VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯU THỊ PHẤN
QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT
KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯU THỊ PHẤN
QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT
KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.BÙI NGỌC CƯỜNG
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan rằng đây là bài nghiên cứu của cá nhân em với sự hướng dẫn
của thầy giáo TS.Bùi Ngọc Cường. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là hoàn toàn trung thực, các thơng tin trích dẫn trong bài luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 9 năm 2020
Học viên luận văn
Lưu Thị Phấn
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Luật – Học Viện Khoa Học Xã
Hội đã chỉ dạy cho em những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cần thiết trong
thời gian học tập vừa qua để em có thể thực hiện và hồn thành đề tài luận văn của
mình. Đặc biệt em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo
TS.Bùi Ngọc Cường đã luôn quan tâm, đồng hành và giúp đỡ em rất nhiều trong q
trình hồn thành đề tài luận văn thạc sỹ này.
Với trình độ cịn hạn chế nên bài luận văn của em khơng tránh khỏi nhiều thiếu
sót, em rất mong được các thầy cơ giáo góp ý để em có điều kiện học hỏi cũng như
tiếp thu, trang bị thêm kiến thức pháp luật phục vụ cho công việc sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ TÀI
SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN .......... 100
1.1. Khái quát về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán ................................................................................................................... 100
1.2. Pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán ................................................................................................................... 212
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA
DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO LUẬT PHÁ
SẢN .................................................................................................................. 311
2.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển pháp luật Việt Nam về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ............................... 311
2.2. Các quy định pháp luật hiện hành về quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán ............................................................................ 334
2.3. Một số nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán tại Việt Nam ............................................ 49
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN ............................................................. 623
3.1. Quan điểm hoàn thiện ......................................................................... 623
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán .......................................................................................... 639
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán ........................................................................................ 6968
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 723
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 745
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT
VIẾT ÐẦY ÐỦ
1
LPS
Luật Phá sản
2
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
3
TAND
Tòa án nhân dân
4
DNQLTLTS
Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Việt Nam, trong tiến trình đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường, pháp
luật về tham gia thị trường và rút khỏi thị trường của các chủ thể kinh doanh đã từng
bước đổi mới, góp phần quan trọng trong việc tạo khn khổ pháp lý cần thiết, tương
thích với các thơng lệ quốc tế trong xu thế hội nhập. Tuy nhiên, cũng còn tồn tại nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình điều chỉnh pháp luật cần tiếp tục luận giải,
trong đó có vấn đề điều chỉnh pháp luật về phá sản.
Theo quy định pháp luật hiện hành, phá sản là tình huống diễn ra khi doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Mặc dù khơng
phải tất cả các tình huống doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn đều dẫn đến phá sản doanh nghiệp, tình trạng mất khả năng thanh tốn
cho phép kích hoạt các thủ tục pháp lý về phá sản. Một trong những mục đích quan
trọng của thủ tục này là cho phép các chủ nợ có thể bảo vệ một cách tốt nhất quyền
lợi của mình khi con nợ mất khả năng thanh tốn. Để thực hiện mục đích này, quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là một trong những bộ phận
quan trọng nhất của pháp luật về phá sản. Việc quản lý tài sản khơng chỉ có ý nghĩa
ngăn cản việc tẩu tán tài sản, đảm bảo sự phân chia một cách công bằng và hợp lý
cho các chủ nợ mà cịn có ý nghĩa đảm bảo cho tài sản có thể được sử dụng một cách
hiệu quả trong quá trình tiến hành các bước của thủ tục phá sản, cho phép doanh
nghiệp có thể khơi phục lại hoạt động của mình nếu có khả năng.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế về pháp luật phá sản, đặc biệt đối với
cơ chế quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn. Một số hạn chế có
thể kể ra như tình trạng thiếu văn bản hướng dẫn thi hành, các văn bản pháp luật có
liên quan chưa đồng bộ, chưa phù hợp. Đặc biệt, ngay cả đối với LPS năm 2014 là
đạo luật mới nhất được ban hành về phá sản và đã kế thừa những điểm tích cực, tiến
bộ của LPS năm 2004, đồng thời có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hồn thiện
pháp luật về phá sản để phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước và quốc tế, thực
tiễn áp dụng các quy định LPS năm 2014 cũng cho thấy, một số quy định còn chưa
rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa bao quát tồn diện những phát sinh trong thực tiễn, ví dụ:
1
việc thực hiện thủ tục kiểm kê tài sản thường kéo dài, ảnh hưởng đến tâm lý mong
muốn phục hồi doanh nghiệp của các bên liên quan; các chủ thể thực hiện quản lý tài
sản có vị trí, vai trị, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu; đặc biệt, những yếu tố
khác ảnh hưởng quan trọng đến kết quả thực hiện thủ tục này là sự thiếu minh bạch
về tài chính, kế tốn trong q trình hoạt động của doanh nghiệp, tâm lý bài trừ
doanh nghiệp đã thực hiện thủ tục phá sản nói chung trong xã hội… dẫn đến hiệu
quả quản lý tài sản khơng cao, cịn tạo ra những kẽ hở cho doanh nghiệp tẩu tán, làm
thất thốt tài sản.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu để hồn thiện những quy định của LPS năm 2014
và các văn bản pháp luật có liên quan về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn áp
dụng thủ tục phá sản, có thể tác động khơng nhỏ đối với sự vận hành của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ lý do này, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán theo pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay” làm
đề tài Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu về phá sản và pháp luật phá sản cũng như khía cạnh quản lý
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn khơng phải là một chủ đề nghiên
cứu xa lạ ở Việt Nam và trên thế giới.
