Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo pháp luật phá sản việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯU THỊ PHẤN

QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT
KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2020

Luan van


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯU THỊ PHẤN

QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT
KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.BÙI NGỌC CƯỜNG


HÀ NỘI, 2020

Luan van


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan rằng đây là bài nghiên cứu của cá nhân em với sự hướng dẫn
của thầy giáo TS.Bùi Ngọc Cường. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là hoàn toàn trung thực, các thơng tin trích dẫn trong bài luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 9 năm 2020
Học viên luận văn

Lưu Thị Phấn

Luan van


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Luật – Học Viện Khoa Học Xã
Hội đã chỉ dạy cho em những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cần thiết trong
thời gian học tập vừa qua để em có thể thực hiện và hồn thành đề tài luận văn của
mình. Đặc biệt em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo
TS.Bùi Ngọc Cường đã luôn quan tâm, đồng hành và giúp đỡ em rất nhiều trong q
trình hồn thành đề tài luận văn thạc sỹ này.
Với trình độ cịn hạn chế nên bài luận văn của em khơng tránh khỏi nhiều thiếu
sót, em rất mong được các thầy cơ giáo góp ý để em có điều kiện học hỏi cũng như
tiếp thu, trang bị thêm kiến thức pháp luật phục vụ cho công việc sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!


Luan van


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ TÀI
SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN .......... 100
1.1. Khái quát về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán ................................................................................................................... 100
1.2. Pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán ................................................................................................................... 212
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA
DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO LUẬT PHÁ
SẢN .................................................................................................................. 311
2.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ............................... 311
2.2. Các quy định pháp luật hiện hành về quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán ............................................................................ 334
2.3. Một số nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán tại Việt Nam ............................................ 49
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN ............................................................. 623
3.1. Quan điểm hoàn thiện ......................................................................... 623
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán .......................................................................................... 639
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán ........................................................................................ 6968
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 723
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 745


Luan van


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT

VIẾT ÐẦY ÐỦ

1

LPS

Luật Phá sản

2

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

3

TAND

Tòa án nhân dân

4

DNQLTLTS


Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

Luan van


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Việt Nam, trong tiến trình đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường, pháp
luật về tham gia thị trường và rút khỏi thị trường của các chủ thể kinh doanh đã từng
bước đổi mới, góp phần quan trọng trong việc tạo khn khổ pháp lý cần thiết, tương
thích với các thơng lệ quốc tế trong xu thế hội nhập. Tuy nhiên, cũng còn tồn tại nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình điều chỉnh pháp luật cần tiếp tục luận giải,
trong đó có vấn đề điều chỉnh pháp luật về phá sản.
Theo quy định pháp luật hiện hành, phá sản là tình huống diễn ra khi doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Mặc dù khơng
phải tất cả các tình huống doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn đều dẫn đến phá sản doanh nghiệp, tình trạng mất khả năng thanh tốn
cho phép kích hoạt các thủ tục pháp lý về phá sản. Một trong những mục đích quan
trọng của thủ tục này là cho phép các chủ nợ có thể bảo vệ một cách tốt nhất quyền
lợi của mình khi con nợ mất khả năng thanh tốn. Để thực hiện mục đích này, quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là một trong những bộ phận
quan trọng nhất của pháp luật về phá sản. Việc quản lý tài sản khơng chỉ có ý nghĩa
ngăn cản việc tẩu tán tài sản, đảm bảo sự phân chia một cách công bằng và hợp lý
cho các chủ nợ mà cịn có ý nghĩa đảm bảo cho tài sản có thể được sử dụng một cách
hiệu quả trong quá trình tiến hành các bước của thủ tục phá sản, cho phép doanh
nghiệp có thể khơi phục lại hoạt động của mình nếu có khả năng.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế về pháp luật phá sản, đặc biệt đối với
cơ chế quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn. Một số hạn chế có
thể kể ra như tình trạng thiếu văn bản hướng dẫn thi hành, các văn bản pháp luật có

liên quan chưa đồng bộ, chưa phù hợp. Đặc biệt, ngay cả đối với LPS năm 2014 là
đạo luật mới nhất được ban hành về phá sản và đã kế thừa những điểm tích cực, tiến
bộ của LPS năm 2004, đồng thời có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hồn thiện
pháp luật về phá sản để phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước và quốc tế, thực
tiễn áp dụng các quy định LPS năm 2014 cũng cho thấy, một số quy định còn chưa
rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa bao quát tồn diện những phát sinh trong thực tiễn, ví dụ:

1

Luan van


việc thực hiện thủ tục kiểm kê tài sản thường kéo dài, ảnh hưởng đến tâm lý mong
muốn phục hồi doanh nghiệp của các bên liên quan; các chủ thể thực hiện quản lý tài
sản có vị trí, vai trị, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu; đặc biệt, những yếu tố
khác ảnh hưởng quan trọng đến kết quả thực hiện thủ tục này là sự thiếu minh bạch
về tài chính, kế tốn trong q trình hoạt động của doanh nghiệp, tâm lý bài trừ
doanh nghiệp đã thực hiện thủ tục phá sản nói chung trong xã hội… dẫn đến hiệu
quả quản lý tài sản khơng cao, cịn tạo ra những kẽ hở cho doanh nghiệp tẩu tán, làm
thất thốt tài sản.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu để hồn thiện những quy định của LPS năm 2014
và các văn bản pháp luật có liên quan về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn áp
dụng thủ tục phá sản, có thể tác động khơng nhỏ đối với sự vận hành của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ lý do này, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán theo pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay” làm
đề tài Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu về phá sản và pháp luật phá sản cũng như khía cạnh quản lý

tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn khơng phải là một chủ đề nghiên
cứu xa lạ ở Việt Nam và trên thế giới.
Tại Việt Nam, có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu cơng phu về chủ đề này
đã được cơng bố (sách tham khảo, giáo trình, luận án, luận văn, các bài viết nghiên
cứu…) đặc biệt là các cơng trình liên quan đến q trình xây dựng, ban hành LPS
doanh nghiệp năm 1993, LPS các năm 2004 và 2014.
Ở nước ngoài, một số nghiên cứu đã thực hiện cho thấy chủ đề phá sản được
phân tích, luận giải ở nhiều góc độ khác nhau như nội dung triết lý về phá sản doanh
nghiệp và việc tái cấu trúc, bảo hộ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ, đưa ra các
tiêu chí về phá sản…Các nghiên cứu này cung cấp những thơng tin tham khảo có giá trị
cho việc nghiên cứu về cơ chế giải quyết phá sản nói chung và vấn đề quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn nói riêng ở Việt Nam.

2

Luan van


Có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài khá đa dạng,
từ nghiên cứu chung về luật phá sản đến phân tích từng khía cạnh cụ thể trong quá
trình giải quyết phá sản của doanh nghiệp, trong phạm vi tìm hiểu của mình, tác giả
đã nghiên cứu được một số cơng trình sau đây:
* Tài liệu nghiên cứu trong nước:
1. PGS.TS. Dương Đăng Huệ (2005), Pháp luật phá sản của Việt Nam, Sách
tham khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Đây là cơng trình xác lập quan điểm về pháp luật phá sản trong nghiên cứu
và xây dựng Luật Phá sản, nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về các vấn đề
liên quan đến phá sản, phân tích về các chủ thể trong tố tụng phá sản, trong đó có
chủ thể quản lý và thanh lý tài sản, nghiên cứu nhiều quy định mới trong LPS năm
2004 so với LPS doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, đây là cơng trình nghiên cứu

chung, tổng thể các vấn đề mà khơng đi sâu phân tích về quản lý tài sản của doanh
nghiệp khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
2. Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Thực trạng
phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp
ở Việt Nam - Chủ nhiệm: ThS.Nguyễn Kim Anh.
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu và đánh giá pháp luật về phá sản ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới, tìm hiểu thực trạng thi hành LPS doanh nghiệp
năm 1993 ở Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là các văn bản pháp luật có
liên quan đến phá sản doanh nghiệp và tổ chức bộ máy thực thi LPS doanh nghiệp
năm 1993 như Tòa kinh tế thuộc TAND và các cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, Đề
tài đi sâu phân tích một số nét cơ bản đã được bổ sung, sửa đổi mà chưa đi sâu phân
tích về vấn đề quản lý tài sản của doanh nghiệp.
3. Đề tài khoa học năm 2008 của Bộ tư pháp: “Thực trạng pháp luật về phá
sản và việc hồn thiện mơi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam”PGS.TS.Dương Đăng Huệ và ThS.Nguyễn Thanh Tịnh làm chủ nhiệm.
Đề tài đã phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục phá sản
và tập trung vào vấn đề thực trạng thực hiện quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp. Làm rõ thực trạng giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, phát hiện những
tồn tại, hạn chế của LPS năm 2004, các văn bản pháp luật có liên quan cũng như

3

Luan van


các yếu tố khác làm ảnh hưởng đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản.
4. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2009), Đề tài khoa học cấp bộ “Các
giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam”,
Hà Nội - Chủ nhiệm PGS.TS Dương Đăng Huệ.
Đề tài bàn về mục tiêu của pháp luật phá sản hiện đại và quan điểm hoàn thiện
pháp luật phá sản Việt Nam không chỉ là việc thanh lý tài sản doanh nghiệp lâm vào

tình trạng phá sản, mà cịn có xu hướng hướng về doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ, đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam.
5. Trương Hồng Hải (2004), Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ
luật so sánh và phương hướng hồn thiện, Luận án tiến sĩ luật học.
Luận án tập trung nghiên cứu so sánh LPS doanh nghiệp năm 1993 của Việt
Nam với LPS của một số nước như Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga…trên những vấn
đề chủ yếu như: xác định tình trạng phá sản, phạm vi đối tượng của Luật Phá sản,
quản lý tài sản phá sản, mơ hình thủ tục tố tụng phá sản. Nghiên cứu đánh giá LPS
doanh nghiệp Việt Nam trong mối quan hệ so sánh với luật phá sản của một số nước
đồng thời rút ra kết luận về sự tương đồng cũng như sự khác biệt giữa pháp luật phá
sản của Việt Nam với luật phá sản của các nước cũng như những nguyên tắc, yếu tố
chi phối các đặc điểm đó.
6. Vũ Thị Hồng Vân - khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Quản lý và
xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam, Luận án tiến sĩ
luật học.
Luận án đã tập trung nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về thủ tục quản lý
và xử lý tài sản phá sản, trong đó có đề cập tới Tổ quản lý và thanh lý tài sản với tư
cách là chủ thể của hoạt động đó, đồng thời Luận án cũng phân tích, đánh giá những
bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật về chủ thể này trong thực tiễn. Tuy nhiên
luận án chưa có được những nghiên cứu tổng hợp, tồn diện về Tổ quản lý và thanh
lý tài sản với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong tố tụng phá sản.
7. Dương Kim Thế Nguyên (2015), Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo
pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học.

