Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thi hành án treo từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUANG MINH BÌNH

THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI - 2020

Luan van


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUANG MINH BÌNH

THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 638.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA

HÀ NỘI - 2020

Luan van


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn: “Thi hành án treo từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS
Nguyễn Thị Phương Hoa. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa
được công bố bởi các cơng trình khác.
Người viết luận văn

Trần Quang Minh Bình

Luan van


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN
TREO .........................................................................................................................7
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của án treo và thi hành án treo .........................7
1.2. Quy định của pháp luật về thi hành án treo ....................................................16
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................28
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.........................................................29
2.1. Tổng quan về thực trạng thi hành án treo trên địa bàn quận Bình Tân, Thành
phố Hồ Chí Minh ...................................................................................................29

2.2. Những kết quả và hạn chế trong thi hành án treo và nguyên nhân.................34
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................49
Chương 3: GIẢI PHÁP VỀ PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI
HÀNH ÁN TREO TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..50
3.1. Định hướng về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành án treo ..50
3.2. Các giải pháp cụ thể ........................................................................................53
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Luan van


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng
Bảng 2.1:

Tên bảng

Trang

Tình hình áp dụng án treo của Tịa án nhân dân quận Bình

30

Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 2.2:

Thống kê tình hình thi hành án treo trên địa bàn quận Bình


32

Tân.
Biểu đồ 2.1:

Tình hình áp dụng án treo tại quận Bình Tân.

31

Biểu đồ 2.2:

Cơ cấu tình hình thi hành án treo tại quận Bình tân giai

33

đoạn 2015 - 2019.

Luan van


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

BLHS

UBND:

Uỷ ban nhân dân


Luan van


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án treo là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước
nhằm đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành
trong thực tế, liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an
tồn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ yêu cầu xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.
Hoạt động thi hành án treo có ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm hiệu quả
thực hiện quyền tư pháp, thực hiện được công lý mà Tòa án đã nhân danh Nhà
nước ra bản án, quyết định; mặt khác, thi hành án kịp thời, nghiêm chỉnh các phán
quyết của Tòa án đối với hành vi phạm tội.
Bình Tân là một quận nội thành nằm ở phía Tây Bắc, Thành phố Hồ Chí
Minh là một trong những quận có nền kinh tế mạnh và tích cực có nhiều xu hướng
phát triển cao và ln đáp ứng nhu cầu phát triển của các thành phần kinh tế cần
thiết. Tuy nhiên do tốc độ đơ thị hóa, sự biến động về dân số khá lớn nên tệ nạn xã
hội và tội phạm có xu hướng diễn biến phức tạp.
Tuy Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự, được quy định phong phú,
đa dạng, có sự kế thừa, bổ sung ngày càng hoàn thiện, phù hợp với xu thế phát
triển của đất nước và đáp ứng yêu cầu ở từng thời điểm lịch sử khác nhau nhưng
vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức đến cơng tác thi hành án treo. Hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật vẫn còn bất cập, chưa đồng bộ, nhiều nội dung chưa được
quy định cụ thể, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Bên
cạnh đó, qua nghiên cứu ở quận Bình Tân cho thấy hệ thống các cơ quan có thẩm
quyền trong thi hành án chưa được phân công, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát
huy đầy đủ vai trị, trách nhiệm trong quản lí, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra,

giám sát, nhất là vai trò trách nhiệm của Tòa án, UBND các cấp, Mặt trận tổ quốc
và các đoàn thể; hoạt động giám sát theo dõi người được hưởng án treo còn chưa
được quan tâm đúng mức; đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án treo chưa đáp
1

Luan van


ứng hiệu quả đặt ra… Những vấn đề trên đã làm giảm hiệu quả của công tác thi
hành án treo trên địa bàn quận nói riêng và ở Thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
Từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề thi hành án treo cũng như tình
cấp thiết tác giả chọn đề tài: "Thi hành án treo từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành
phố Hồ Chí Minh" làm luận văn thạc sĩ luật học thuộc chuyên ngành.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về thi hành án hình sự nói
chung và thi hành án treo nói riêng. Về cơ bản có thể chia làm hai nhóm.
Nhóm thứ nhất, nhóm cơng trình nghiên cứu về thi hành án nói chung. Có
các cơng trình như sau:
- Qch Dương và Ngô Thu Trang (2019), Chỉ dẫn áp dụng Luật thi hành
án hình sự, Nxb Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn sách giới thiệu những
nội dung liên quan đến Luật thi hành án hình sự năm 2019 gồm hai phần chính với
16 chương: Phần 1: Hỏi – Đáp về Luật thi hành án hình sự năm 2019; Phần 2: Văn
bản pháp luật có liên quan.
- Lê Qúy Vương và các tác giả (2019), Bình luận Luật thi hành án hình sự
năm 2019, Nxb Lao Động, Hà Nội. Nhằm giúp người đọc hiểu hơn về Luật thi hành
án hình sự năm 2019 các tác giả đã bình luận chi tiết, đầy đủ, khoa học chuyên sâu
về từng điều, khoản điểm của Luật này.
Các cơng trình nêu trên tập trung phân tích vấn đề thi hành án hình sự nói
chung mới chỉ đề cập mang tính khái lược, mang tính chất giới thiệu chung chứ
chưa nghiên cứu sâu hơn.