Tại Việt Nam, có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu cơng phu về chủ đề này
đã được cơng bố (sách tham khảo, giáo trình, luận án, luận văn, các bài viết nghiên
cứu…) đặc biệt là các cơng trình liên quan đến q trình xây dựng, ban hành LPS
doanh nghiệp năm 1993, LPS các năm 2004 và 2014.
Ở nước ngoài, một số nghiên cứu đã thực hiện cho thấy chủ đề phá sản được
phân tích, luận giải ở nhiều góc độ khác nhau như nội dung triết lý về phá sản doanh
nghiệp và việc tái cấu trúc, bảo hộ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ, đưa ra các
tiêu chí về phá sản…Các nghiên cứu này cung cấp những thơng tin tham khảo có giá trị
cho việc nghiên cứu về cơ chế giải quyết phá sản nói chung và vấn đề quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn nói riêng ở Việt Nam.
2
Có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài khá đa dạng,
từ nghiên cứu chung về luật phá sản đến phân tích từng khía cạnh cụ thể trong quá
trình giải quyết phá sản của doanh nghiệp, trong phạm vi tìm hiểu của mình, tác giả
đã nghiên cứu được một số cơng trình sau đây:
* Tài liệu nghiên cứu trong nước:
1. PGS.TS. Dương Đăng Huệ (2005), Pháp luật phá sản của Việt Nam, Sách
tham khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Đây là cơng trình xác lập quan điểm về pháp luật phá sản trong nghiên cứu
và xây dựng Luật Phá sản, nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về các vấn đề
liên quan đến phá sản, phân tích về các chủ thể trong tố tụng phá sản, trong đó có
chủ thể quản lý và thanh lý tài sản, nghiên cứu nhiều quy định mới trong LPS năm
2004 so với LPS doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, đây là cơng trình nghiên cứu
chung, tổng thể các vấn đề mà khơng đi sâu phân tích về quản lý tài sản của doanh
nghiệp khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
2. Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Thực trạng
phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp
ở Việt Nam - Chủ nhiệm: ThS.Nguyễn Kim Anh.
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu và đánh giá pháp luật về phá sản ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới, tìm hiểu thực trạng thi hành LPS doanh nghiệp
năm 1993 ở Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là các văn bản pháp luật có
liên quan đến phá sản doanh nghiệp và tổ chức bộ máy thực thi LPS doanh nghiệp
năm 1993 như Tòa kinh tế thuộc TAND và các cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, Đề
tài đi sâu phân tích một số nét cơ bản đã được bổ sung, sửa đổi mà chưa đi sâu phân
tích về vấn đề quản lý tài sản của doanh nghiệp.
3. Đề tài khoa học năm 2008 của Bộ tư pháp: “Thực trạng pháp luật về phá
sản và việc hồn thiện mơi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam”PGS.TS.Dương Đăng Huệ và ThS.Nguyễn Thanh Tịnh làm chủ nhiệm.
Đề tài đã phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục phá sản
và tập trung vào vấn đề thực trạng thực hiện quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp. Làm rõ thực trạng giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, phát hiện những
tồn tại, hạn chế của LPS năm 2004, các văn bản pháp luật có liên quan cũng như
3
các yếu tố khác làm ảnh hưởng đến việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản.
4. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2009), Đề tài khoa học cấp bộ “Các
giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam”,
Hà Nội - Chủ nhiệm PGS.TS Dương Đăng Huệ.
Đề tài bàn về mục tiêu của pháp luật phá sản hiện đại và quan điểm hoàn thiện
pháp luật phá sản Việt Nam không chỉ là việc thanh lý tài sản doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, mà cịn có xu hướng hướng về doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ, đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam.
5. Trương Hồng Hải (2004), Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ
luật so sánh và phương hướng hồn thiện, Luận án tiến sĩ luật học.
Luận án tập trung nghiên cứu so sánh LPS doanh nghiệp năm 1993 của Việt
Nam với LPS của một số nước như Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga…trên những vấn
đề chủ yếu như: xác định tình trạng phá sản, phạm vi đối tượng của Luật Phá sản,
quản lý tài sản phá sản, mơ hình thủ tục tố tụng phá sản. Nghiên cứu đánh giá LPS
doanh nghiệp Việt Nam trong mối quan hệ so sánh với luật phá sản của một số nước
đồng thời rút ra kết luận về sự tương đồng cũng như sự khác biệt giữa pháp luật phá
sản của Việt Nam với luật phá sản của các nước cũng như những nguyên tắc, yếu tố
chi phối các đặc điểm đó.
6. Vũ Thị Hồng Vân - khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Quản lý và
xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam, Luận án tiến sĩ
luật học.