4

Luan van



Luận án phân tích về khái niệm phá sản, thủ tục phá sản và những liên hệ đến
LPS năm 2014, xác định rõ các đối tượng tổ chức tín dụng được áp dụng các quy
định đặc thù về giải quyết phá sản theo hướng loại trừ những đối tượng không áp
dụng các quy định này bao gồm, Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Phát triển
Việt Nam, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ.
8. An Phương Huệ (2004), Luật Phá sản của Việt Nam và Luật Phá sản của Cộng
hòa Pháp – những nét tương đồng và khác biệt, Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật phá sản Việt Nam trong
mối liên hệ so sánh với LPS Pháp, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm góp phần
hồn thiện pháp luật phá sản ở nước ta.
9. Nguyễn Đức Hải (2018), Pháp luật về quản tài viên và doanh nghiệp hành
nghề quản lý, thanh lý tài sản qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc
sỹ Luật học.
Luận văn phân tích chuyên sâu về chế định Quản tài viên và DNQLTLTS qua
thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng, từ đó rút ra những nhận xét và kiến nghị một số
giải pháp hoàn thiện.
Ngoài các sách tham khảo, Đề tài khoa học và các luận án, luận văn nêu trên, cịn có
nhiều cơng trình nghiên cứu thể hiện dưới dạng các giáo trình, đặc san tuyên truyền,
chuyên đề, các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trang thơng tin điện tử .v.v.
* Tài liệu nghiên cứu nước ngoài:
1. Roy Goode (1997), Principles of Corporate Insolvency Law, Sweet and
Maxwell, London cung cấp triết lý về phá sản doanh nghiệp và việc tái cấu trúc, bảo
hộ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ, bàn về các nguyên tắc của pháp luật
phá sản, đưa ra 10 nguyên tắc chung của pháp luật phá sản như quyền được tích lũy
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trước khi bị thanh lý hay nguyên
tắc về sự bình đẳng giữa các chủ nợ khơng có tài sản bảo đảm. Đồng thời, phân tích
về lý thuyết và phương thức thực hiện “tái cấu trúc” (restructure), “sắp xếp”
(arrangement) doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ.
2. European Parliament (2010), Harmonisation of insolvency law at EU level,
Brussels bàn về luật phá sản trong khối EU, phân tích đặc điểm, cách thức thực


5

Luan van


hiện tái cấu trúc doanh nghiệp trong thủ tục phá sản ở các nước. Phân chia ba tiêu
chí để xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ gồm: Tiêu chí định lượng;
tiêu chí kế tốn; tiêu chí dịng tiền (cash-flow).
3. Alan Schwartz (2005), A Normative Theory of Business Bankruptcy, Yale
Law School đã phân tích về Lý thuyết phá sản ban đầu, Lý thuyết phá sản hiện tại và
quan điểm hiện đại về lãi suất và đầu tư trong mối quan hệ về hiệu quả giữa phá
sản với những chi phí, lãi suất của pháp luật phá sản của Hoa Kỳ.
4. Eva Hüpkes (2003), Insolvency - why a special regime for banks?,
chỉ ra tính đặc
thù hay chế độ đặc biệt của phá sản ngân hàng, tổ chức tín dụng với những tiêu
chí khắt khe.
5. Richard M.Hynes, Steven D.Walt (2010), Why Banks Are Not Allowed
in Bankruptcy”, Article 4, Washington and Lee Law Review lý giải tại sao các ngân
hàng thì khơng được phép phá sản.
Nhìn chung, các cơng trình trên thường tập trung vào việc phân tích, đánh giá
khái quát về pháp luật phá sản, các cơ sở lý luận, nguyên tắc hoặc trình tự, thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp hoặc chủ yếu phân tích những
vấn đề đó trên cơ sở các LPS doanh nghiệp năm 1993, 2004, 2014 và các kinh nghiệm
từ nước ngoài. Các vấn đề về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán chủ yếu được lồng ghép trong nội dung nghiên cứu về phá sản.
Trong một giới hạn nhất định, các cơng trình nêu trên đã đưa ra những vấn đề
về cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp cho tác giả học hỏi, kế thừa những nghiên cứu
khoa học đó để góp phần xây dựng và hồn thiện Luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu lý luận về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán theo pháp luật phá sản Việt Nam, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
pháp luật và thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

6

Luan van


- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận chung của pháp luật về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán;
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; thực trạng thi hành pháp luật về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ở Việt Nam;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận văn:
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành pháp
luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn và các quy định
pháp luật có liên quan, từ đó phát hiện những hạn chế, bất cập để đề ra giải pháp hoàn
thiện.
- Luận văn giới hạn nghiên cứu quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
tốn (khơng bao gồm Hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã, tổ chức tín dụng và hộ kinh doanh).
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Giới hạn về thời gian: Luận văn nghiên cứu giới hạn từ thời điểm LPS năm

2014 có hiệu lực thi hành (ngày 01 tháng 01 năm 2015) trở lại đây;
- Giới hạn về khơng gian: Luận văn giới hạn việc tìm hiểu thực tiễn thi hành
pháp luật tại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu của Luận văn, tác giả áp dụng các phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu như sau:
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, bao gồm phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

7

Luan van


Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học
pháp lý như:
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương của luận văn để làm
rõ cơ sở lý luận của quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán như
phân tích khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn; phân tích
sự cần thiết và nội dung của thủ tục này; phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng
thi hành pháp luật và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, khắc phục những hạn chế
trong việc thực hiện thủ tục này.
- Phương pháp hệ thống hóa các luận điểm khoa học, tổng hợp: Thông qua các
phương pháp này, các thông tin đơn lẻ sẽ được tổng hợp, hệ thống hóa và xâu chuỗi
thành các nhóm vấn đề, được phân tích, khái qt hóa thành các luận điểm, xây dựng
khung lý thuyết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật. Phương
pháp này được sử dụng tại các chương nội dung của luận văn.

