VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CHU NGỌC PHÚ
ÁP DỤNG ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BÌNH PHƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2021
Luan van
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CHU NGỌC PHÚ
ÁP DỤNG ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGHIÊM XUÂN MINH
HÀ NỘI, 2021
Luan van
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác.
Tác giả
Chu Ngọc Phú
Luan van
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG ÁN TREO ........ 8
1.1. Nhận thức chung về áp dụng án treo.......................................................... 8
1.2. Quy định của pháp luật về áp dụng án treo .............................................. 20
1.3. So sánh án treo với một số chế định khác ................................................ 29
1.4. Chủ thể, quan hệ phối hợp trong áp dụng án treo .................................... 33
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH ÁN TREO TẠI CÁC
TỊA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC ............................................ 37
2.1. Khái quát tình hình áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước ......... 37
2.2. Thực trạng áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2016 –
2020 ................................................................................................................. 40
2.3. Nhận xét, đánh giá về nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế khi áp
dụng án treo tại tỉnh Bình Phước .................................................................... 56
Chương 3: GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG ÁN TREO TRONG THỰC
TIỄN ............................................................................................................... 63
3.1. Các yếu tố tác động đến hiệu quả áp dụng đúng án treo ......................... 63
3.2. Một số giải pháp góp phần áp dụng đúng án treo trong thực tiễn ........... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 84
Luan van
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL
: Áp dụng pháp luật
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX
: Hội đồng xét xử
VKS
: Viện kiểm sát
Luan van
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để cơng cuộc đấu tranh của các lực lượng có thẩm quyền với các tội
phạm có hiệu quả, trên cơ sở nguyên tắc phân hóa rõ ràng về trách nhiệm hình
sự, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, Bộ luật hình sự hiện hành
quy định hệ thống hình phạt có tính phân hóa cao để áp dụng đối với từng loại
tội phạm và đối với từng người phạm tội. Mục đích của việc Tịa án áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội bên cạnh việc trừng trị người phạm tội vì họ
có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, giáo dục họ trở thành người có ích cho
gia đình, xã hội, có ý thức tn theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Tuy nhiên, để đạt được mục đích của hình phạt,
bên cạnh việc áp dụng hình phạt - trong một số trường hợp nhất định sẽ đạt
hiệu quả cao hơn nếu áp dụng biện pháp cưỡng chế hình sự khác, khơng buộc
người phạm tội phải cách ly hồn tồn khỏi gia đình, khỏi xã hội. Một trong
các biện pháp khác đó được áp dụng trong thực tiễn là án treo. Phạt tù nhưng
cho người phạm tội hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập, thể hiện
quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong việc áp dụng pháp luật hình sự, đó là
nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tạo điều kiện
cho người phạm tội được giáo dục cải tạo tại gia đình, tại cộng đồng. Đây
chính là tính ưu việt của chế định án treo.
Chế định án treo được quy định trong hệ thống Luật hình sự của
nước ta từ rất sớm, sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội ban
hành thì đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc có nên bỏ chế định án
treo hay khơng? vì án treo và hình phạt cải tạo khơng giam giữ tương đối
tương đồng, có nhiều điểm giống nhau. Mặc dù vậy, trải qua các lần sửa
đổi bổ sung của Bộ luật hình sự thì chế định án treo khơng những khơng bị
bỏ đi mà cịn được giữ lại, bổ sung và ngày càng được hoàn thiện. Điều này
khẳng định chế định án treo trong hệ thống Luật hình sự nước ta có một vị
1
Luan van
trí, vai trị hết sức quan trọng trong cơng tác đấu tranh và phòng chống đối
với các loại tội phạm, án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án có
