các vi phạm quy định về an tồn giao thơng đường bộ như nêu

rõ khái niệm, phân loại tội phạm vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ,
các loại phương tiện giao thông đường bộ, định tội danh, hình phạt,…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chính sách chủ trương của Đảng cộng sản
Việt Nam; pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về phịng
ngừa vi phạm hành chính về TTATGT nói chung và hành vi điều khiển phương tiện
giao thông cơ giới đường bộ quy định của lực lượng Cảnh sát giao thơng nói riêng.
Phương pháp phân tích, trao đổi, tổng hợp: Tiến hành phân tích số liệu về vi
phạm điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ quy định trên địa bàn
tỉnh Bình Định cả về số vụ vi phạm, đối tượng vi phạm, tính chất, địa bàn, mức độ
vi phạm… Chủ động gặp gỡ người có kinh nghiệm trong cơng tác tham mưu, trực
tiếp thực hiện các biện pháp phòng ngừa hành vi vi phạm này trên địa bàn tỉnh. Từ
đó có thể tổng hợp, đánh giá, xác định những định hướng nghiên cứu, những kinh
nghiệm, những đề xuất khả thi có thể vận dụng trong q trình hồn thành đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
4

Luan van


Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, phát triển lý luận tội VPQĐ
về vấn đề tham gia GTĐB. Ngồi ra, luận văn cịn có ý nghĩa quan trong trong việc
cứu, học tập dành cho học sinh sinh viên các trường trọng hệ thống giáo dục quốc dân.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những giải pháp của luận văn sẽ giúp lực lượng CSGT tham khảo, áp dụng
trực tiếp vào thực tiễn hoạt động phòng ngừa hành vi điều khiển phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ quy định trên các tuyến, địa bàn giao thơng đường bộ nói
chung và rên địa bàn tỉnh Bình Định nói riêng và các các cơ quan khác tại các địa
phương trong 63 tỉnh thành cả nước sử dụng để tham khảo, áp dụng hoặc nghiên

cứu trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội VPQĐ về tham gia GTĐB theo
BLHS hiện hành.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định và pháp luật về tội
tham gia giao thông đường bộ.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng pháp luật
hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở nước ta.

5

Luan van


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VỀ
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định và pháp
luật về tội tham gia giao thơng đường bộ theo Luật hình sự hiện hành.
1.1.1. Khái niệm về tội vi phạm quy định và pháp luật về tội tham gia giao
thông đường bộ
Theo khoản 1 điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 “Vi phạm là hành
vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý vi
phạm hành chính” [39]. Như vậy, vi phạm hành chính gồm các đặc trưng: Là hành
vi trái pháp luật, xâm phạm các quy tắc quản lý pháp luật của nhà nước; đây là hành
vi có lỗi của cá nhân, tổ chức thực hiện, đối với tổ chức yếu tố lỗi phải được xác
định với từng con người cụ thể; hành vi vi phạm hành chính được pháp luật quy
định phải xử lý vi phạm hành chính và hành vi vi phạm đó khơng phải là tội phạm.

Theo Luật giao thông đường bộ năm 2008. Khoản 18 điều 3 quy định:
“Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo;
rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe
mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự” [38].
Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là yếu tố đặc trưng cơ bản của hoạt
động giao thơng, nó phản ánh tính nhanh chóng, hiệu quả trong q trình tham gia
giao thơng. Vì thế, người ta ln tìm mọi cách để nâng cao tốc độ khi tham gia giao
thông nhằm rút ngắn thời gian, chi phí cho hoạt động giao thơng vận tải.
Tuy nhiên, cũng ảnh hưởng rất lớn đến an tồn giao thơng. Thực tế đã chứng
minh khi tốc độ càng cao thì hoạt động giao thơng càng nhanh chóng, thuận lợi
nhưng yếu tố an toàn càng bị hạ thấp, các yếu tố nguy hiểm xuất hiện bất ngờ, thời
gian xử lý ngắn làm cho tai nạn, va chạm không những dễ xảy ra mà khi đã xảy ra thì
mức độ hậu quả thiệt hại cũng tăng lên gấp nhiều lần do tác động của lực quán tính
chuyển động (động năng) q lớn. Chính vì vậy, để bảo đảm an tồn giao thơng và
6