- Phương pháp luật học so sánh được sử dụng để tham khảo quy định pháp luật
và thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán của một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra một số kinh nghiệm cho Việt
Nam.
Ngồi ra, Luận văn cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, lịch sử… để giải quyết những vấn đề cơ bản của
Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh tốn, Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và
thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định này, nâng
cao hiệu quả của việc quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn
nói riêng cũng như hiệu lực và hiệu quả của pháp luật phá sản nói chung. Cụ thể
Luận văn có những đóng góp sau đây:
Một là, nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong sự đối chiếu, so sánh với pháp
luật của một số nước trên thế giới.
Hai là, phân tích những nội dung của pháp luật về quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, đồng thời chỉ ra một số quy định bất cập trong các

8

Luan van


văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam và những hạn chế, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng các quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán.
Ba là, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về phương hướng và một số giải pháp
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật Việt Nam về quản

lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Tác giả Luận văn hi vọng sẽ góp phần nhỏ vào việc củng cố cơ sở lý luận liên quan
đến quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong pháp luật phá sản
Việt Nam hiện nay. Bổ sung vào hệ thống tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, học tập và những người làm công tác thực tiễn liên quan đến vấn đề phá sản doanh
nghiệp và các chủ thể có thẩm quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh tốn, trong đó đặc biệt là các nhà quản lý doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn được chia làm ba chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán theo luật phá sản
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

9

Luan van


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ TÀI SẢN
CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
1.1. Khái quát về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Trên cơ sở đặc thù của hoạt động kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, khoa
học pháp lý ngày nay xem phá sản doanh nghiệp là một hiện tượng tất yếu trong nền
kinh tế thị trường [23, tr.33]. Đặc trưng cơ bản để xác định doanh nghiệp phá sản

được khoa học pháp lý đánh giá trước tiên là dấu hiệu “mất khả năng thanh toán”
các khoản nợ đến hạn, dấu hiệu này là căn cứ để khởi động các thủ tục pháp lý dẫn
đến TAND ra quyết định thụ lý vụ việc yêu cầu tuyên bố phá sản và tiến hành các
thủ tục phá sản. Như vậy, việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
tốn là căn cứ để Tịa án ra quyết định mở thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, tình trạng mất khả năng thanh tốn khơng nhất thiết sẽ dẫn tới việc mở
thủ tục phá sản. Trong khoảng thời gian kể từ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
cho tới khi Tịa án chính thức ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, nếu
doanh nghiệp có thể khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh tốn (có được nguồn
thu, được cấp một khoản tín dụng mới...) thì doanh nghiệp vẫn có cơ hội thỏa thuận với
chủ nợ về việc rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 37, LPS năm 2014). Nếu trong
khoảng thời gian tính từ khi Tịa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đến trước ngày ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản, nếu doanh nghiệp khơng cịn trong tình trạng
mất khả năng thanh tốn thì thủ tục phá sản sẽ được chấm dứt (Điều 86, LPS năm 2014).
Vì thế, việc xác định được nội hàm khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ sẽ quyết định cơ sở pháp lý đầu tiên của một doanh nghiệp bị phá sản
và là cơ sở cho việc thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như bảo vệ cho quyền, lợi ích của những người liên quan, đặc biệt là
con nợ. Đây cũng là vấn đề được đặt ra trong pháp luật phá sản của các quốc gia trên
thế giới. Theo đó, mất khả năng thanh tốn của doanh nghiệp (tiếng Anh được dịch
là “inability to pay” hay là “insolvent” trong cụm từ “insolvent enterprise”) được
hiểu là tình trạng một doanh nghiệp có một khoản nợ hay nghĩa vụ phải thực

10

Luan van


hiện đã đến hạn nhưng khơng được hồn trả đúng hạn cho đến thời điểm xem xét
vấn đề phá sản.

Để xác định yếu tố “mất khả năng thanh toán”, quan điểm pháp lý của các
nước trên thế giới được xác định theo nhiều cách khác nhau, trong đó thường được
xác định theo một trong hai tiêu chí hoặc kết hợp một số tiêu chí sau: tiêu chí về định
lượng và tiêu chí về định tính. Các tiêu chí định tính chỉ nêu ra trạng thái doanh
nghiệp mất khả năng thanh tốn nợ lâm vào tình trạng phá sản mà khơng cần
xác định bởi các con số cụ thể. Ví dụ:
Tại Nhật Bản, Điều 126 LPS của Nhật Bản ban hành ngày 25/4/1922 quy định:
“1. Khi một người mắc nợ không thể trả được nợ thì Tịa án sẽ ra quyết định tuyên
bố người đó phá sản theo đơn đề nghị. 2. Khi một người mắc nợ ngừng trả tiền thì
người đó được coi là khơng thể trả được nợ”. Như vậy, việc nhận định con nợ mất
khả năng thanh toán là người mắc nợ ngừng trả tiền cho các khoản nợ đến hạn của
mình, và điều này có thể bị Tòa án tuyên bố phá sản.
Hay tại Liên Bang Nga, theo Điều 3 Luật Mất khả năng thanh toán (phá sản)
của Cộng hịa Liên bang Nga năm 2002 thì các thể nhân, pháp nhân chỉ bị coi là đã
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn của con nợ nếu sau 03 tháng, kể từ ngày
đến hạn phải trả mà họ khơng trả được các món nợ đến hạn đó. Sự quy định rõ ràng
về thời gian chậm thanh tốn nhằm khẳng định tính nghiêm trọng của tình trạng mất
khả năng thanh toán của con nợ.
Ở Hoa Kỳ, pháp nhân, cá nhân, nếu do làm ăn thua lỗ, không có khả năng chi
trả các khoản nợ đến hạn, thì có quyền nộp đơn ra Tịa phá sản để u cầu bảo hộ
phá sản theo Chương 11 Luật Phá sản Mỹ năm 1800 (sửa đổi năm 1978) [25].
LPS Cộng hòa Pháp xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là khi
doanh nghiệp chứng minh được các khó khăn tài chính có thể dẫn đến mất khả năng
thanh tốn [26].
Điều 2 LPS Trung Quốc cũng xác định doanh nghiệp thuộc các trường hợp không
thể trả hết các khoản nợ đến hạn và tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả hết các
khoản nợ, hoặc doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn các khoản nợ của mình, có thể
nộp đơn lên TAND để tổ chức lại, thỏa hiệp hoặc thanh lý phá sản [27].