Luận án đã tập trung nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về thủ tục quản lý
và xử lý tài sản phá sản, trong đó có đề cập tới Tổ quản lý và thanh lý tài sản với tư
cách là chủ thể của hoạt động đó, đồng thời Luận án cũng phân tích, đánh giá những
bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật về chủ thể này trong thực tiễn. Tuy nhiên
luận án chưa có được những nghiên cứu tổng hợp, tồn diện về Tổ quản lý và thanh
lý tài sản với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong tố tụng phá sản.
7. Dương Kim Thế Nguyên (2015), Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo
pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học.
4
Luận án phân tích về khái niệm phá sản, thủ tục phá sản và những liên hệ đến
LPS năm 2014, xác định rõ các đối tượng tổ chức tín dụng được áp dụng các quy
định đặc thù về giải quyết phá sản theo hướng loại trừ những đối tượng không áp
dụng các quy định này bao gồm, Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Phát triển
Việt Nam, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ.
8. An Phương Huệ (2004), Luật Phá sản của Việt Nam và Luật Phá sản của Cộng
hòa Pháp – những nét tương đồng và khác biệt, Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật phá sản Việt Nam trong
mối liên hệ so sánh với LPS Pháp, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm góp phần
hồn thiện pháp luật phá sản ở nước ta.
9. Nguyễn Đức Hải (2018), Pháp luật về quản tài viên và doanh nghiệp hành
nghề quản lý, thanh lý tài sản qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc
sỹ Luật học.
Luận văn phân tích chuyên sâu về chế định Quản tài viên và DNQLTLTS qua
thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng, từ đó rút ra những nhận xét và kiến nghị một số
giải pháp hoàn thiện.
Ngoài các sách tham khảo, Đề tài khoa học và các luận án, luận văn nêu trên, cịn có
nhiều cơng trình nghiên cứu thể hiện dưới dạng các giáo trình, đặc san tuyên truyền,
chuyên đề, các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trang thơng tin điện tử .v.v.
* Tài liệu nghiên cứu nước ngoài:
1. Roy Goode (1997), Principles of Corporate Insolvency Law, Sweet and
Maxwell, London cung cấp triết lý về phá sản doanh nghiệp và việc tái cấu trúc, bảo
hộ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ, bàn về các nguyên tắc của pháp luật
phá sản, đưa ra 10 nguyên tắc chung của pháp luật phá sản như quyền được tích lũy
tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trước khi bị thanh lý hay nguyên
tắc về sự bình đẳng giữa các chủ nợ khơng có tài sản bảo đảm. Đồng thời, phân tích
về lý thuyết và phương thức thực hiện “tái cấu trúc” (restructure), “sắp xếp”
(arrangement) doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ.
2. European Parliament (2010), Harmonisation of insolvency law at EU level,
Brussels bàn về luật phá sản trong khối EU, phân tích đặc điểm, cách thức thực
5
hiện tái cấu trúc doanh nghiệp trong thủ tục phá sản ở các nước. Phân chia ba tiêu
chí để xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ gồm: Tiêu chí định lượng;
tiêu chí kế tốn; tiêu chí dịng tiền (cash-flow).
3. Alan Schwartz (2005), A Normative Theory of Business Bankruptcy, Yale
Law School đã phân tích về Lý thuyết phá sản ban đầu, Lý thuyết phá sản hiện tại và
quan điểm hiện đại về lãi suất và đầu tư trong mối quan hệ về hiệu quả giữa phá
sản với những chi phí, lãi suất của pháp luật phá sản của Hoa Kỳ.
4. Eva Hüpkes (2003), Insolvency - why a special regime for banks?,
chỉ ra tính đặc
thù hay chế độ đặc biệt của phá sản ngân hàng, tổ chức tín dụng với những tiêu
chí khắt khe.
5. Richard M.Hynes, Steven D.Walt (2010), Why Banks Are Not Allowed
in Bankruptcy”, Article 4, Washington and Lee Law Review lý giải tại sao các ngân
hàng thì khơng được phép phá sản.
Nhìn chung, các cơng trình trên thường tập trung vào việc phân tích, đánh giá
khái quát về pháp luật phá sản, các cơ sở lý luận, nguyên tắc hoặc trình tự, thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp hoặc chủ yếu phân tích những
vấn đề đó trên cơ sở các LPS doanh nghiệp năm 1993, 2004, 2014 và các kinh nghiệm
từ nước ngoài. Các vấn đề về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán chủ yếu được lồng ghép trong nội dung nghiên cứu về phá sản.
Trong một giới hạn nhất định, các cơng trình nêu trên đã đưa ra những vấn đề
về cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp cho tác giả học hỏi, kế thừa những nghiên cứu
khoa học đó để góp phần xây dựng và hồn thiện Luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu lý luận về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán theo pháp luật phá sản Việt Nam, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
pháp luật và thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
6
- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận chung của pháp luật về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán;
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán; thực trạng thi hành pháp luật về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ở Việt Nam;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận văn:
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành pháp
luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn và các quy định
pháp luật có liên quan, từ đó phát hiện những hạn chế, bất cập để đề ra giải pháp hoàn
thiện.
- Luận văn giới hạn nghiên cứu quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
tốn (khơng bao gồm Hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã, tổ chức tín dụng và hộ kinh doanh).