Luan van


hạn chế tới mức thấp nhất nguy cơ dẫn tới TNGT do nguyên nhân tốc độ của phương
tiện giao thông cơ giới, tất cả các quốc gia trên thế giới đều quy định tốc độ tối đa cho
phép khi tham gia giao thông đường bộ đối với từng loại phương tiện cơ giới.
Để đáp ứng yêu cầu vận tải nước ta hiện nay, hệ thống đường bộ đang dần
được cải thiện và nâng cấp, song song với nó là sự đầu tư về các phương tiện giao
thông hiện đại, trọng tải cao. Khi các tuyến đường được cải tạo, phương tiện giao
thơng hiện đại hơn thì tốc độ xe được nâng cao hơn, điều này giúp kinh tế, xã hội
phát triển nước ta ngày càng phát triển. Việc nâng cấp hệ thống đường bộ, cầu
đường giúp việc đi lại, vận chuyển hàng hóa, hành khách được thuận lợi, phục vụ
tốt cho việc thơng thương, tiết kiệm thời gian chi phí, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển…. Cùng với việc cải thiện, nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ thì ở mỗi

đoạn đường cần phải có quy định về tốc độ phù hợp, thường xuyên thực hiện công
tác tuyên truyền vận động quần chúng về Luật giao thông và xử lý nghiêm khắc đối
với các hành vi quy định. Điều này sẽ giúp người điều khiển thực hiện đúng quy
định khi tham gia giao thông, đảm bảo trật tự, an tồn giao thơng.
Tuy nhiên, khi người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ vi
phạm quy định với từng loại xe trên từng tuyến đường cụ thể sẽ dẫn tới việc vi
phạm về tốc độ, nó liên quan trực tiếp đến việc gây mất an toàn giao thông, là
nguyên nhân trực tiếp gây TNGT đường bộ với hậu quả thiệt hại tỷ lệ thuận với độ
lớn của tốc độ di chuyển.
Vậy “Hành vi điều khiển xe cơ giới chạy quá tốc độ quy định là hành vi có
lỗi của người lái xe vi phạm vào các quy định về tốc độ tối đa được phép lưu thông
trên đường bộ mà không phải tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý
vi phạm hành chính”.
Mục đích của việc xử lý hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ điều khiển xe cơ giới chạy quá tốc độ quy định là nhằm ngăn chặn hành
vi vi phạm nguy hiểm này để bảo đảm TTATGT, đồng thời qua xử lý giúp giáo dục
nâng cao tính tự giác chấp hành pháp luật về TTATGT của người dân, đặc biệt là
việc chấp hành quy định về tốc độ khi điều khiển xe cơ giới tham gia giao thông
7

Luan van


đường bộ [35, tr.3].
1.1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ
- Giai đoạn từ năm 1945 đến 1999
Hoạt động giao thông vận tải trên đường bộ là hoạt động phổ biến và có vai
trị quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên cũng đem đến các
ảnh hưởng tiêu cực. Qua các nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế đặt ra yêu cầu