11


Luan van


Các tiêu chí định lượng thường xác định trên cơ sở một lượng giá trị bằng tiền
mà doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn nợ khơng trả được vào một thời điểm nhất
định, ví dụ, theo LPS của Singapore năm 1999 con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản
(lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn) khi khơng trả được số nợ đến hạn ít nhất
là 5.000$ Singapore; theo luật Mất khả năng thanh toán của Cộng hịa Liên bang Nga
năm 2002 thì số tiền đó là 100.000 rúp (Điều 6); ở Mỹ, số tiền này là không dưới
10.000 USD.
Trong quan điểm pháp lý về mất khả năng thanh toán nợ khi xây dựng LPS ở
Việt Nam, các nhà làm luật khơng dựa trên những tiêu chí định lượng cụ thể mà thiên
về tiêu chí định tính.
Cụ thể, tại Điều 864 Bộ luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 đã viết: "Thương
gia ngưng trả nợ có thể, đương nhiên hoặc theo đơn xin của trái chủ, bị Tịa tun
án khánh tận”. LPS doanh nghiệp năm 1993 khơng đưa ra định nghĩa doanh nghiệp
phá sản mà đưa ra khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản: “Doanh nghiệp
đang lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong
hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn
mất khả năng thanh tốn nợ đến hạn”. Quan điểm này cũng được các nhà lập pháp
tiếp tục ghi nhận và kế thừa một phần tại Điều 3 LPS năm 2004: "Doanh nghiệp, hợp
tác xã khơng có khả năng thanh tốn được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có u
cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”.
LPS năm 2014 đã khơng cịn sử dụng khái niệm doanh nghiệp "lâm vào tình trạng
phá sản” như LPS năm 2004, mà thay vào đó là khái niệm doanh nghiệp “mất khả năng
thanh toán”. Theo đó, Khoản 1 Điều 4 về giải thích từ ngữ LPS năm 2014 quy định:
“Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh tốn khi khơng thực hiện nghĩa vụ thanh
toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”.
Đồng thời, LPS năm 2014 xác định mất khả năng thanh tốn là “khơng thực

hiện nghĩa vụ thanh tốn” chứ khơng phải là “khơng có khả năng thanh toán” như
trong LPS n năm 2004. Sự khác biệt ở đây thể hiện ở ý muốn chủ quan của doanh
nghiệp. Nếu như trong LPS năm 2004, doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản
được hiểu là đang ở trong tình trạng khơng có khả năng thanh tốn (hết tài sản), thì

12

Luan van


đến LPS năm 2014, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán phụ thuộc vào cả ý muốn
chủ quan của doanh nghiệp đó và “khơng thực hiện nghĩa vụ thanh tốn” có thể hiểu
theo hai cách: một là doanh nghiệp đó khơng có tài sản để thanh tốn; hai là doanh
nghiệp vẫn có khả năng thanh tốn nhưng khơng muốn thanh tốn hoặc muốn trốn
tránh nghĩa vụ.
Có thể thấy, xét về điều kiện, khả năng của Nhà nước khó có thể kiểm sốt tài
sản, tài chính, hoạt động của doanh nghiệp nên từ khi ban hành Luật Phá sản từ năm
1993 cho đến nay việc lựa chọn tiêu chí định tính khi xác định yếu tố mất khả năng
thanh toán nợ của doanh nghiệp là hợp lý, điều này sẽ tạo điều kiện cho việc sớm mở
thủ tục phá sản cũng như khả năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp [6].
Tóm lại, doanh nghiệp được xem là mất khả năng thanh tốn khi có các đặc
điểm như sau:
Thứ nhất, khoản nợ của doanh nghiệp để xem xét việc mất khả năng thanh
toán là khoản nợ mà doanh nghiệp tạo ra từ hoạt động kinh doanh hợp pháp của
mình (bao gồm cả những khoản nợ thương mại và phi thương mại, ví dụ như phải
chấp hành một bản án có hiệu lực pháp luật). Theo LPS năm 2014 doanh nghiệp có
02 loại nợ là nợ có bảo đảm và nợ khơng có bảo đảm. Và có 03 chủ nợ là: chủ nợ có
bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, và chủ nợ khơng có bảo đảm. Trong đó,
khoản nợ đến hạn là điều kiện để đưa doanh nghiệp vào tình trạng mất khả năng

thanh tốn nợ chỉ bao gồm khoản nợ khơng có đảm bảo và khoản nợ có đảm bảo một
phần, các khoản nợ này đã rõ ràng được các bên xác nhận, có đầy đủ các giấy
tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp, cịn khơng bao hàm khoản nợ
có đảm bảo vì đã có tài sản bảo đảm thi hành cho khoản nợ này.
Thứ hai, về xác định giá trị khoản nợ, pháp luật một số nước như Singapore,
Nga, Mỹ… chọn cách xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán căn cứ vào giá
trị cụ thể của khoản nợ, cịn pháp luật phá sản Việt Nam khơng quy định một mức
khoản nợ cụ thể và không cần sự tương xứng giữa khoản nợ và tài sản hiện có của
doanh nghiệp, với lý do “tình hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau,
có thể có những doanh nghiệp nợ vài ba chục triệu nhưng khơng có cách gì để trả,