Nhóm thứ hai, nhóm cơng trình nghiên cứu về thi hành án treo nói riêng.
Trong đó có thể kể đến một số cơng trình như:
Bài viết khoa học:
- Lê Rích Tơ và Hoàng Văn Oánh (2017), Luận bàn về thực trạng và đề
xuất một số giải pháp trong công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ ở
Việt Nam, Tạp chí khoa học Đại học Văn Lang, (số 02), tr. 86 – 91. Bài viết đã nêu
lên khái quát về thực tiễn thi hành cũng như việc kiểm tra, giám sát hình phạt án

2

Luan van


treo và cải tạo khơng giam giữ cịn được bng lỏng, không được chú trọng... và
những nguyên nhân phát sinh. Đồng thời đưa ra những kiến nghị, giải pháp cải tiến
công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ.
- Võ Minh Phượng (2020), Những vướng mắc trong việc áp dụng chế định
án treo, truy cập ngày 01/06/2020. Bài viết nêu ý kiến về
những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng chế định án treo trên thực tiễn và sự
cần thiết phải có văn bản hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông qua những nội dung: Nguyên tắc áp dụng án treo, vướng mắc trong việc
áp dụng, kiến nghị.
Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
- Phạm Đức Trung (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành hình
phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo khơng giam giữ (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn
địa bàn tỉnh Nam Định), Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà
Nội. Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình
phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo khơng giam giữ, từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm hồn thiện các quy định của pháp luật và đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo khơng giam giữ

trong thực tiễn.
- Dương Bích Ngọc (2016), Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt
Nam (từ thực tiễn Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện KHXH,
Luận văn đã giới thiệu khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến án treo và lịch
sử hình thành và phát triển của án treo. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về
án treo và thực tiễn áp dụng án treo tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giai
đoạn 2015 – 2019. Đồng thời đưa ra những giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật
liên quan đến án treo.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên mỗi cơng trình tập trung nghiên cứu một
khía cạnh liên quan đến thi hành án treo nhưng nhìn chung chỉ phân tích, so sánh
làm sáng rõ những vấn đề về lý luận và quy định của pháp luật về thi hành án treo.
3

Luan van


Qua tìm hiểu thì cũng có một số tác giả viết về thi hành án treo từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Dương, Bắc Ninh, Lâm Đồng... Nhưng hiện nay chưa có
cơng trình nào nghiên cứu liên qua đến địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Tuy nhiên với những cách tiếp cận đa dạng về án treo và thi hành án treo
của những tài liệu nêu trên tác giả sẽ kế thừa, tiếp thu những tri thức cần thiết để
hồn thành luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất những giải pháp về pháp luật
và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án treo từ thực tiễn quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn này như sau:

Một là, nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về thi hành án
treo như khái niệm, đặc điểm của thi hành án treo; luật áp dụng về thi hành án treo;
các quy định của pháp luật về thi hành án treo.
Hai là, phân tích quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về thi hành án
treo, đánh giá việc áp dụng pháp luật trong thời gian qua, làm rõ những bất cập, hạn
chế về thi hành án treo;
Ba là, đánh giá thực trạng thự hiện pháp luật thi hành án treo ở địa bàn quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, với những kết quả đạt được, những tồn tại hạn
chế và nguyên nhân từ đó đề xuất các giải pháp, những nội dung cần sửa đổi, bổ
sung nhằm góp phần hồn thiện hơn nữa pháp luật và hiệu quả áp dụng pháp luật
trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về đối tượng là những vấn đề lý luận về thực hiện pháp
luật thi hành án treo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4