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Giới hạn về thời gian: Luận văn nghiên cứu giới hạn từ thời điểm LPS năm
2014 có hiệu lực thi hành (ngày 01 tháng 01 năm 2015) trở lại đây;
- Giới hạn về khơng gian: Luận văn giới hạn việc tìm hiểu thực tiễn thi hành
pháp luật tại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu của Luận văn, tác giả áp dụng các phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu như sau:
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, bao gồm phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
7
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học
pháp lý như:
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương của luận văn để làm
rõ cơ sở lý luận của quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán như
phân tích khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn; phân tích
sự cần thiết và nội dung của thủ tục này; phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng
thi hành pháp luật và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, khắc phục những hạn chế
trong việc thực hiện thủ tục này.
- Phương pháp hệ thống hóa các luận điểm khoa học, tổng hợp: Thông qua các
phương pháp này, các thông tin đơn lẻ sẽ được tổng hợp, hệ thống hóa và xâu chuỗi
thành các nhóm vấn đề, được phân tích, khái qt hóa thành các luận điểm, xây dựng
khung lý thuyết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật. Phương
pháp này được sử dụng tại các chương nội dung của luận văn.
- Phương pháp luật học so sánh được sử dụng để tham khảo quy định pháp luật
và thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán của một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra một số kinh nghiệm cho Việt
Nam.
Ngồi ra, Luận văn cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, lịch sử… để giải quyết những vấn đề cơ bản của
Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh tốn, Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và
thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định này, nâng
cao hiệu quả của việc quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn
nói riêng cũng như hiệu lực và hiệu quả của pháp luật phá sản nói chung. Cụ thể
Luận văn có những đóng góp sau đây:
Một là, nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong sự đối chiếu, so sánh với pháp
luật của một số nước trên thế giới.
Hai là, phân tích những nội dung của pháp luật về quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, đồng thời chỉ ra một số quy định bất cập trong các
8
văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam và những hạn chế, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng các quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán.
Ba là, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về phương hướng và một số giải pháp
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật Việt Nam về quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Tác giả Luận văn hi vọng sẽ góp phần nhỏ vào việc củng cố cơ sở lý luận liên quan
đến quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong pháp luật phá sản
Việt Nam hiện nay. Bổ sung vào hệ thống tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, học tập và những người làm công tác thực tiễn liên quan đến vấn đề phá sản doanh
nghiệp và các chủ thể có thẩm quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh tốn, trong đó đặc biệt là các nhà quản lý doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn được chia làm ba chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán theo luật phá sản
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ TÀI SẢN
CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
1.1. Khái quát về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Trên cơ sở đặc thù của hoạt động kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, khoa
học pháp lý ngày nay xem phá sản doanh nghiệp là một hiện tượng tất yếu trong nền
kinh tế thị trường [23, tr.33]. Đặc trưng cơ bản để xác định doanh nghiệp phá sản
được khoa học pháp lý đánh giá trước tiên là dấu hiệu “mất khả năng thanh toán”
các khoản nợ đến hạn, dấu hiệu này là căn cứ để khởi động các thủ tục pháp lý dẫn
đến TAND ra quyết định thụ lý vụ việc yêu cầu tuyên bố phá sản và tiến hành các
thủ tục phá sản. Như vậy, việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
tốn là căn cứ để Tịa án ra quyết định mở thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, tình trạng mất khả năng thanh tốn khơng nhất thiết sẽ dẫn tới việc mở
thủ tục phá sản. Trong khoảng thời gian kể từ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
cho tới khi Tịa án chính thức ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, nếu
doanh nghiệp có thể khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh tốn (có được nguồn
thu, được cấp một khoản tín dụng mới...) thì doanh nghiệp vẫn có cơ hội thỏa thuận với
chủ nợ về việc rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 37, LPS năm 2014). Nếu trong
khoảng thời gian tính từ khi Tịa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đến trước ngày ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản, nếu doanh nghiệp khơng cịn trong tình trạng
mất khả năng thanh tốn thì thủ tục phá sản sẽ được chấm dứt (Điều 86, LPS năm 2014).
Vì thế, việc xác định được nội hàm khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ sẽ quyết định cơ sở pháp lý đầu tiên của một doanh nghiệp bị phá sản
và là cơ sở cho việc thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như bảo vệ cho quyền, lợi ích của những người liên quan, đặc biệt là
con nợ. Đây cũng là vấn đề được đặt ra trong pháp luật phá sản của các quốc gia trên
thế giới. Theo đó, mất khả năng thanh tốn của doanh nghiệp (tiếng Anh được dịch
là “inability to pay” hay là “insolvent” trong cụm từ “insolvent enterprise”) được
hiểu là tình trạng một doanh nghiệp có một khoản nợ hay nghĩa vụ phải thực
10
hiện đã đến hạn nhưng khơng được hồn trả đúng hạn cho đến thời điểm xem xét
vấn đề phá sản.