13

Luan van


trong lúc cũng có những doanh nghiệp nợ tới vài ba trăm triệu vẫn có khả năng thanh
tốn bình thường” [23, tr.339-340].
Thứ ba, doanh nghiệp khơng có khả năng thanh toán nợ được xem xét tại thời
điểm xác định, bao gồm cả trường hợp doanh nghiệp khơng có khả năng thanh toán
khoản nợ tạm thời và trường hợp doanh nghiệp khơng thể thanh tốn khoản nợ ở thời
điểm sau này, kể cả khi dự liệu việc có thể sử dụng các biện pháp can thiệp khác. Ngồi
ra, cịn trường hợp doanh nghiệp có khả năng thanh tốn những khoản nợ nhưng doanh
nghiệp cố tình khơng thanh tốn và khơng giới hạn doanh nghiệp khơng thực hiện nghĩa
vụ thanh tốn với bao nhiêu khoản nợ thì được coi là mất khả năng thanh tốn. Điều này
có nghĩa là chỉ cần có một khoản nợ mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán dù là nợ lương, nợ thuế hay bất kỳ khoản nợ nào từ hợp đồng,... thì doanh nghiệp
đó đã bị coi là mất khả năng thanh toán. Về bản chất, doanh nghiệp khơng mất khả năng
thanh tốn, nhưng về mặt pháp lý, đây vẫn được xem là trường hợp mất khả năng thanh
tốn của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, mất khả năng thanh tốn nợ khơng chỉ là hiện tượng doanh
nghiệp khơng thanh tốn được nợ mà nó cịn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào
tình trạng tài chính tuyệt vọng, có nghĩa là khơng thể trả được nợ và cần có sự can
thiệp của Tồ án hoặc phương án khác từ phía chủ nợ, các đối tác khác. Việc mất khả
năng thanh tốn có thể khơng trùng với biểu hiện bên ngồi là trả được nợ hay khơng,
khi mà thực tế có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là che đậy tình trạng tài chính
tuyệt vọng của doanh nghiệp, họ phải sử dụng nhiều cách thức gian trá để bù đắp
ngân quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản…[23, tr.340].
Thứ tư, thời hạn doanh nghiệp được xác định mất khả năng thanh toán là trong thời
hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán. LPS năm 2014 đã thay đổi cách tính thời hạn
là khi chủ nợ có yêu cầu (như LPS năm 2004) thành “kể từ ngày đến hạn thanh toán”,
điều này thể hiện tính khách quan, khơng bị phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ nợ (khi
chủ nợ có yêu cầu) vì mỗi doanh nghiệp sẽ có rất nhiều chủ nợ, khi đó, có chủ nợ muốn
yêu cầu, có chủ nợ khơng muốn u cầu, ngồi ra, điều này cịn tạo cơ hội cho các
chủ nợ là doanh nghiệp cạnh tranh lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu gây khó khăn
cho con nợ. Ngoài ra, quy định này giúp cho chủ nợ không cần phải chứng minh đã

14

Luan van


có u cầu thanh tốn nợ như LPS năm 2004 khi yêu cầu mở thủ tục phá sản với con
nợ. Như vậy, việc mất khả năng thanh toán khi đến hạn là căn cứ duy nhất mà doanh
nghiệp bị coi là mất khả năng thanh toán.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Xác định khái niệm và phạm vi khối tài sản doanh nghiệp mất khả năng thanh
tốn có ý nghĩa rất quan trọng trong pháp luật phá sản, đây là căn cứ để xác định một
doanh nghiệp có bị lâm vào tình trạng phá sản chưa và để đánh giá mức độ về tình
trạng nợ của doanh nghiệp đó ra sao. Xác định phạm vi khối tài sản cũng chi phối

việc lựa chọn thủ tục tố tụng phù hợp, nhằm đánh giá sự cần thiết áp dụng các biện
pháp bảo toàn, quản lý tài sản có lợi nhất cho chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ. Trên
thế giới, các nước đưa ra các khái niệm và đặc điểm tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán khác nhau như:
- Theo LPS của Nhật Bản, phạm vi khối tài sản bao gồm tất cả các tài sản còn
lại của con nợ. Khối tài sản này bao gồm tài sản của con nợ và quyền phủ nhận về tài
sản. LPS của Nhật Bản quy định: “Bất kỳ tài sản nào và tất cả những tài sản do bên
bị phá sản giữ tại thời điểm tuyên bố phá sản” đều thuộc khối tài sản phá sản. Tuy
nhiên, LPS của Nhật Bản lại có quy định về một loại tài sản được miễn trừ khỏi khối
tài sản đó là “tài sản tự do”, theo đó “tài sản tự do” được xác định là tài sản mới
thiết lập quyền sở hữu, tài sản không được phép cho vào danh sách tịch thu, tiền dưới
100 Yên Nhật và tài sản mà người làm thủ tục thanh lý xếp ở ngoài danh sách thanh
lý [28]. Ngoài ra, trong LPS của Nhật Bản quy định tài sản nào ở ngồi phạm vi lãnh
thổ của Nhật Bản khơng được coi là một bộ phận của khối tài sản phá sản do khả
năng giám sát, đánh giá, thu hồi là khó có thể tiến hành được.
- LPS của Hoa Kỳ ghi nhận “tài sản phá sản là khối sản nghiệp của doanh
nghiệp” (Điều 401), như: Tất cả số tài sản của con nợ mà không được miễn trừ tại
thời điểm bắt đầu vụ phá sản đó. Các tài sản mà con nợ có được trong vịng 180 ngày
sau khi vụ án bắt đầu bằng việc kế thừa những lợi ích từ chính sách bảo hiểm và bất
kỳ một lợi ích nào khác đối với tài sản có được sau khi vụ án bắt đầu. Các tài sản do
Tín thác viên thu hồi được theo thẩm quyền do luật định. Các tài sản miễn trừ gồm
các khoản trách nhiệm pháp lý đối với việc chiếm đoạt hoặc lừa dối, gây thương tích