Luan van


- Về không gian, đề tài chỉ nghiên cứu đối với địa bàn quận Bình Tân, Thành
phố Hồ Chí Minh;
- Về thời gian, đề tài sử dụng các số liệu thống kê trong giai đoạn từ 2015 đến
năm 2019;
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp đối với thi hành án treo trong
tố tụng hình sự nói chung. Cụ thể như sau:
- Trong chương 1 tác giả sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp lịch sử, liệt kê hệ thống hóa vấn đề.
+ Phương pháp phân tích, suy diễn logic, diễn giải, giải thích.
- Trong chương 2 tác giả sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp phân tích, liệt kê, suy diễn logic, giải thích, dẫn chiếu.
+ Phương pháp đánh giá: từ nội dung của những quy định về thi hành án
treo đã được phân tích tác giả đưa ra một số đánh giá ở các khía cạnh khác nhau:
tính hợp lý, khả thi cũng như hiệu quả áp dụng trên thực tiễn.
+ Tác giả sử dụng bản án, quyết định của Tịa án quận Bình Tân, báo cáo
cơng tác thi hành án hình sự của Cơng an quận Bình Tân, kết luận kiểm sát thi hành
án treo tại UBND 10 phường để đánh giá thực trạng thi hành án treo trên địa bàn
Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích những mặt hạn chế của pháp
luật và thực trạng áp dụng thông qua phương pháp giải thích, suy diễn logic, đánh
giá. Kết hợp với phương pháp so sánh để làm rõ điểm tiến bộ trong quy định của
pháp luật Việt Nam. Từ đó, tác giả sử dụng phương pháp đánh giá nhằm đưa ra các
khía cạnh hợp lý, khả thi của các quy định pháp luật, thực trạng áp dụng pháp luật.
- Trong chương 3 của luận văn tác giả sử dụng:
+ Phương pháp liệt kê để đưa ra các quan điểm về thi hành án treo.
5

Luan van


+ Phương pháp suy diễn lo gic, diễn giải, liệt kê là phương pháp chủ yếu để
tác giả kiến nghị dựa trên cơ sở những bất cập quy định của pháp luật và tăng cường
nhận thức về thi hành án treo.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp trong Chương 1 và Chương 2 về các vấn

đề liên quan đến thi hành án treo, từ đó khái quát những nội dung cơ bản của từng
vấn đề được nghiên cứu trong luận văn. Bằng phương pháp này tác giả đã phân tích
những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về thi hành án treo. Từ đó, tác
giả phân tích những tồn tại, bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành để làm
cơ sở cho những đề xuất, kiến nghị của mình.
- Sau mỗi tiểu mục, mục cuối của mỗi Chương cũng như cuối luận văn tác
giả sử dụng phương pháp tổng hợp để đưa ra kết luận trọng tâm về nội dung đã
phân tích. Những kết luận này là kết quả của quá trình tổng hợp những đặc điểm và
nội dung của vấn đề đã đề cập trước đó.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về thi hành án
treo, góp phần làm rõ những thuật ngữ, khái niệm có liên quan, phân tích, làm rõ
những qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Về mặt thực tiễn, đề tài phân tích, nêu rõ những vướng mắc, bất cập của pháp
luật qui định về thi hành án treo. Sau khi phân tích, xác định những vướng mắc, bất
cập, Luận văn cũng sẽ đưa ra những đề xuất, kiến nghị về mặt khoa học trong việc
hoàn thiện qui định về thi hành án treo trong tương lai, góp phần hồn thiện hơn nữa
pháp luật Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thi hành án treo
Chương 2. Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn quận Bình Tân, Thành
phố Hồ Chí Minh
Chương 3. Giải pháp về pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành án treo tại
quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

6

Luan van



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN TREO
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của án treo và thi hành án treo
1.1.1. Khái niệm và đặc điềm của án treo, thi hành án treo
Khái niệm, đặc điểm của án treo
Án treo là chế định hình sự ra đời từ rất sớm, trải qua một quá trình lịch sử
phát triển lâu dài của khoa học hình sự Việt Nam, từ Điều 10 trong sắc lệnh số
21/SL ngày 14/12/1946 về tổ chức Tòa án quân sự cho tới nay, tuy có nhiều cách
hiểu khác nhau nhưng án treo chưa bao giờ được coi là hình phạt trong hệ thống
hình phạt của nước ta.
Theo cuốn từ điển Tiếng Việt của GS Hoàng Phê: "Án treo là án tù không
phải thi hành ngay, nhưng sẽ thi hành nếu trong thời trang quy định người bị kết án
lại phạm tội và bị xử án lần nữa" [25, tr.6].
Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật Hà Nội:
" …Án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện…thể
hiện tính nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích người bị
kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội
cũng như gia đình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội trong thời gian thử thách thì
buộc phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên" [12, tr.230].
Theo tinh thần của Bộ luật Hình sự, xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn
thi hành, thì án treo khơng phải là một loại hình phạt mà là miễn chấp hành hình
phạt tù có điều kiện, hình phạt đối với người vi phạm pháp luật ở mức độ ít nghiêm
trọng, khi bị xử phạt tù không quá ba năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm
nhẹ và xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể
cải tạo được, tịa án có thể miễn chấp hành tại trại giam mà để cho người bị kết án
tự cải tạo dưới sự giám sát, quản lý giáo dục của chính quyền địa phương tại nơi cư
trú.