Để xác định yếu tố “mất khả năng thanh toán”, quan điểm pháp lý của các
nước trên thế giới được xác định theo nhiều cách khác nhau, trong đó thường được
xác định theo một trong hai tiêu chí hoặc kết hợp một số tiêu chí sau: tiêu chí về định
lượng và tiêu chí về định tính. Các tiêu chí định tính chỉ nêu ra trạng thái doanh
nghiệp mất khả năng thanh tốn nợ lâm vào tình trạng phá sản mà khơng cần
xác định bởi các con số cụ thể. Ví dụ:
Tại Nhật Bản, Điều 126 LPS của Nhật Bản ban hành ngày 25/4/1922 quy định:
“1. Khi một người mắc nợ không thể trả được nợ thì Tịa án sẽ ra quyết định tuyên
bố người đó phá sản theo đơn đề nghị. 2. Khi một người mắc nợ ngừng trả tiền thì
người đó được coi là khơng thể trả được nợ”. Như vậy, việc nhận định con nợ mất
khả năng thanh toán là người mắc nợ ngừng trả tiền cho các khoản nợ đến hạn của
mình, và điều này có thể bị Tòa án tuyên bố phá sản.
Hay tại Liên Bang Nga, theo Điều 3 Luật Mất khả năng thanh toán (phá sản)
của Cộng hịa Liên bang Nga năm 2002 thì các thể nhân, pháp nhân chỉ bị coi là đã
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn của con nợ nếu sau 03 tháng, kể từ ngày
đến hạn phải trả mà họ khơng trả được các món nợ đến hạn đó. Sự quy định rõ ràng
về thời gian chậm thanh tốn nhằm khẳng định tính nghiêm trọng của tình trạng mất
khả năng thanh toán của con nợ.
Ở Hoa Kỳ, pháp nhân, cá nhân, nếu do làm ăn thua lỗ, không có khả năng chi
trả các khoản nợ đến hạn, thì có quyền nộp đơn ra Tịa phá sản để u cầu bảo hộ
phá sản theo Chương 11 Luật Phá sản Mỹ năm 1800 (sửa đổi năm 1978) [25].
LPS Cộng hòa Pháp xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là khi
doanh nghiệp chứng minh được các khó khăn tài chính có thể dẫn đến mất khả năng
thanh tốn [26].
Điều 2 LPS Trung Quốc cũng xác định doanh nghiệp thuộc các trường hợp không
thể trả hết các khoản nợ đến hạn và tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả hết các
khoản nợ, hoặc doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn các khoản nợ của mình, có thể
nộp đơn lên TAND để tổ chức lại, thỏa hiệp hoặc thanh lý phá sản [27].
11
Các tiêu chí định lượng thường xác định trên cơ sở một lượng giá trị bằng tiền
mà doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn nợ khơng trả được vào một thời điểm nhất
định, ví dụ, theo LPS của Singapore năm 1999 con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản
(lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn) khi khơng trả được số nợ đến hạn ít nhất
là 5.000$ Singapore; theo luật Mất khả năng thanh toán của Cộng hịa Liên bang Nga
năm 2002 thì số tiền đó là 100.000 rúp (Điều 6); ở Mỹ, số tiền này là không dưới
10.000 USD.
Trong quan điểm pháp lý về mất khả năng thanh toán nợ khi xây dựng LPS ở
Việt Nam, các nhà làm luật khơng dựa trên những tiêu chí định lượng cụ thể mà thiên
về tiêu chí định tính.
Cụ thể, tại Điều 864 Bộ luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 đã viết: "Thương
gia ngưng trả nợ có thể, đương nhiên hoặc theo đơn xin của trái chủ, bị Tịa tun
án khánh tận”. LPS doanh nghiệp năm 1993 khơng đưa ra định nghĩa doanh nghiệp
phá sản mà đưa ra khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản: “Doanh nghiệp
đang lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong
hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn
mất khả năng thanh tốn nợ đến hạn”. Quan điểm này cũng được các nhà lập pháp
tiếp tục ghi nhận và kế thừa một phần tại Điều 3 LPS năm 2004: "Doanh nghiệp, hợp
tác xã khơng có khả năng thanh tốn được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có u
cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”.
LPS năm 2014 đã khơng cịn sử dụng khái niệm doanh nghiệp "lâm vào tình trạng
phá sản” như LPS năm 2004, mà thay vào đó là khái niệm doanh nghiệp “mất khả năng
thanh toán”. Theo đó, Khoản 1 Điều 4 về giải thích từ ngữ LPS năm 2014 quy định:
“Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh tốn khi khơng thực hiện nghĩa vụ thanh
toán khoản nợ trong iệc như là để điểm
danh cho sự có mặt. Ngồi ra, cơng ty này cũng khơng nộp báo cáo tài chính của năm
2017 do khơng có báo cáo tài chính [19].
Trong trường hợp trên, mặc dù Khoản 5 Điều 65 LPS năm 2014 quy định trường
hợp đại diện doanh nghiệp và những người khác không hợp tác về việc kiểm kê tài
sản hoặc cố tình làm sai lệch việc kiểm kê tài sản thì bị xử lý theo quy định của pháp
luật. Tuy nhiên việc áp dụng quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại Mục 37 của Nghị định 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015
[4] cũng bất khả thi (vì doanh nghiệp khơng cịn ai để mà xử lý).