phải đề ra các quy định luật pháp về hoạt động này một cách cụ thể, rõ ràng đảm
bảo ổn định chung cho giao thông đường bộ, kịp thời nắm bắt tình hình Bộ Cơng an
đã tham mưu với Đảng và Nhà nước ra các quy định về vận tải hành vi điều khiển
xe cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định: Căn cứ điều 12 Luật giao thông
đường bộ năm 2008 quy định Người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng
phải tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường và phải giữ một khoảng cách
an toàn đối với xe chạy liền trước xe của mình; ở nơi có biển báo [38].
- Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1999 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
Trong các quy định về ATGT vận tải BLHS 1985 và quy phạm pháp luật quy
định về tham gia GTĐB tại Điều 202 Bộ luật hình sự 1999, tác giả có sự so sánh:
Thứ nhất: Trong hoạt động giao thơng đường bộ thì phòng ngừa các hành vi
vi phạm pháp luật về TTATGT nói chung là một hoạt động cơng tác của các cơ
quan quản lý nhà nước về TTATGT nhằm chủ động ngăn chặn không để cho các
hành vi vi phạm này diễn ra gây mất TTATGT. Công tác này do nhiều ngành, nhiều
lực lượng cùng tham gia tiến hành thực hiện, trong đó có lực lượng CSGT là lực
lượng được Đảng, Nhà nước và ngành Công an giao trọng trách bảo đảm TTATGT
trên đường bộ. Trong q trình tiến hành cơng tác phòng ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật về TTATGT đường bộ nói chung và điều khiển phương tiện giao thơng cơ
giới đường bộ quy định nói riêng, lực lượng CSGT cần dựa trên các quy định của
pháp luật giao thông đường bộ và các văn bản dưới luật có liên quan. Đồng thời,
huy động mọi lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật để tiến hành các biện
8

Luan van


pháp phòng ngừa theo chức năng, nhiệm vụ được giao để ngăn chặn, xử lý và loại
bỏ những nguyên nhân, điều kiện dẫn tới hành vi vi phạm TTATGT nói chung và
hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ vi phạm quy định nói

riêng, khơng để chúng diễn ra gây mất TTATGT.
Nói cách khác, phịng ngừa hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ
giới đường bộ vi phạm quy định theo chức năng của lực lượng CSGT là việc lực
lượng CSGT tiến hành thực hiện các biện pháp công tác nhằm tác động đến người
điều khiển phương tiện tham gia giao thông cơ giới đường bộ để họ chấp hành
nghiêm chỉnh quy định về tốc độ khi tham gia giao thông đường bộ, không nhằm
mục đích cá nhân mà thiếu ý thức chấp hành, chạy quá tốc độ quy định gây nguy
hiểm cho người và phương tiện khác khi tham gia giao thông. Đồng thời, tìm ra
những lý do khiến cho hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
chạy quá tốc độ quy định vẫn thường xuyên xảy ra, từ đó có những giải pháp ngăn
chặn phù hợp, kịp thời.
1.1.3. Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định và pháp luật về tội
tham gia giao thông đường bộ
Theo quy định tại khoản 22 Điều 3 Luật GTĐB năm 2008 thì “Người tham
gia giao thơng gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia GTĐB;
người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ” [35. tr, 3]. Vì vậy cần
xác định rõ và cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm này với điều kiện tham gia
GTĐB, như sau:
- Khách thể của tội vi phạm
Khách thể của hành vi tham gia phương tiện giao thông cơ giới đường bộ vi
phạm quy định của lực lượng CSGT là quá trình lực lượng CSGT tiến hành các biện
pháp công tác quản lý TTATGT theo chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm phát
hiện, đấu tranh, ngăn chặn những nguyên nhân, điều kiện dẫn tới hành vi điều khiển
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định của người lái xe.
Việc tiến hành các nội dung công tác quản lý TTATGT của lực lượng Cảnh sát giao
thông là biện pháp nghiệp vụ công khai, dựa trên các văn bản, quy định của pháp
9