15

Luan van


với một người hoặc làm hư hỏng tài sản, trợ cấp cho vợ, chồng, con; khoản nợ do
gian lận của con nợ khi biển thủ, trộm cắp [6, tr.92]...

- Theo quy định tại Điều 26 LPS của Liên Bang Nga ban hành ngày 26/10/2002
đã đưa ra cách xác định tài sản phá sản bao gồm: (i) Tất cả tài sản của người mắc nợ
thể hiện trong bảng cân đối kế toán hoặc các tài liệu kế toán thay thế là cơ sở để xác
định tài sản phá sản; (ii) Trong tài sản phá sản còn bao gồm các đối tượng thuộc lĩnh
vực công cộng nằm trong bảng cân đối của người mắc nợ, trừ quỹ nhà ở, các trường
mẫu giáo và các cơng trình sản xuất hạ tầng quan trọng đối với đời sống khu vực, cần
được đưa vào bảng cân đối của các cơ quan tự quản địa phương hoặc cơ quan quyền
lực nhà nước hữu quan, nếu pháp luật của Liên bang quy định khác… (iii) Tài sản
phá sản không bao gồm tài sản là vật bảo đảm. Tài sản phá sản không bao gồm tài
sản không thuộc quyền sở hữu của người mắc nợ, trong đó, có tài sản do mắc nợ thuê;
tài sản mà người mắc nợ có trách nhiệm bảo quản; tài sản riêng của công nhân viên
doanh nghiệp mắc nợ, trừ tài sản mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của
doanh nghiệp có thể được thu hồi để thực hiện các nghĩa vụ của người mắc nợ.
Có thể thấy, trong pháp luật các nước ngoài việc liệt kê danh mục các tài sản
phá sản thì cịn có danh mục tài sản được miễn trừ là các tài sản liên quan đến các đồ
vật phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mang tính chất tối thiểu, các tài sản bảo đảm
cuộc sống cho con nợ khi khơng cịn khả năng lao động hay các khoản tiền để thực
hiện trách nhiệm pháp lý với người khác.
Ở Việt Nam, từ LPS năm 2004 đã ghi nhận khái niệm “tài sản của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản”, khắc phục được tình trạng xác định tài sản một cách tản
mạn, không đầy đủ như trong LPS doanh nghiệp năm 1993. Đến LPS năm 2014,
ngoài việc thay khái niệm “doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản” bằng khái
niệm “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” và thay đổi thời điểm bắt đầu xác
định tài sản là “thời điểm Tòa án nhân dân quyết định mở thủ tục phá sản” và tài sản
“có được sau ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản” thì việc xác
định các tài sản chi tiết của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán cơ bản khơng có
gì thay đổi. Đồng thời, tất cả các LPS sản qua các thời kỳ đều không đưa ra khái niệm
“tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” mà chỉ liệt kê các loại tài sản

16


Luan van


của doanh nghiệp, vì vậy chưa mang tính khái qt cao và có thể dẫn tới việc liệt kê
thiếu các loại tài sản phát sinh của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn. Cũng như
khơng có quy định về tài sản thuộc diện loại trừ khỏi khối tài sản phá sản, điều này
chưa thể hiện được sự nhân đạo của Nhà nước cũng như các chủ nợ đối với doanh
nghiệp (các tài sản được liệt kê tại Điều 64 LPS năm 2014 - sẽ được phân tích cụ thể
tại chương 2).
Từ các phân tích trên, có thể rút ra đặc điểm tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán như sau:
Thứ nhất, về thời điểm xác định tài sản, tổng số tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán được xác định căn cứ vào thời điểm trong thủ tục giải quyết phá
sản. Mỗi nước có cách xác định khác nhau, như Hoa Kỳ là tất cả số tài sản của con
nợ mà không được miễn trừ tại thời điểm bắt đầu vụ phá sản đó, tại Việt Nam thì
khơng chỉ tính đến thời điểm TAND quyết định mở thủ tục phá sản mà còn bao gồm
cả tài sản có được sau ngày TAND ra quyết định mở thủ tục phá sản.
Thứ hai, về phạm vi không gian xác định tài sản, có nước chỉ coi những tài sản
hiện đang nằm trong phạm vi lãnh thổ của nước đó mới thuộc khối tài sản phá sản
(Nhật Bản), cịn Việt Nam coi các tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
bao gồm tất cả các tài sản mà doanh nghiệp đang sở hữu cả trong và ngoài phạm vi
lãnh thổ đất nước.
Thứ ba, xác định tài sản dựa vào loại hình tài sản hoặc nguồn hình thành tài sản.
Ví dụ: tài sản được phản ánh trên sổ sách kế toán; tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu,
tẩu tán tài sản của doanh nghiệp; tài sản và quyền tài sản có được do thu hồi từ giao
dịch vơ hiệu;...
Thứ tư, ngồi các tài sản được đã được xác định là tài sản phá sản thì cịn có
nhóm những tài sản loại trừ, ghi nhận những tài sản khơng tính vào khối tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, các dạng tài sản thuộc diện loại trừ có thể căn

cứ vào khơng gian mà tài sản tồn tại và thời điểm phát sinh tài sản như Nhật Bản hay
căn cứ vào giá trị tài sản, mục đích, cơng dụng của tài sản như Hoa Kỳ hoặc như Nga
căn cứ vào tính chất sở hữu tài sản.