Bên cạnh đó, về nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính của Công ty SOFEL, Luật Phá
sản hiện hành chỉ quy định nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính trong 03 năm gần nhất đối
56
với trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điểm
a Khoản 3 Điều 28 LPS), còn lại các trường hợp do người khác nộp đơn thì doanh
nghiệp phá sản khơng có nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính. Trường hợp trên, Cơng ty
SOFEL bị chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tháng 09/2019, Công ty này
không nộp báo cáo tài chính của năm 2017 do khơng có báo cáo tài chính (và cũng
khơng có nghĩa vụ bắt buộc phải nộp). Việc này khó khăn cho q trình xác định tình
trạng tài chính, tài sản của cơng ty này (khơng có người làm kế tốn, khơng làm kiểm
tốn, hồ sơ kế tốn khơng cịn).
Ngồi ra, kể cả những trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục là chính
doanh nghiệp và doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính thì tình trạng thực
tế là doanh nghiệp làm sổ sách kế tốn rất sơ sài, có doanh nghiệp cịn khơng có sổ
sách kế tốn, hoặc làm chứng từ kế tốn giả dẫn đến sự khơng rõ ràng, minh bạch về
công nợ. Sự không minh bạch về tài chính khiến cho việc xác định phạm vi cũng như
tình trạng tài sản của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
+ Về quy định mở tài khoản ngân hàng của Tòa án
Điều 16 LPS năm 2014 quy định về Quyền, nghĩa vụ của Quản tài viên,
DNQLTLTS, trong đó, tại Điểm i Khoản 1 có ghi nhận nghĩa vụ của Quản tài viên
như sau: “Gửi các khoản tiền thu được vào tài khoản do Tòa án nhân dân, cơ quan
thi hành án dân sự có thẩm quyền mở tại ngân hàng”. Điều này có nghĩa là, trong
giai đoạn mở thủ tục phá sản tại Tịa án, sau khi có quyết định chỉ định Quản tài viên
của Thẩm phán có thẩm quyền thì Quản tài viên được chỉ định đó phải gửi các khoản
tiền thu được trong quá trình thực hiện việc quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh
doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán vào một tài khoản
ngân hàng do TAND có thẩm quyền mở. Với nội dung quy định này đã gây ra nhiều
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành ở các địa phương khác nhau. Cụ thể,
có Tịa án tiến hành chỉ mở một tài khoản ngân hàng do Chánh án TAND cấp đó làm
chủ tài khoản và tất cả số tiền thu được từ các vụ phá sản khác nhau đều nộp chung
vào đó. Cũng có Tịa án lại mở từng tài khoản ngân hàng riêng cho mỗi vụ phá sản
và chủ tài khoản ngân hàng đó vẫn là Chánh án, hoặc có nơi thì mở từng tài khoản
ngân hàng khác nhau cho mỗi vụ phá sản và chủ tài khoản đó chính là Thẩm phán
57
được phân công giải quyết từng vụ phá sản cụ thể đó. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do
luật khơng có quy định cụ thể, rõ ràng và hiện nay cũng chưa có văn bản cụ thể nào
của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về vấn đề này.
2.3.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế
Thứ nhất, do chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành hoạt động quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn. Từ khi LPS năm 2014 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đến nay, mới chỉ có có văn bản hướng dẫn thi
hành là Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của LPS về Quản tài viên và hành nghề quản lý,
thanh lý tài sản. Nghị định quy định chủ yếu các vấn đề liên quan đến Quản tài viên
như: nguyên tắc hành nghề; những hành vi bị nghiêm cấm; chứng chỉ hành nghề;
nghĩa vụ…. Như vậy, về bản chất, Nghị định trên chỉ mang tính chất hướng dẫn thi
hành một số điều về hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong đó có hoạt động của
Quản tài viên mà chưa có nghị định nào hướng dẫn chi tiết thi hành chung đối với
LPS năm 2014 và các hoạt động về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh tốn. Do đó, việc hiểu và áp dụng các quy định liên quan đến hoạt động quản
lý tài sản của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, về chế định Quản tài viên
+ Chế định Quản tài viên là một chế định mới, vì thế, việc áp dụng chế định
Quản tài viên tại Việt Nam hiện nay vẫn cịn gặp khơng ít khó khăn, lúng túng trong
hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn nói riêng, trong
giải quyết vụ việc phá sản nói chung [13].
So với lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm của các nước trên thế
giới, nghề Quản tài viên ở nước ta chỉ mới hình thành, chế định quản tài viên và
DNQLTLTS còn rất mới, vì vậy các quy định pháp luật chưa hồn chỉnh, nhận thức
của của cơ quan tòa án, cơ quan thi hành án, doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán và bản thân những người hành nghề Quản tài viên đối với hoạt động
Quản tài viên cũng chưa thực sự đầy đủ và toàn diện.
+ Số lượng Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản cịn ít
58
Về số lượng, trong thời gian qua, việc cấp chứng chỉ cho Quản tài viên,
DNQLTLTS và tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về thanh lý tài sản còn ít.
Dẫn đến cơ hội lựa chọn Quản tài viên và DNQLTLTS tham gia vào hoạt động quản
lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn khơng nhiều. Theo thống kê
của Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, thực hiện Nghị định số 22/2015/NĐ-CP,
tính đến năm 2016, Bộ Tư pháp đã cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên cho
824 người có đủ điều kiện hành nghề thanh lý tài sản và 19 Giấy chứng nhận đăng
ký hành nghề thanh lý tài sản cho doanh nghiệp. Chỉ tính riêng tại địa bàn thành phố
Hà Nội, từ khi LPS năm 2014 có hiệu lực đến tháng 12 năm 2019 mới có 38 Quản tài
viên và 06 doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản [22].