Luan van



luật và quy định, quy trình cơng tác của ngành Cơng an. Trong q trình tiến hành
các nội dung cơng tác lực lượng CSGT phải tuân thủ và chấp hành theo đúng quy
định của pháp luật, quy trình cơng tác và giữ đúng lễ tiết, tác phong, điều lệnh Công
an nhân dân, văn hóa giao tiếp ứng xử khi tiếp xúc với quần chúng nhân dân. Do
vậy, hoạt động phòng ngừa hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ chạy quá tốc độ quy định của lực lượng Cảnh sát giao thông là hoạt động
công khai, dựa trên quy định của pháp luật về bảo đảm TTATGT.
- Mặt khách quan của tội phạm
TTATGT là một hoạt động rất rộng, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp
và nhiều lực lượng khác nhau và có liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Mặt
khách quan của hành vi này là tiến hành có hiệu quả các nội dung, biện pháp cơng
tác quản lý TTATGT địi hỏi giữa các ngành, các cấp và các lực lượng có liên quan
phải phối hợp tiến hành đồng bộ các biện pháp công tác. Đồng thời phải biết tranh
thủ, vận động sự ủng hộ, giúp đỡ của đông đảo quần chúng nhân dân. Trong cơng
tác phịng ngừa vi phạm pháp luật về TTATGT nói chung và phịng ngừa hành vi
điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định nói
riêng, lực lượng CSGT khơng chỉ thực hiện các biện pháp phòng ngừa theo quy
định của pháp luật như: Tổ chức chỉ huy, điều khiển giao thông; tuyên truyền, vận
động quần chúng chấp hành pháp luật giao thơng đường bộ; tuần tra, kiểm sốt và
xử lý vi phạm; đăng ký, quản lý phương tiện giao thông cơ giới đường bộ… mà cịn
có trách nhiệm tham mưu cho Nhà nước, các ngành chức năng hoạch định các chính
sách phát triển giao thơng, tổ chức mạng lưới giao thơng, cũng như các chính sách
kinh tế, văn hóa, xã hội khác… có liên quan đến việc đảm bảo TTATGT đường bộ,
đặc biệt là chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp pháp luật
giao thông trong đó có hành vi điều khiển phương tiện giao thơng cơ giới đường bộ
chạy quá tốc độ quy định góp phần bảo đảm và duy trì TTATGT một cách bền
vững, lâu dài.
Tuy nhiên, việc quản lý và duy trì TTATGT là một hoạt động rộng lớn, là
nhiệm vụ chung của toàn tất cả các ban ngành, tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước

10

Luan van


và là trách nhiệm của mỗi công dân, một lực lượng, một tổ chức, một cá nhân
không thể làm được. Do vậy, để thực hiện hiệu quả các mặt công tác trên, đòi hỏi
lực lượng CSGT phải sử dụng tổng hợp các biện pháp, lực lượng, phương tiện được
trang bị, đồng thời phải tranh thủ sự phối hợp, giúp đỡ, ủng hộ của các ngành chức
năng, chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng nhằm phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của đơng đảo quần chúng nhân dân.
Qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật giao thơng đường bộ nói chung và phòng ngừa hành vi điều khiển phương
tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định nói riêng.
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của công tác này là lực lượng CSGT đường bộ, được Đảng, nhà
nước và ngành Công an giao cho nhiệm vụ tiến hành các nội dung, biện pháp quản
lý TTATGT, phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật,
tội phạm trên lĩnh vực giao thông đường bộ. Trong q trình thực hiện hoạt động
phịng ngừa hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá
tốc độ quy định lực lượng Cảnh sát giao thông cần phối hợp với các lực lượng chức
năng trong và ngồi ngành Cơng an nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong tiến
hành thực hiện các nội dung của hoạt động phòng ngừa.
Đối tượng tác động của hoạt động này là các nguyên nhân, điều kiện dẫn tới
hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ vi phạm quy định. Nội
dung của hoạt động này là lực lượng CSGT tiến hành tổng hợp các biện pháp quản lý
TTATGT theo chức năng, nhiệm vụ được phần công nhằm chủ động phát hiện, đấu
tranh, ngăn chặn các nguyên nhân, điều kiện dẫn tới hành vi điều khiển phương tiện
giao thông cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định.
Mục đích của hoạt động này nhằm chủ động phịng ngừa, ngăn chặn khơng

để hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ vi phạm quy định
xảy ra gây mất TTATGT; bảo đảm cho người, phương tiện và hàng hóa khi tham
gia giao thơng không bị xâm hại; hoạt động giao thông luôn được diễn ra trật tự, an
tồn và thơng suốt.
11

Luan van


- Mặt chủ quan của tội phạm
Thực hiện hành vi VPQĐ về tham gia phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ chạy quá tốc độ quy định có hiệu quả đòi hỏi hoạt động này phải gắn với một địa
bàn hành chính cụ thể, như tại một thành phố hay một huyện, một xã, một tuyến,
một địa bàn giao thông cụ thể. Điều đó cho phép lực lượng CSGT tại từng địa bàn
có điều kiện điều tra nắm chắc tình hình TTATGT ở từng khu vực trọng điểm, xác
định chính xác loại đối tượng lái xe, loại phương tiện và các đoạn đường, khu vực
thường xuyên xảy ra hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ vi
phạm quy định để có các biện pháp phịng ngừa cụ thể theo yêu cầu đặt ra. Hơn nữa
phòng ngừa theo địa bàn hành chính cịn là điều kiện để xác định trách nhiệm rõ
ràng giữa các địa phương, giữa các ban ngành, lực lượng liên quan để tiến hành
đồng bộ các nội dung, biện pháp quản lý. Đồng thời, cũng tạo thuận lợi cần thiết
cho việc lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng các cấp và của chính quyền cơ sở trong
việc huy động, tổ chức lực lượng, quan hệ phối hợp lực lượng, phát huy vai trò tích
cực cách mạng của quần chúng để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể trong
quá trình tiến hành các biện pháp phòng ngừa hành vi điều khiển phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ vi phạm quy định ở từng địa bàn cụ thể đặt ra.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định
và pháp luật về tội tham gia giao thông đường bộ
1.2.1. Quy định tội vi phạm quy định và pháp luật về tội tham gia giao
thông đường bộ trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Tội VPQĐ về tham gia GTĐB được luật định tại Điều 260 BLHS năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017 so với Điều 202 BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm
2009 thì đã có nhiều sự thay đổi quan trọng về kết cấu khoa học của điều luật và
khung hình phạt, kể cả mức hình phạt liên quan.
Thứ nhất, về tên gọi: Tại Điều 202 BLHS 1999 quy định tội phạm này là với
tên gọi “Tội VPQĐ về điều khiển phương tiện GTĐB”. Theo tên gọi này của điều
luật thì chỉ những người nào điều khiển phương tiện GTĐB mới phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội danh này. Trong khi đó, khoản 22 Điều 3 Luật GTĐB năm
12

Luan van


2008 quy định: Luật giao thông đường bộ quy định về quy tắc giao thông đường bộ;
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; phương tiện và người tham gia giao thông
đường bộ; vận tải đường bộ và quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ. Luật này
được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân liên quan đến giao thơng đường bộ trên lãnh
thổ của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, tại Điều 4 của luật
này quy định rất rõ ràng: “Quản lý hoạt động giao thông đường bộ được thực hiện
thống nhất trên cơ sở phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn cụ thể, đồng thời
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp; mọi
hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ phải được phát hiện, ngăn chặn kịp
thời và xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật” [38]. Luật giao thông đường bộ bao
gồm 8 chương, 89 điều quy định tất cả các lĩnh vực có liên quan đến việc đảm bảo
hoạt động giao thông đường bộ thông suốt, trật tự, an tồn, hiệu quả; góp phần phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ mơi trường. Đây
chính là cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng để lực lượng CSGT có thể dựa vào đó
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình nhất là trong việc tiến hành các biện pháp
cơng tác góp phần phịng ngừa vi phạm pháp luật giao thơng đường bộ nói chung và
phịng ngừa hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá

tốc độ quy định nói riêng.
Các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật.
Trên cơ sở quy định của Luật giao thông đường bộ, Bộ Công an cũng đã ban
hành nhiều văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ cũng như phân công, phân
cấp cho lực lượng CSGT trong hoạt động quản lý TTATGT. Đây là nhóm các văn
bản chứa đựng những quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi
hoạt động, đối tượng, quy trình cơng tác cụ thể của các lực lượng CSGT như:
Thứ hai, Quyết định 3889/2018/QĐ-BCA ngày 6/8/2018 của Bộ trưởng Bộ
Công an quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Cục
CSGT. Trong đó có quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ cụ thể của lực lượng
CSGT trong việc tổ chức triển khai thực hiện các mặt cơng tác bảo đảm TTATGT
nói chung và hoạt động phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về TTATGT,
13

Luan van


trong đó có hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá
tốc độ quy định nói riêng [9].
Trong q trình tiến hành các nội dung công tác quản lý TTATGT, lực lượng
Cảnh sát giao thông chủ động phòng ngừa, kịp thời phát hiện và ngăn chặn, xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật về TTATGT nói chung và hành vi điều khiển
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định nói riêng theo
quy định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 để xử lý vi phạm hành
chính trên lĩnh vực giao thông đường bộ.
Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động phòng ngừa các hành
vi vi phạm pháp luật về TTATGT nói chung và hành vi điều khiển phương tiện
giao thông cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định nói riêng của lực lượng
CSGT. Trong quá trình thực hiện, lực lượng CSGT cần phải căn cứ vào những văn
bản quy phạm pháp luật này, đồng thời nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ những quy

định trong các văn bản đó, nhằm đảm bảo giữ gìn hoạt động giao thơng ln diễn ra
trật tự, an tồn và thơng suốt, chủ động phịng ngừa, đấu tranh ngăn chặn mọi hành
vi vi phạm pháp luật về TTATGT diễn ra trên lĩnh vực giao thông đường bộ.
Thứ ba, Xác định nguyên nhân, điều kiện của tình trạng vi phạm điều khiển
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định là một nội dung
quan trọng trong hoạt động phòng ngừa của lực lượng Cảnh sát giao thông. Trên
các tuyến giao thông đường bộ có nhiều đối tượng vi phạm quy định về tốc độ do
nhiều nguyên nhân khác nhau bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và ngun nhân
khách quan. Chính vì vậy, phải xác được chính xác các nguyên nhân dẫn tới vi
phạm như các nguyên nhân xuất phát từ đâu, từ điều kiện khách quan đưa tới hay từ
yếu tố chủ quan của đối tượng tham gia giao thông.
Thông qua kết quả các mặt công tác quản lý TTATGT đường bộ, lực lượng
CSGT tiến hành nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng tình hình vi phạm
pháp luật giao thơng đường bộ đang diễn ra, từ đó xác định tình hình vi phạm điều
khiển phương tiện giao thơng cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định như: Tổng
số hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy
14

Luan van


định đã được phát hiện và xử lý trong từng thời gian, trên từng tuyến đường, địa bàn
giao thông cụ thể; chủng loại phương tiện, người điều khiển phương tiện thường
xuyên vi phạm. Trên cơ sở đó, đánh giá sự biến động tăng giảm của tình trạng vi
phạm này, tổng kết những tuyến đường có nhiều đối tượng, chủng loại phương tiện
thường xuyên vi phạm.
Trên đây là một số điểm mới đã được sửa đổi, bổ sung cần thiết phải được
nghiên cứu và vận dụng một cách chính xác trong việc xử lý đối với các hành vi
VPQĐ về an toàn GTĐB xảy ra từ 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018, theo quy định
của BLHS hiện hành.