7


Luan van


Khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015 quy định: "Khi xử phạt tù không quá ba
năm căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét
thấy khơng cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tịa án cho hưởng án treo và
ấn định thời gian thử thách đến năm năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thử thách
theo quy định của Luật thi hành án hình sự" [29].
Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ – HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án
treo: "Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tịa án
áp dụng đối với người phạm tội khơng quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của
người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy khơng cần phải bắt họ chấp hành
hình phạt tù”.
Người bị phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều
kiện:
- Bị xử phạt khơng q 03 năm [Điều 2, 15]. Người bị áp dụng hình phạt tù
khơng q 03 năm, khơng phân biệt tội gì thì có thể được xem xét cho hưởng án
treo; trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp
hình phạt khơng q 03 năm tù thì cũng có thể được hưởng án treo. Khi Tịa án
tun mức hình phạt tù thì phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội, trên cơ sở tuân thủ những nguyên tắc của pháp luật hình sự Việt Nam để
áp dụng hình phạt cho từng trường hợp cụ thể, tránh những trường hợp vì có ý định
từ trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo nên Tòa án tuyên mức án thấp hơn
thời hạn 03 năm tù giam để cho người đó được hưởng án treo, hoặc đáng lẽ bị cáo
được hưởng án treo nhưng Tịa án có ý định từ trước là khơng cho hưởng án treo
nên Tịa án đã tuyên mức án cao hơn 03 năm để cho bị cáo khơng được hưởng án
treo;
- Có nhân thân tốt [Điều 2, 15]. Được coi là có nhân thân tốt nếu ngồi lần

phạm tội này, người phạm tội ln chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Đối với người đã bị
kết án thuộc trường hợp được coi là khơng có án tích, người bị kết án nhưng đã
được xóa án tích, người đã bị xử phạt hành chính hoặc bị xử lý kỉ luật mà thời gian
8

Luan van


được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỉ luật tính đến ngày
phạm tội đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được
thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có
vai trị khơng đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì có thể cho hưởng
án treo. Đây cũng là đặc điểm có liên quan đến mục đích của hình phạt, vì mục đích
của hình phạt là cải tạo, giáo dục người bị kết án, giáo dục các thành viên khác
trong xã hội tuân thủ pháp luật, cũng như hỗ trợ cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm đạt hiệu quả;
- Có 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS
và khơng có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó
có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51
của BLHS và khơng có tình tiết tăng nặng. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ
vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng
từ 02 tình tiết trở lên trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 [Điều 2, 15];
- Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giám sát, giáo dục. Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có
địa chỉ xác định theo quy định của Luật cư trú mà người được hưởng án treo về cư
trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo. Nơi làm việc ổn định là
nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động

hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền [Điều 2, 15];
- Xét thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm
tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ được hưởng án treo không gây nguy hiểm
cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội [Điều 2, 15].
Có thể rút ra kết luận:"Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
có điều kiện, được áp dụng cho người bị kết án phạt tù không quá ba năm, không
buộc họ phải chấp hành hình phạt tù khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện
nhất định do pháp luật hình sự quy định nhằm khuyến khích họ cải tạo để trở
thành cơng dân có ích cho xã hội, đồng thời cảnh cáo họ nếu phạm tội mới trong
9

Luan van


thời gian thử thách thì họ sẽ phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo từ
bản án trước đó".
Từ khái niệm trên về án treo, có thể nhận thấy đặc điểm của án treo như
sau:
Thứ nhất, án treo được coi khơng phải là hình phạt tù, án treo là biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù trong các trại tạm giam khi bảo đảm các điều kiện
được pháp luật quy định. Pháp luật hình sự Việt Nam quy định bảy hình phạt chính
tại các Điều 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
trong đó có hình phạt tù được quy định tại Điều 38 BLHS năm 2015, án treo là biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù trong các trại giam khi người phạm tội có đầy đủ
các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành cụ thể tại Điều 65
BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị quyết số 02/2018/ NQ –
HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo;
Thứ hai, Người được hưởng án treo sẽ chịu thời gian thử thách từ một đến
năm năm, thời gian thử thách phải gấp đôi thời hạn phạt tù nhưng không quá 5 năm

[Điều 4, 12]. Theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo:
trong trường hợp người được hưởn án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách
thì Tịa án quyết định hình phạt đối với tội phạm mới và tổng hợp hình phạt tù của
bản án trước theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của BLHS; nếu họ đã bị tạm
giam, tạm giữ thì được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Chế định án treo là một chế định pháp luật tiến bộ khi BLHS năm 2015 tiếp
tục duy trì điều luật quy định về án treo, đồng thời hạn chế áp dụng hình phạt tù, bổ
sung quy định áp dụng hình phạt tiền đối với cả những trường hợp phạm tội rất nghiêm
trọng đối với các tội phạm thuộc Chương các tội phạm về quản lý kinh tế.
Khái niệm, đặc điểm của thi hành án treo
Theo từ điển Tiếng Việt, thi hành là "Thực hiện điều đã chính thức quyết
định" [1, tr.1559].