+ Chất lượng Quản tài viên chưa đáp ứng được yêu cầu
Hiện nay, những người được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên chủ yếu là
những người có năng lực về mặt pháp luật như luật sư, còn những người hoạt động
thuộc các lĩnh vực khác đăng ký hành nghề Quản tài viên là rất ít. Mặt khác, hoạt
động quản lý tài sản của Quản tài viên ngồi có năng lực pháp luật cần thiết phải có
các năng lực về tài chính, kinh tế, quản trị kinh doanh, thuế,... Tuy nhiên, rất ít Quản
tài viên có kiến thức đầy đủ về tất cả các lĩnh vực trên mà chủ yếu mỗi người chỉ có
kiến thức chuyên ngành. Do đó, nhiều trường hợp Quản tài viên chỉ nhìn nhận sự việc
dưới góc độ chun ngành mà vơ hình chung lại cản trở doanh nghiệp phục hồi hoạt
động, bỏ qua các cơ hội, thời cơ của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc cấp chứng chỉ Quản tài viên chỉ căn cứ vào các văn bằng, chứng
chỉ chứ chưa tổ chức được việc thi, sát hạch năng lực của Quản tài viên. Vì vậy, chất
lượng của các Quản tài viên nhiều khi khơng đủ trình độ, năng lực để quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Một lý do nữa là, số lượng doanh nghiệp có u cầu mở thủ tục phá sản ít so
với tổng doanh nghiệp rút khỏi thị trường, do đó, sự tham gia của Quản tài viên và
DNQLTLTS còn hạn chế dẫn đến thiếu kinh nghiệm thực tế và cũng có ít cơ hội được
rèn luyện để nâng cao năng lực trong hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh tốn.
+ Chưa có cơ chế, chính sách hoàn chỉnh cho việc hành nghề của Quản tài viên.
59
Về bản chất, Quản tài viên là một chủ thể độc lập nhưng thực chất hoạt động
của Quản tài viên là giúp việc cho Thẩm phán trong hoạt động quản lý tài sản của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Trên thực tế, hoạt động của Quản tài viên
được xem như là hoạt động dịch vụ, không được xem trọng, khơng đảm bảo sự phù
hợp với vị trí vai trị của nó dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa đạt được kết quả cao.
Thứ ba, từ phía cơ quan có thẩm quyền
Thực tế thi hành pháp luật về phá sản nói chung và hoạt động quản lý tài sản
của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn nói riêng cho thấy, số lượng cũng như
chất lượng của đội ngũ cán bộ Thẩm phán còn hạn chế, chưa đáp ứng được những
đòi hỏi của hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn. Bên cạnh
đó, nhiều Thẩm phán còn làm việc theo phong cách cũ, chưa bám sát vào những điểm mới
của LPS năm 2014 để giải quyết vụ việc phá sản, từ đó nảy sinh ra những vi phạm hoặc
bỏ qua các bước trong hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp.
Mặt khác, công tác bồi dưỡng kiến thức về phá sản và hoạt động quản lý tài sản
ở một số Tòa án địa phương chưa được trú trọng; chưa thực hiện công tác tổng kết
kinh nghiệm và tìm ra những khó khăn vướng mắc trong hoạt động quản lý tài sản để
từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật. Trong
khi đó, pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn cịn
nhiều vướng mắc, bất cập; chưa kể tính chất phức tạp của việc giải quyết phá sản
cũng như quản lý tài sản của doanh nghiệp đòi hỏi người Thẩm phán giải quyết khơng
chỉ có kiến thức về pháp luật mà còn phải am hiểu về các lĩnh vực chuyên ngành khác
như tài chính, kế tốn, ngân hàng, quản trị kinh doanh,...
Thứ tư, nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán và các chủ nợ, cụ thể: doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn có
tâm lý sợ bị tun bố phá sản, quan niệm việc bị tuyên bố phá sản là bất đắc dĩ và gây
ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của doanh nghiệp trên thị trường kinh doanh hơn là
một cơ hội để khôi phục hoạt động kinh doanh; chủ nợ thì sợ doanh nghiệp bị tuyên
bố phá sản, khi thanh tốn theo thứ tự ưu tiên thì mình sẽ khơng địi được nợ nên
khơng muốn nộp đơn u cầu phá sản đối với con nợ; người lao động thì sợ mất việc
60
làm và thu nhập hàng tháng nên cũng có tâm lý không muốn doanh nghiệp bị tuyên
bố phá sản. Do đó, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp dù đã mất khả năng thanh
tốn nhưng vẫn khơng bị u cầu mở thủ tục phá sản. Vì vậy, đây là cơ hội cho doanh
nghiệp có thời gian thực hiện các hành vi làm thất thốt, cố tình tẩu tán tài sản, cho
đến khi đưa ra Tòa án giải quyết thủ tục phá sản thì cơng tác quản lý tài sản khơng
cịn ý nghĩa vì doanh nghiệp đã hết hoặc gần như khơng cịn tài sản.