1.2.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ với
một số tội khác trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.2.1. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ với
tội đua xe trái phép
Tội đua xe trái phép (Điều 266) là hành vi đua trái phép các loại xe ô tô, xe
máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ mà gây thiệt hại cho sức khỏe, tài sản,
tính mạng của người khác hoặc đã bị XPHC về hành chính về hành vi quy định tại
điều này hoặc điều 265 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này
mà chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm, phải do người có năng lực TNHS và đủ
tuổi chịu TNHS được thực hiện:
Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ BLHS luật hình
sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội này.
Nếu người phạm tội chưa gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng, tài sản của
người khác thì phải là người đã bị XPHC về hành vi đua các loại xe trái phép hoặc
đã bị kết án về tội đua các loại xe trái phép, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm
thì mới bị truy cứu TNHS về tội đua các loại xe trái phép.
Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Cũng tương tự như đối với tội tổ chức đua các loại xe trái phép, khách thể
của tội phạm này vừa xâm phạm đến ATCC vừa xâm phạm đến TTCC. Khác với tội
15

Luan van


tổ chức đua các loại xe trái phép, đối tượng tác động của tội phạm này không phải là
người đua xe các loại, mà là phương tiện dùng để đua là xe ô tô, xe gắn máy và các
loại xe khác có gắn động cơ.
Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a) Hành vi khách quan

Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi đua các loại xe. Người đua
xe các loại trái phép có thể thực hiện một trong nhiều hành vi như sau: chuẩn bị
phương tiện (các loại xe đua) và những điều kiện cần và đủ khác cho cuộc đua xe,
đến nơi tập trung đua xe, điều khiển xe tham gia cuộc đua xe.
Lực lượng CSGT khơng chỉ là lực lượng có trách nhiệm trực tiếp tiến hành
các biện pháp quản lý TTATGT theo chức năng, nhiệm vụ được giao mà còn có
trách nhiệm đấu tranh phịng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về TTATGT, tội
phạm diễn ra trên các tuyến, địa bàn giao thơng cơng cộng. Vì thế, với tư cách là lực
lượng nghiệp vụ của ngành Công an, lực lượng CSGT được triển khai các biện pháp
nghiệp vụ để phịng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm pháp
luật, các loại tội phạm trên tuyến, địa bàn giao thông. Một trong những biện pháp
nghiệp vụ quan trọng đó là xây dựng sử dụng cơ sở bí mật. Căn cứ vào các quy định
của Bộ Công an về xây dựng, lực lượng CSGT tiến hành lập kế hoạch xây dựng, sử
dụng cơ sở bí mật và cộng tác viên danh dự phục vụ cho việc nắm tình hình tuyến,
địa bàn giao thơng để từ đó kịp thời cung cấp các thơng tin quan trọng giúp cho lực
lượng CSGT chủ động tiến hành các biện pháp phòng ngừa hiệu quả đối với các
hành vi vi phạm hành chính về TTATGT nổi cộm trên các tuyến, địa bàn giao
thơng. Đặc biệt là tình trạng vi phạm quy định tham gia giao thông của người điều
khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
Người tham gia đua xe các loại trái phép có thể được tổ chức từ trước, nhưng
cũng có thể khơng được tổ chức mà cuộc đua xe có thể được hình thành trong q
trình tham gia giao thông giữa những người điều khiển xe trái phép.
Chỉ người điều khiển xe các loại tham gia cuộc đua xe mới là người thực
hiện hành vi đua xe xe, cịn người ngồi sau xe đua (nếu có) chỉ là người cổ vũ, họ
16