17

Luan van


1.1.3. Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
a) Khái niệm và đặc điểm của quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán
Khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn, doanh nghiệp thường có tâm
lý nếu khơng phục hồi được hoạt động kinh doanh thì sớm muộn tài sản của họ cũng
bị thu hồi và thanh lý để trả cho các chủ nợ, do đó dễ nảy sinh hành động cất giấu,
tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh trách nhiệm trả nợ. Vì vậy, nếu để doanh nghiệp tiếp
tục quản lý khối tài sản của họ mà khơng có sự giám sát của một cơ quan, tổ chức
hay nhóm người nào đó thì khối tài sản đó sẽ khó được bảo toàn và hậu quả tất yếu
là các chủ nợ sẽ bị thiệt hại. Do vậy, để tránh những rủi ro cho xã hội và cho chính
doanh nghiệp, yêu cầu đặt ra là phải thành lập một chủ thể đặc biệt có trình độ, kinh
nghiệm quản lý và trong trường hợp cần thiết có quyền kiểm sốt cũng như áp dụng
các biện pháp cần thiết nhằm bảo toàn tài sản.
Hiện nay, các quy định của pháp luật hiện hành không đưa ra định nghĩa về
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán mà chỉ quy định những
chủ thể, đối tượng và hành vi của hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán. Song, khác với việc quản lý tài sản thông thường, quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là một hoạt động quản lý tài sản đặc biệt,
thể hiện ở một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, đối tượng của hoạt động quản lý tài sản là quản lý toàn bộ khối tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn, theo đó, tài sản chịu sự quản lý đa

dạng tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau, đó có thể là tài sản mà doanh nghiệp
đang trực tiếp sở hữu hoặc có thể là nguồn lợi, các tài sản hình thành trong tương lai
mà các hợp đồng đầu tư đem lại cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp tư nhân,
cơng ty hợp danh thì tài sản chịu quản lý còn bao gồm cả tài sản cá nhân hoặc tài sản
sở hữu chung chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên của cơng ty hợp danh. Chính
vì vậy, công việc quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn rất phức
tạp và gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong hoạt động xác định giá trị khối tài sản
hình thành trong tương lai của doanh nghiệp.
Thứ hai, chủ thể của hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán rất đa dạng, khơng chỉ có chính doanh nghiệp đó mà cịn bao gồm Tòa án,

18

Luan van


Quản tài viên, DNQLTLTS,...Bởi, khác với các quan hệ kinh doanh thương mại thông
thường chỉ nhắc đến hai loại chủ thể là bên mua và bên bán, trong vụ việc phá sản,
các chủ thể là con nợ và chủ nợ đều trong tình trạng dễ bị xâm phạm về quyền và lợi
ích do tính chất đặc thù của hoạt động phá sản. Do đó, cần có chủ thể khác can thiệp
vào quan hệ phá sản nhằm kiểm sốt tồn bộ quy trình phá sản, điều hịa mâu thuẫn
giữa chủ nợ và con nợ. Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không được độc quyền
quản lý và sử dụng tài sản của mình mà thay vào đó cần phải có sự tham gia quản lý
của các cơ quan, tổ chức khác đảm bảo tính khách quan và hiệu quả trong việc bảo
toàn tài sản.
Thứ ba, phương thức thực hiện việc quản lý tài sản đa dạng, bao gồm những
cách thức, biện pháp mà các chủ thể sử dụng để bảo toàn tài sản, hạn chế việc mất
mát, tẩu tán tài sản như: kiểm kê tài sản, thu hồi và quản lý tài sản, phối hợp các biện
pháp bảo toàn tài sản như giám sát, kiểm tra tài sản, lập danh sách chủ nợ, áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời… Để thực hiện được phương thức này yêu cầu chủ thể

tham gia quản lý tài sản phải nắm được các nguyên tắc, cách thức để xác định chính
xác khối tài sản của doanh nghiệp, đây là vấn đề vô cùng quan trọng để hiểu đúng
tính chất nợ, làm rõ được phạm vi quyền và nghĩa vụ của chủ nợ.
b) Ý nghĩa của quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Từ các đặc điểm của quản lý tài sản doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn đã
phân tích ở trên, có thể thấy, việc quản lý tài sản là cần thiết và tất yếu trong quá trình
giải quyết phá sản vì:
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản khơng đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ. Lúc
đó, người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá sản là một
phạm nhân, do đó, họ khơng những khơng được bảo vệ mà cịn bị trừng phạt bằng
nhiều hình thức, kể cả việc tử hình [8, tr.8]. Hiện nay, quan niệm về hoạt động kinh
doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của Nhà nước cũng như pháp luật về phá
sản, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán cũng đã được thiết kế theo hướng tích
cực, có lợi cho con nợ.
Chính vì thế, ngày nay, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
tốn thì việc làm đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết là tìm mọi cách để giúp

19

Luan van


×