10

Luan van


Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về thi hành án, tác giả tổng kết
ở ba quan điểm cơ bản như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thi hành án là một trong các giai đoạn của
tố tụng vì có xét xử thì phải có thi hành án cho nên thi hành án dựa trên cơ sở của
công tác xét xử. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý của
Tòa án nhân danh Nhà nước tại phiên tòa là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi
hành án. Vì vậy khơng có kết quả của hoạt động xét xử thì cũng khơng thể có kết
quả của hoạt động thi hành án. Tuy nhiên trong thực tế, bản án, quyết định của Tịa
án đã có hiệu lực pháp luật khơng phải là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động
thi hành án mà thi hành án đòi hỏi những nguyên tắc, thủ tục và cách thức hoạt
động riêng. Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng thi hành án là một giai đoạn tố tụng

độc lập, là giai đoạn tố tụng tiếp theo sau giai đoạn xét xử. Tuy nhiên mục đích của
thi hành án khác với mục đích của tố tụng. Tố tụng là quá trình đi tìm sự thật các vụ
việc đã diễn ra trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy định
của pháp luật diễn ra theo quy trình hết sức chặt chẽ. Trong khi đó, thi hành án là
quá trình tiến hành các hoạt động nhằm bảo đảm thực hiện các bản án và quyết định
của Tịa án có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Thi hành án là hoạt động hành chính – tư
pháp bởi:
Thứ nhất, thi hành án là hoạt động chấp hành, điều hành và thể hiện rõ tính
chất hành chính. Được xem là dạng hoạt động chấp hành vì được tiến hành trên cơ
sở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và trong khn khổ luật định; có
sự tham gia của cơ quan tư pháp vào quá trình thi hành án. Tuy nhiên thật khó để
xác định được mức độ và liều lượng của tính hành chính và tính tư pháp trong thi
hành án.
Thứ hai, với tính chất là hoạt động điều hành, cho dù căn cứ để thi hành bản
án, Quyết định của Tòa án, nhưng quá trình thi hành án khơng chỉ là các hoạt động
mang tính tố tụng, khơng chỉ áp dụng luật tố tụng, mà nội dung của nó phải áp dụng
nhiều văn bản pháp luật khác để giải quyết (luật nội dung);

11

Luan van


Thứ ba, trong quá trình thi hành án phương pháp chủ yếu là kết hợp giữa
giáo dục thuyết phục và mệnh lệnh hành chính, mục đích tác động trực tiếp tới đối
tượng thi hành để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ
được xác định trong bản án, Quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn trọng
pháp luật, tôn trọng lợi ích Nhà nước, tập thể và cơng dân;
Thứ tư, việc thi hành án treo được giao cho cơ quan, tổ chức, chính quyền

địa phương thực hiện theo thủ tục hành chính. Pháp luật được áp dụng khơng phải
chỉ riêng luật tố tụng mà còn bao gồm các quy định của pháp luật hành chính – tư
pháp.
Có thể nói hoạt động thi hành án là sự kết hợp biện chứng giữa quá trình tố
tụng và thi hành án hình sự, thi hành án là hoạt động mang tính chất hành chính – tư
pháp.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Thi hành án là hoạt động tư pháp bởi:
Thứ nhất, trước hết cần khằng định, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của
giai đoạn xét xử, hoạt động xét xử được xem là hoạt động tiền đề của thi hành án;
Song không thể xem thi hành án là hoạt động pháp lý duy nhất, mà chỉ mới
là điều kiện cần để tiến hành thi hành án có hiệu quả phải có điều kiện đủ là cơ quan
thi hành án. Cho nên, hoạt động thi hành án chịu sự điều chỉnh của pháp luật thi
hành án.
Thứ hai, mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối như trên, nhưng ở giai
đoạn thi hành án, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi lẽ sau khi bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, chức năng xét xử đã hoàn thành, chân lý đã
được làm sáng tỏ, có tội hay khơng có tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng, ở
thời điểm này, quyền lực của Nhà nước mới chỉ được thực hiện ở trên bản án, quyết
định công nhận các sự kiện pháp lý, các quan hệ pháp luật buộc người thi hành án
có nghĩa vụ phải làm một việc hoặc không làm một việc vì lợi ích của Nhà nước
hoặc của người được thi hành án, chứ việc công nhận này chưa được thực hiện trên
thực tế. Việc tổ chức thi hành án, quyết định của Tịa án, nhìn chung khơng phụ
thuộc vào chức năng của cơ quan xét xử.