thể tự học tập, lao động, cải tạo bản thân trở thành cơng dân có ích cho
cộng đồng xã hội dưới sự giúp đỡ, giám sát, giáo dục của các cơ quan đồn
thể, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, của cả gia đình và tồn xã
hội. Chế định án treo đã thể hiện được vai trò của mình trong q trình đấu
tranh phịng ngừa và chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự bình n cho tồn xã
hội. Đặc biệt chế định án treo đã thể hiện rõ bản chất nhân đạo trong chính
sách hình sự của Nhà nước ta, thể hiện sự khoan hồng và tính ưu việt của
chính sách hình sự xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong hệ thống Tịa án ở nước ta
nói chung và áp dụng chế định án treo ở Bình Phước nói riêng trong thời gian
qua về cơ bản cho thấy: Tòa án các cấp phần lớn đều áp dụng tương đối chính
xác pháp luật hình sự và đã đạt được những kết quả nhất định; các trường hợp
được hưởng án treo phần lớn được áp dụng đúng pháp luật, có tính giáo dục,
phịng ngừa cao. Tuy nhiên, vẫn cịn có những hạn chế nhất định, chẳng hạn
như việc vận dụng các quy định về điều kiện cho hưởng án treo cịn chưa
chính xác, đối tượng được áp dụng án treo trong nhiều trường hợp có sự nhầm
lẫn. Từ những phân tích trên đây thì việc nghiên cứu một cách chuyên sâu và
toàn diện về việc áp dụng chế định án treo tại địa bàn tỉnh Bình Phước là hết
sức cần thiết góp phần hồn thiện hơn các quy định của pháp luật hình sự về
chế định án treo và từ đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế
định án treo trên thực tế. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài "Áp dụng án treo
từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Án treo là một trong những chế định pháp lý hình sự có ý nghĩa quan
trọng về mặt lý luận và thực tiễn đối với hoạt động đấu tranh phòng ngừa và
2
Luan van
chống tội phạm trong xã hội. Do đó, chế định án treo khơng những sớm được
thể chế hố trong hệ thống các quy định của pháp luật hình sự thực định ở
nước ta mà còn là vấn đề được các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý nói
chung và khoa học luật hình sự nói riêng đặc biệt quan tâm nghiên cứu, tìm
hiểu. Có thể nói, trong những năm gần đây đã có rất nhiều cơng trình khoa
học, các đề tài, các chuyên đề, các bài báo… nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau đề cập nghiên cứu về án treo đã được công bố, cụ thể như sau:
- Các bài viết liên quan đến án treo:
+ Bài viết: “Một số vấn đề về tổng hợp hình phạt tù với án treo” đăng
trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 9 năm 2012 của tác giả Đinh Văn Quế.
+ Bài viết “Án treo và thực tiễn” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số
14 năm 2013 của tác giả Đỗ Văn Chỉnh.
+ Bài viết: “Những vướng mắc của tổng hợp hình phạt tù có thời hạn
với án treo trong thực tiễn xét xử hiện nay” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân
dân số 6 năm 2012 của tác giả Phạm Minh Tuyên.
- Các luận án, luận văn thạc sĩ luật học đã bảo vệ thành công:
+ Luận án tiến sỹ luật học – Học viện khoa học xã hội: “Chế định án
treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn miền Trung và Tây
Nguyên” của tác giả Nguyễn Văn Bường năm 2017.
+ Luận văn thạc sỹ luật học – Học viện khoa học xã hội: “Áp dụng án
treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của Trần
Quang Hiếu năm 2017.
Các cơng trình khác:
+ Giáo trình:“Cơ chế quốc tế và khu vực về quyền con người” của Học
viện khoa học xã hội, Nhà xuất bản khoa học xã hội năm 2014.
+ Sách chuyên khảo: “Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt
Nam” tác giả Hồ Sỹ Sơn của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
3
Luan van
Qua nghiên cứu tình hình liên quan đến đề tài án treo cho thấy: có rất
nhiều các cơng trình khoa học ở các cấp độ khác nhau đã nghiên cứu về vấn
đề này. Tuy nhiên nội dung của luận văn mà tác giả nghiên cứu có cách tiếp
cạnh, phân tích và nghiên cứu theo hướng khác so với các luận văn nói trên,
khơng nặng về phân tích và bình luận lý thuyết đơn thuần mà luận văn chủ
yếu dựa trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nói chung và thực tiễn
áp dụng án treo nói riêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước, ngồi ra bản thân tác
giả đã cơng tác nhiều năm trong ngành Tồ án, trực tiếp xét xử, trực tiếp áp
dụng án treo nên từ thực tiễn hoạt động xét xử đã phát hiện những vấn đề còn
tồn tại, bất cập trong việc áp dụng các quy định về án treo, từ đó đặt ra mục
tiêu nghiên cứu những bất cập đó.