Luan van


không bị truy cứu TNHS về tội đua các loại xe trái phép mà tùy trường hợp có thể

bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội khác như tội gây rối trật tự công cộng.
b) Hậu quả
Hậu quả phải là dấu hiệu bắt buộc của tội danh này. Nếu như mà hậu quả
chưa xảy ra, tức là chưa gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng, tài sản của cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác thì hành vi đua các loại xe trái phép chưa cấu thành tội đua
các loại xe trái phép. Tuy nhiên, hành vi đua các loại xe trái phép của người đua các
loại xe có thể bị truy cứu TNHS về tội gây rối TTCC. Như trên đã phân tích thì quy
định này chưa phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống loại các tội phạm này.
Để phòng ngừa các hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ vi phạm quy định đạt hiệu quả, lực lượng CSGT phải tăng cường lực
lượng, phương tiện tuần tra, kịp thời phát hiện và xử lý ngay lập tức các hành vi
điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ vi phạm quy định khơng để
nó trở thành ngun nhân, điều kiện có thể dẫn đến tai nạn giao thơng đường bộ.
Đây là một biện pháp hành chính mang tính cưỡng chế do những cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với những cá nhân, tổ chức (kể cả cá nhân,
tổ chức nước ngồi có hành vi vi phạm quy định khi điều khiển phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ trên lãnh thổ Việt Nam. Việc xử phạt nghiêm các hành vi
điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chạy quá tốc độ quy định, dẫn
đến TNGT đường bộ sẽ có tác động mạnh đến ý thức người tham gia giao thông,
thúc đẩy công tác tuyên truyền, giáo dục cho người tham gia giao thông ý thức tôn
trọng và chấp hành nghiêm chỉnh Luật giao thông; ngăn ngừa, hạn chế các vi
phạm và TNGT đường bộ, bảo đảm TTATGT.
c) Các dấu hiệu khách quan khác
Hành vi đua các loại xe được coi là hành vi phạm tội khi hành vi đó khơng
được cơ quan có chức năng cho phép; nếu việc đua các loại xe được cơ quan có
chức năng cho phép thì khơng bị phải tội phạm. Đây vừa là nội dung, hình thức, vừa
là biện pháp phòng ngừa hành vi điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ vi phạm quy định. Để thực hiện biện pháp này, lực lượng CSGT phải chủ động
17


Luan van


phối hợp với các ban, ngành chức năng xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên
truyền, lựa chọn đối tượng, hình thức tuyên truyền phù hợp… hướng đến nâng cao
ý thức cho người tham gia giao thơng nói chung và người điều khiển phương tiện
giao thơng cơ giới đường bộ nói riêng, giúp người tham gia giao thơng có ý thức tự
giác chấp hành quy định về tốc độ khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội đua các loại xe trái phép thực hiện một trong các hành vi
phạm tội của mình là do cố ý, tức là người phạm tội suy nghĩ, nhận thức rõ hành vi
của mình là hành vi đua các loại xe trái phép, thấy được hậu quả của hành vi trên l;à
sai và mong muốn hoặc bỏ mặc kệ cho hậu quả xảy ra hoặc thấy trước hậu quả của
hành vi đó có thể xảy ra.
1.2.2.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ với
tội Tội vô ý làm chết người
Tội vô ý làm chết người được quy định tại Điều 125 BLHS năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Tội vô ý làm chết
người là hành vi của một người do không nhận thấy trước được hành vi, việc làm của
mình có khả năng gây ra chết người mặc dù họ phải thấy trước và có thể thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra cái chết người nhưng tin rằng hậu quả đó khơng xảy
ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Khi phân biệt tội này với tội VPQĐ về tham gia
GTĐB cần chú ý một số nội dung sau:
Các yếu tố cấu thành tội vô ý làm chết người
Khách thể của tội vô ý làm chết người:
Khách thể của tội vô ý làm chết con người là quan hệ nhân thân của con
người mà nội dung là quyền sống của con người, quyền an tử. Đối tượng tác động
của tội phạm này là con người cụ thể.
Mặt khách quan của tội vô ý làm chết người:
Vô ý làm chết con người là trường hợp người phạm tội tuy thấy được hành

vi của mình có dẫn đến chết người nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ khơng bao giờ
xảy ra hoặc cịn có thể ngăn ngừa được hoặc người phạm tội không thấy hành vi
18

Luan van



×