12

Luan van


Thứ ba, thi hành án là hoạt động không mang tính chất hành chính, bởi

hành chính là hoạt động chấp hành, điều hành, các quyết định hành chính được đưa
trên cơ sở mệnh lệnh có tính bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp dưới.
Theo tác giả, những đặc trưng cơ bản của thi hành án là:
- Thi hành án trong đó có thi hành án treo phải dựa trên kết quả xét xử của
Tòa án.
- Thi hành án là hoạt động có tính chấp hành. Thi hành án phải hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật, phải tuân thủ những quy định chặt chẽ do pháp luật quy
định.
Trong thi hành án, cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền áp dụng
phương pháp giáo dục, thuyết phục phải kết hợp với phương pháp mệnh lệnh, bắt
buộc. Điều này có ý nghĩa tác động trực tiếp đến đối tượng thi hành án để họ tự giác
thi hành hoặc dùng các biện pháp bắt buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ được
xác định trong bản án, quyết định của Tịa án.
Từ những quan điểm, nhận định nêu trên có thể hiểu: "Thi hành án là hoạt
động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định để đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế
nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa".
Theo khoản 6 Điều 3 Luật thi hành án hình sự 2019 quy định: "Thi hành án
treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát,
giáo dục người bị kết án phạt tù được hưởng án treo trong thời gian thử thách".
Tác giả đưa ra khái niệm thi hành án treo như sau: Thi hành án treo là việc
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng các
biện pháp giám sát, giáo dục có tính chất cưỡng chế đối với người bị kết án đã được
Tòa án tuyên phạt tù nhưng cho hưởng án treo trong thời gian thử thách nhằm bảo
đảm hiệu lực của án treo.
1.1.2. Mục đích của thi hành án treo
Mục đích của việc thi hành án treo nhằm giáo dục người phạm tội trở thành
người có ích cho xã hội. Đây là q trình cải tạo các thói quen, hành động sai trái đã
13


Luan van


hình thành ở người phạm tội khơng phải là bản tính vốn có của họ, mà là do ảnh
hưởng của những yếu tố không lành mạnh trong môi trường gia đình, nhà trường,
xã hội, của những điều kiện thuận lợi cho tội phạm phát triển, những thiếu sót trong
cơng tác quản lí của cơ quan chức năng… Những nhận thức, thói quen ở người
phạm tội hồn tồn có thể cải tạo được, nếu tổ chức đúng đắn việc giáo dục lại
người bị kết án trong thi hành án hình sự.
Thi hành án treo nhằm mục đích khuyến khích người bị kết án tự lao động
cải tạo dưới sự giám sát của xã hội, sự giúp đỡ khuyến khích của cộng đồng, người
thân, tạo cho họ có cơ hội trở thành người có ích mà khơng nhất thiết bắt buộc cách
ly họ ra khỏi đời sống xã hội. Việc trừng trị kết hợp với giáo dục, giáo dục với
phòng ngừa là chính, kết hợp với răn đe, giữ nghiêm kỉ cương, đề cao tinh thần
nhân đạo Xã hội chủ nghĩa phát huy sức mạnh của các các cơ quan bảo vệ pháp
luật, các đồn thể xã hội và mọi cơng dân trong phịng, chống tội phạm, vận dụng
thích hợp các biện pháp hành chính, kinh tế, cải tạo và quản lí giáo dục tại cộng
đồng dân cư để đạt hiệu quả cao nhất đối với người từng phạm tội, tránh khuynh
hướng nặng về hình phạt tù.
1.1.3. Ý nghĩa của thi hành án treo
Thi hành án treo có những ý nghĩa sau:
Một là, thi hành án treo có ý nghĩa bảo đảm hiệu lực thi hành của bản án,
quyết định về mặt thực tế.
Để bảo đảm tốt nhất quyền lợi của người phải thi hành án cũng như đảm
bảo hiệu lực thi hành của bản án, quyết định cơ quan thi hành án phải áp dụng các
biện pháp thi hành án để tổ chức thi hành phán quyết này. Việc áp dụng thi hành án
treo để bảo đảm đúng quy định tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013: "Bản án, quyết
định của Tịa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành"

[31].
Với tính chất đặc thù của thi hành án treo có thể xâm phạm đến quyền con
người, quyền cơng dân, do đó cần phải có cơ chế giám sát, kiểm tra đối với hoạt
động thi hành án treo. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hiện nay có rất nhiều
14