Đề tài luận văn cịn nhằm mục đích tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề
lý luận cơ bản về án treo, đi từ lịch sử ra đời của chế định cho đến án treo
được quy định ra sao trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành, tìm ra những
nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng án treo không đúng pháp luật trong hoạt
động xét xử các vụ án hình sự trên tồn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh
Bình Phước nói riêng, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp khắc phục, hoàn
thiện chế định án treo về mặt lý luận, đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trong thực tiễn xét xử.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở quy định của pháp luật về án treo luận văn làm rõ việc áp
dụng án treo của các cơ quan có thẩm quyền – trong đó chủ đạo là ngành Tịa
án trong thực tiễn để tìm ra những khó khăn, hạn chế trong áp dụng án treo và
đưa ra đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng chế định này tại tỉnh
Bình Phước nói riêng, cả nước nói chung.
4
Luan van
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn cần thực hiện những
nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến án treo và
áp dụng án treo.
- Phân tích các quy định của pháp luật hình sự, từ đó làm rõ nội hàm
của các quy định pháp luật hình sự về án treo và áp dụng án treo.
- Phân tích, đánh giá số liệu cụ thể, đánh giá các vụ án thực tiễn áp
dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước, những hạn chế, bất cập và nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập đó.
- Đề xuất các giải pháp áp dụng đúng án treo trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về áp dụng
án treo; hoạt động áp dụng án treo của các cơ quan có thẩm quyền mà chủ đạo
là ngành Tòa án trong quá trình xét xử các vụ án hình sự có người phạm tội
được hưởng án treo theo quy định của pháp luật hình sự qua thực tiễn áp dụng
án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Từ đó nghiên cứu kiến nghị các giải
pháp áp dụng đúng áp dụng án treo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chun ngành khoa học
luật hình sự và khoa học luật tố tụng hình sự về hoạt động áp dụng án treo của
các cơ quan có thẩm quyền mà chủ đạo là ngành Tịa án trong q trình xét
xử các vụ án hình sự có người phạm tội được hưởng án treo theo quy định của
pháp luật qua thực tiễn việc áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
- Về khơng gian: Khảo sát nghiên cứu những vấn đề về áp dụng án treo
trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
-Về thời gian: số liệu nghiên cứu từ năm 2016 đến hết năm 2020.
5
Luan van
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở lý luận
Luận văn được tác giả nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về những
quy định của chính sách hình sự nói chung, về tội phạm và hình phạt cũng
như những quy định của pháp luật về áp dụng án treo nói riêng phù hợp với
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 làm phương pháp luận nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh việc sử dụng có sự kết hợp nhuần nhuyễn cơ sở lý luận nói
trên, trong q trình nghiên cứu về áp dụng án treo tại tỉnh Bình Phước, tác
giả cịn sử dụng có sự kết hợp đan xen và khoa học trong một tổng thể các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp thống kê; phương pháp so sánh; phương pháp kết hợp đối chiếu
giữa lý luận và thực tiễn.
Đồng thời, luận văn còn sử dụng kết hợp đan xen một số phương pháp
của các ngành khoa học khác như: phương pháp thống kê xã hội, phương
pháp lôgic học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận
về áp dụng án treo để giúp người đọc hiểu đầy đủ và đúng cũng như nhận
thức sâu hơn những vấn đề lý luận về áp dụng án treo như: khái niệm, điều
kiện, ý nghĩa của chế định án treo, lịch sử hình thành và phát triển của chế
định án treo…
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có giá trị tham khảo đối với việc xây dựng những quan điểm
về chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam về án treo nói
riêng cũng như việc áp dụng án treo trên thực tế.
6
Luan van
Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có giá trị tham khảo đối với việc
giảng dạy và học tập, nghiên cứu về chính sách hình sự, những quy định của
pháp luật hình sự về án treo tại các cơ sở đào tạo Công an nhân dân, những cơ
sở đào tạo cử nhân luật, thạc sỹ luật ở nước ta.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận
văn gồm 03 chương sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về áp dụng án treo
Chương 2. Thực tiễn áp dụng án treo tại các Tịa án nhân dân tỉnh Bình
Phước
Chương 3. Các giải pháp áp dụng đúng án treo trong thực tiễn
7
Luan van
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG ÁN TREO
1.1.
Nhận thức chung về áp dụng án treo
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa án treo
1.1.1.1. Khái niệm án treo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015 thì: “Khi xử phạt
tù khơng q 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nếu xét thấy khơng cần phải bắt chấp hành
hình phạt tù, thì Tịa án cho người phạm tội được hưởng án treo và ấn định
thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong
thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.” [27, tr 45].
Có thể thấy Luật hình sự Việt Nam không đưa ra khái niệm nào liên quan về
án treo.