Tiểu kết Chương 2
Qua nghiên cứu về thực trạng pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán cho thấy:
LPS năm 2014 có nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với LPS năm 2004, 1993, góp
phần đáng kể cho việc thực hiện có hiệu quả hơn pháp luật về phá sản trong thực tiễn,
đặc biệt là pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Cụ thể:
LPS năm 2014 đã thay đổi cơ bản và toàn diện về chủ thể tham gia quản lý tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn, trong đó phải đặc biệt kể đến cơ chế
quản lý tài sản mới là Quản tài viên và DNQLTLTS với nhiều quy định tiến bộ.
Qua phân tích tại chương 2 cũng có thể thấy, mặc dù việc áp dụng các quy định
của pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đã đạt
được những kết quả nhất định trong thực tế. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy
định này cũng đang dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được hoàn thiện và bổ
sung trong thời gian tới. Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy
định pháp luật về thủ tục phá sản ở Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra những hạn
chế, khuyết điểm và nguyên nhân khiến cho việc áp dụng pháp luật về quản lý tài sản
của doanh nghiệp phá sản đạt hiệu quả chưa cao, làm cơ sở phân tích, định hướng và
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như các giải pháp
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về lĩnh vực này trong Chương 3 của Luận văn.
61
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
MẤT KHẢ NĂNG THANH TỐN
3.1. Quan điểm hồn thiện
Qua những phân tích quy định pháp luật phá sản hiện hành về quản lý tài sản
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, có thể thấy, LPS năm 2014 đã khắc phục được
rất nhiều hạn chế trong pháp luật phá sản trước đây. Tuy nhiên, những quy định trong
Luật phá sản về quản lý tài sản doanh nghiệp mất khả năng thanh toán cịn có thể tiếp
tục hồn thiện hơn nữa theo một số quan điểm hoàn thiện pháp luật sau:
Thứ nhất, quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
tốn phải bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật phá sản của
Việt Nam, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật, khơng có
sự mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản pháp luật khác, phù hợp với thực tiễn nền
kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, các quy định về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
tốn phải bảo đảm cụ thể hố và khơng có sự xung đột với các quy định của các điều
ước quốc tế mà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên. Cần nghiên cứu, tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán, đặc biệt là chế định về Quản tài viên.
Thứ ba, bảo đảm mục tiêu quản lý hiệu quả tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh tốn, bảo đảm sự cơng bằng cho các bên trong vụ việc phá sản. Cơ chế
quản lý tài sản phải có những quy định quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán nhưng không làm ảnh hưởng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
đồng thời tránh các tác động tiêu cực từ phía chủ nợ vào tài sản của doanh nghiệp.
Như vậy, hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán phải bảo đảm vừa duy trì tính ổn định của tài sản, vừa góp phần thúc đẩy
doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh nếu có thể.
62
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán
Thứ nhất, về tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Cần bổ sung các quy định về tài sản được loại trừ khỏi khối tài sản phá sản,
LPS năm 2014 không đưa danh mục các tài sản thuộc diện loại trừ khỏi khối tài sản
phá sản, trong khi đó, nếu xét ở khía cạnh nhân đạo và thơng lệ chung của quốc tế thì
đối với trường hợp con nợ là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của
công ty hợp danh thì pháp luật cũng phải xác định tài sản miễn trừ khi giải quyết phá
sản đối với họ. Theo thơng lệ của các nước thì các tài sản, quyền về tài sản được miễn
trừ bao gồm: các đồ vật phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mang tính chất tối thiểu của
con nợ và các khoản trợ cấp cho con nợ do khơng cịn khả năng lao động, do bệnh
tật, do mất việc làm; tiền lương hưu, các khoản nhận được từ hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ,… những tài sản này được quy định miễn trừ khỏi tài sản phá sản là hợp lý và cần
thiết. Vì vậy, pháp luật phá sản nước ta nên bổ sung quy định về các loại tài sản miễn
trừ khỏi khối tài sản phá sản để đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán.
Thứ hai, về chủ thể quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn
+ Về loại hình của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
Theo như phân tích tại mục 2.3.2 những hạn chế, bất cập, loại hình của
DNQLTLTS đang cịn bị bó hẹp trong hai loại hình là cơng ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân. Vì vậy, đề nghị xem xét, cân nhắc mở rộng thêm loại hình được phép
tổ chức thành lập là công ty trách nhiệm hữu hạn thay vì chỉ được thành lập theo hai
loại hình như hiện nay, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được mở rộng hoạt động cũng
như thêm nhiều lựa chọn khi thành lập doanh nghiệp.
+ Về chỉ định Quản tài viên
Hiện nay việc chỉ định Quản tài viên vẫn còn gặp nhiều lúng túng, như trường hợp
Quản tài viên được chỉ định nhưng Quản tài viên đó lại có văn bản từ chối tham gia vụ
phá sản, hay căn cứ bắt buộc để Thẩm phán chỉ định Quản tài viên, DNQLTLTS là khi
có đề xuất của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điểm b Khoản 2 Điều 45 LPS
năm 2014) nhưng không quy định hạn chế số lượng; không quy định rõ số lượng Quản
63