Luan van


cá nhân, cơ quan tổ chức thực hiện việc kiểm tra, giám sát như: Quốc Hội, Hội đồng
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc… bên cạnh đó là quyền kiểm sát của Viện kiểm sát
nhân dân, điều này bảo đảm cho hoạt động thi hành án treo được thực hiện có hiệu
quả, đúng pháp luật.
Thứ hai, thi hành án treo nhằm mục đích giáo dục cải tạo người phạm tội
trở thành người có ích cho xã hội.
Án treo là một chế định quan trọng của pháp luật hình sự thể hiện tính nhân
đạo của pháp luật Xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn áp dụng cũng đã chứng minh những
kết quả tích cực, tạo điều kiện cho những người có nhân thân tốt, phạm tội với lỗi
vô ý, phạm tội thuộc một trường hợp ít nghiêm trọng có cơ hội sửa chữa cao. Quy
định này cũng phù hợp với xu hướng của thế giới hiện nay, hạn chế những hình
phạt mang tính chất giam giữ "nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại".
Ba là, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân
Việc thi hành án treo sẽ thúc đẩy người phải thi hành án nâng cao ý thức, sự
tự nguyện trong thi hành án, đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong
nhân dân. Trong thi hành án treo, phương pháp thuyết phục, giáo dục có ý nghĩa
quan trọng nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi hành có tính chất đặc
thù đây là phương pháp chủ yếu và có tính tiên quyết. Điều này xuất phát từ tính
chất của thi hành án treo ngay cả trong trường hợp người phải thi hành án tự nguyện
thi hành nghĩa vụ của mình thì cũng là vì họ hiểu rằng Tòa án đã phán xét, thực sự
đã được làm sáng tỏ và nếu khơng thi hành thì họ sẽ phải chịu các biện pháp cưỡng

chế của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời thi hành án treo là dạng
hoạt động nhằm tác động tới các đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành
hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong
các bản án, quyết định của Tòa án, phải tuân theo các quy định của pháp luật; giáo
dục họ có ý thức tơn trọng pháp luật, tơn trọng lợi ích của cá nhân, tơn trọng lợi ích
của nhà nước…

15

Luan van


1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án treo
1.2.1. Chủ thể và nhiệm vụ, quyền hạn
Cần nhấn mạnh rằng, theo quy định hiện hành, có nhiều chủ thể liên quan
đến thi hành án treo, bao gồm chủ thể ra quyết định thi hành án treo, chủ thể kiểm
sát việc thi hành án treo, chủ thể thực hiện giám sát, giáo dục đối với người được
hưởng án treo. Trong những nội dung sau đây, chúng tôi sẽ phân tích từng loại chủ
thể và nhiệm vụ, quyền hạn của họ trong thi hành án treo.
- Chủ thể ra quyết định là Tòa án nhân dân: Vấn đề thi hành án treo của
Tòa án nhân dân cũng được quy định cụ thể trong khoản 6 Điều 2 Luật tổ chức Tòa
án nhân năm 2014; Điều 364 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Điều 21 Luật thi hành án
hình sự năm 2019 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án treo:
ra quyết định thi hành án; quyết định đình chỉ thi hành án; gửi bản án, quyết định
được thi hành cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định; xem xét rút ngắn thời
gian thử thách đối với người được hưởng án treo; ra quyết định rút ngắn thời gian
thử thách đối với người được hưởng án treo; xem xét quyết định buộc phải chấp
hành hình phạt tù của bản án đã được hưởng án treo; gửi quyết định buộc chấp hành
hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Chủ thể kiểm sát việc thi hành án treo là Viện kiểm sát nhân dân: Theo

khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố các hoạt động tư pháp", khoản 3 Điều 103 Hiến pháp năm 2013
quy định: "Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, công dân, bảo vệ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh, thống nhất" [31]. Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, bao gồm cả hoạt động thi hành án; được
pháp luật giao trách nhiệm, quyền hạn cụ thể để kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Tòa án, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án treo nhằm
bảo đảm bản án, quyết định đó thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời được quy
định tại các Điều 41, 42, 43 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật tổ chức Viện

16

Luan van


kiểm sát năm 2014; Luật thi hành án hình sự năm 2019. Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Được nhận quyết định thi hành án, trích lục bản án; quyết định rút ngắn thời
gian thử thách án treo của Tịa án;
Được Tịa án cùng cấp thơng báo bằng văn bản về việc mở phiên họp xét
rút ngắn thời gian thử thách, xét giảm thời hạn chấp hành án và được cử Kiểm sát
viên tham gia họp;
Được cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp huyện, Cơ quan thi hành án
hình sự Cơng an cấp qn khu thông báo bằng văn bản về việc người chấp hành án
treo chuyển đến nơi cư trú mới;
Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn trong vấn đề xem xét, lập hồ sơ đề
nghị Tòa án cùng cấp xét miễn chấp hành án;
Được Tịa án chuyển tài liệu xin xóa án tích để phát biểu ý kiến bằng văn