Chế định án treo từ khi mới ra đời trong Luật hình sự nước ta cho đến
thời điểm được chính thức quy định tại Điều 44 BLHS năm 1985 là bước tiến
dài và đã có những quan điểm, quan niệm rất khác nhau, đôi lúc án treo theo
quy định của Luật hình sự được hiểu là một biện pháp “tạm đình chỉ việc thi
hành án” (tại Điều 10 sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946) hoặc là một biện
pháp hỗn hình phạt có điều kiện cũng có khi: Án treo được hiểu là một biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (theo Nghị quyết số
01/1990/NQ-HĐTP TANDTC). Hay theo Công văn số 36/NCPL ngày
30/04/1992 của TANDTC giải thích về chế định án treo như sau: “Pháp luật
hình sự của nước ta từ trước tới nay chưa bao giờ coi “án treo” là một loại
hình phạt. Trong hệ thống các văn bản pháp luật và trong tất cả các đạo luật
hình sự của nước ta đã và đang ban hành từ sau Cách mạng tháng Tám đến
nay có quy định về tội phạm và hình phạt thì đều khơng quy định loại hình
phạt “án treo”. Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27/06/1985 và
8
Luan van
có hiệu lực từ 01/01/1986 tại Chương V quy định về hình phạt và tại Điều 20
về các hình phạt quy định có 7 loại hình phạt chính lần lượt là “cảnh cáo; phạt
tiền; cải tạo không giam giữ; cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội; tù có thời
hạn; tù chung thân; tử hình”. Tại Điều 16 BLHS năm 1985 cũng quy định về
7 loại hình phạt bổ sung cụ thể như sau: “cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm
những nghề hoặc công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số
quyền công dân; tước danh hiệu quân nhân; tịch thu tài sản, phạt tiền” (đối
với trường hợp khơng áp dụng là hình phạt chính). Như vậy, trong BLHS năm
1985 có 7 hình phạt chính và 7 hình phạt bổ sung nhưng hồn tồn khơng có
“án treo”. Điều này có nghĩa là “án treo” khơng phải là là một loại hình phạt.
Tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao đã đưa ra khái niệm án treo sau đây: “Án treo là miễn
chấp hành hình phạt tù có điều kiện, tức là căn cứ vào nhân thân của người bị
kết án và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tồ án sẽ miễn cho
người bị kết án khơng phải chấp hành hình phạt nếu trong thời gian thử thách,
người đó khơng phạm tội mới”. Trên thực tế, có khơng ít trường hợp do
khơng nắm vững nội dung, nội hàm của án treo, chưa hiểu một cách đầy đủ về
án treo nên đã có người hiểu sai rằng án treo là một loại hình phạt, thậm chí
cịn cho rằng án treo là một loại tù treo, gọi sai án treo là “tù treo” và cho là
“tù treo” nhẹ hơn “tù giam”. Chỉ có “án treo” với nghĩa là “miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện”, chứ khơng có “tù treo” với tính chất là một loại
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù”.
Ngồi quan niệm về án treo được hiểu là một biện pháp “tạm đình chỉ
việc thi hành án” (tại Điều 10 sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946) hoặc là
một biện pháp “hỗn hình có điều kiện” (Thơng tư số 2308/NCPL ngày
01/12/1961 của TANDTC) thì chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm về án treo
khác hoặc trái với sự giải thích, hướng dẫn của TANDTC tại Nghị quyết số
17 01/1990/NQ-HĐTP TANDTC mà đều thống nhất “án treo là một biện
9
Luan van
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện…”. Tác giả Đinh Văn Quế đã
định nghĩa về án treo “là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện,
áp dụng đối với người bị phạt tù không quá ba năm tù, căn cứ vào nhân thân
của người phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ TNHS, nếu xét thấy
không cần bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù”. [24] Hay
PGS.TSKH Lê Văn Cảm lại cho rằng: “án treo được hiểu là biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với
những người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ
nhất định và những điều kiện cụ thể do pháp luật hình sự quy định”.