bản đối với những trường hợp xóa án tích do Tịa án quyết định;
Viện kiểm sát trong thi hành án treo có quyền yêu cầu Tòa án cùng cấp và
cấp dưới ra quyết định thi hành án treo đúng quy định; cung cấp hồ sơ liên quan đến
việc thi hành án treo;
Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành án treo của các cơ
quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan và việc giải
quyết kháng cáo, khiếu nại, tố cáo đối với việc thi hành án treo;
Kháng nghị với Tòa án, Cơ quan Thi hành án hình sự cùng cấp và cấp dưới,
cơ quan, tổ chức, đơn vị có vi phạm pháp luật trong việc thi hành án treo, yêu cầu
chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật trong thi hành án treo nếu có.
Kiểm sát thi hành án treo là một trong các nội dung công tác kiểm sát thi
hành án hình sự thuộc chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp được quy định tại Điều
4, Điều 6 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Viện kiểm sát thực hiện
công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành án treo của Tòa án, Cơ
quan thi hành án hình sự, cá nhân có thẩm quyền nhằm bảo đảm việc thi hành, chấp
hành án treo được thực hiện đúng pháp luật. Trong quá trình kiểm sát, nếu phát hiện
những vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền, người chấp hành án,
17

Luan van


Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, ban hành kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục,
loại bỏ vi phạm hoặc khởi tổ vụ án hình sự để xử lý.
- Chủ thể thực hiện giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo
theo quy định của pháp luật:
Khoản 1 Điều 19 Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định: "UBND cấp
xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về giám sát, giáo dục người được hưởng án treo".
Công an xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Công an cấp xã) tham mưu, giúp
UBND cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo [Khoản 2, Điều

19, 33]. Đối với huyện khơng có đơn vị hành chính cấp xã thì Cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1
Điều 19 Luật thi hành án hình sự năm 2019.
Điều 20 Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định: "Đơn vị quân đội
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về giám sát, giáo dục người được hưởng án treo…"
Như vậy chủ thể thực hiện giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án
treo là UBND cấp xã đối với huyện khơng có đơn vị hành chính cấp phường thì Cơ
quan thi hành án hình sự Cơng an cấp huyện thực hiện giám sát, giáo dục người
được hưởng án treo; đơn vị quân đội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn giám sát, giáo
dục người được hưởng án treo, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú,
làm việc.
Trong đó nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của UBND cấp xã trong thi hành án
treo được quy định tại khoản 1 Điều 86 Luật thi hành án hình sự năm 2019 như sau:
* Về hành chính:
Uỷ ban nhân dân cấp xã (phường) thực hiện việc lập hồ sơ, tổ chức giám
sát, giáo dục người được hưởng án treo; bàn giao hồ sơ cho cơ quan thi hành án
hình sự có thẩm quyền theo quy định của Luật này; Báo cáo cơ quan thi hành án
hình sự Cơng an cấp huyện để đề nghị Tòa án cùng cấp xem xét, quyết định về việc
rút ngắn thời gian thử thách; Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp
huyện tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Tịa án có thẩm quyền quyết định buộc
người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ phải chấp hành hình phạt tù của bản án
đã cho hưởng án treo theo quy định của Luật này; Báo cáo cơ quan thi hành án hình
18

Luan van


sự Công an cấp huyện khi người được hưởng án treo bỏ trốn; Hàng tháng nhận xét
bằng văn bản về quá trình chấp hành án của người được hưởng án treo và lưu hồ sơ
giám sát, giáo dục; Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền về kết quả

thi hành án.
* Về giám sát giáo dục:
Uỷ ban nhân dân cấp xã yêu cầu người được hưởng án treo thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ của mình; có biện pháp giáo dục, phịng ngừa khi có dấu hiệu vi phạm
pháp luật; Biểu dương người được hưởng án treo có nhiều tiến bộ hoặc lập cơng;
Giải quyết cho người được hưởng án treo được vắng mặt ở nơi cư trú theo quy định
của Luật này và pháp luật về cư trú;
* Về phối hợp giám sát giáo dục:
Bên cạnh các nhiệm vụ ở trên, UBND cấp xã phối hợp với các tổ chức
chính trị - xã hội, gia đình và cơ quan, tổ chức nơi người được hưởng án treo làm
việc, học tập trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Điểm mới của Luật thi hành án hình sự năm 2019 so với Luật thi hành án
hình sự 2010 là đã sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ của UBND cấp xã, đơn vị quân đội
được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Trong đó, Uỷ ban nhân dân
cấp xã được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo có nhiệm vụ, quyền
hạn lập hồ sơ, tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; bàn giao hồ sơ
cho cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền theo quy định của Luật này [Điều
86]; quy định chi tiết cụ thể, nhiệm vụ quyền hạn của đơn vị quân đội được giao
giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian thử thách [Khoản 3,
Điều 86, 33].
Nhiệm vụ, quyền hạn của Công an cấp xã được quy định tại khoản 2 Điều
86 Luật thi hành án hình sự năm 2019: "Cơng an cấp xã có nhiệm vụ tham mưu,
trực tiếp giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại
khoản 1 Điều này".
Ngoài ra để thực hiện nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án
treo cần phải có sự tham gia của gia đình, các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam ở cơ sở, cộng đồng dân cư nơi người bị kết án cư trú được quy định tại
19

Luan van



×