Để áp dụng thống nhất chế định án treo, Hội đồng Thẩm phán
TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP TANDTC ngày
15/05/2018 hướng dẫn cụ thể, chi tiết về áp dụng Điều 65 của BLHS liên
quan đến án treo. Theo đó, ngồi điều kiện đầu tiên là người phạm tội bị xử
phạt tù không quá 03 năm thì người được hưởng án treo phải có nhiều tình
tiết giảm nhẹ TNHS. Nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định của BLHS
được hướng dẫn là phải có từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên và khơng có
tình tiết tăng nặng TNHS, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ TNHS
quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015. Trường hợp người phạm
tội vừa có tình tiết giảm nhẹ TNHS vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết
giảm nhẹ TNHS phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ 02 tình tiết trở lên trong
đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 của
BLHS năm 2015. Ngoài ra người phạm tội phải có nhân thân tốt, có nơi cư trú
(thường trú hoặc tạm trú) rõ ràng để các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám
sát, giáo dục thì mới có thể được Tòa án xem xét áp dụng án treo.
Như vậy: Án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
có điều kiện… án treo thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, có
tác dụng khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng
với sự giúp đỡ tích cực của cộng đồng xã hội cũng như gia đình đồng thời
10
Luan van
cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc phải chấp
hành hình phạt tù giam đối với bản án đã tuyên”. Từ các quan điểm trên về án
treo và nội dung về án treo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS 2015, có thể
đưa ra khái niệm về án treo như sau: Án treo là một chế định pháp lý hình sự
đặc biệt, được gọi là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, do
HĐXX nhân danh Nhà nước quyết định trên cơ sở căn cứ vào mức hình phạt
tù đã tuyên đối với người phạm tội không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân
người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì HĐXX cho
người đó được hưởng án treo, khơng buộc phải chấp hành hình phạt tại trại
giam đồng thời ấn định thời gian thử thách từ một đến năm năm.
Như vậy, án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự lao động
cải tạo tại cộng đồng để hoàn lương, với sự giám sát, giáo dục, giúp đỡ tích
cực của chính quyền địa phương nơi người phạm tội cư trú hoặc nơi người
phạm tội công tác hoặc sự giúp đỡ từ gia đình, người thân, bạn bè và xã hội.
Án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của chính sách hình sự nước ta
với phương châm “trừng trị kết hợp với giáo dục” và thể hiện tính nhân đạo
XHCN trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Áp dụng đúng đắn các quy
định về án treo sẽ có tác dụng tốt là không buộc người bị kết án phải cách ly
khỏi đời sống xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở
thành người có ích cho xã hội, hoà nhập với cộng đồng, giác ngộ được ý thức
chấp hành chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tuân thủ quy tắc
cuộc sống XHCN.
1.1.1.2. Đặc điểm của án treo
Theo Nghị định 02/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính Phủ
hướng dẫn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thì việc thi hành hình phạt
tù cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo học
tập, làm ăn, sinh sống cũng như chứng tỏ sự hối cải, hồn lương của mình
ngay trong một mơi trường xã hội bình thường, dưới sự quản lý, giám sát,
11
Luan van
giáo dục của các cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo
hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi người chấp hành án treo làm việc, cơng
tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của người đó. Người được hưởng án treo
phải chịu sự thử thách dưới sự quản lý, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ
chức giám sát, giáo dục và gia đình của người đó trong thời gian thử thách.
Với mục đích chung của án treo là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật thì
việc thi hành án treo vẫn có những đặc điểm riêng, cụ thể:
Thứ nhất: Áp dụng án treo trong xét xử VAHS là hoạt động tố tụng
hình sự trong đó Tồ án nhân danh quyền lực Nhà nước quyết định hình phạt
đối với tội phạm. Đây là q trình TAND thơng qua Hội đồng xét xử cá biệt
hố các quy phạm pháp luật hình sự đối với một hay nhiều hành vi phạm tội
của người phạm tội trong một vụ án hình sự để Hội đồng xét xử quyết định
hình phạt, xem xét có nên hay không nên cho người bị kết án (phạt tù) được
hưởng án treo.
Thứ hai, áp dụng án treo được quyết định trực tiếp tại phiên toà. Theo
quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, hoạt động xét xử của Toà
án được tiến hành trực tiếp tại phiên tồ hình sự; trên cơ sở đó áp dụng án treo
thực chất là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Toà án phải được quyết
định ngay tại phiên tồ. Qua đó thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam là nhà nước dân chủ nhân dân thơng qua nhiều hoạt động
khác nhau trong đó có hoạt động xét xử Toà án nhân dân, bởi lẽ: Hoạt động
xét xử của Tịa án thơng qua các phiên tồ trong đó có phiên tịa hình sự
khơng chỉ là nơi thể hiện sự tôn nghiêm của pháp luật, mà còn là nơi quần
chúng nhân dân, các cơ quan hữu quan như báo chí, đài phát thanh truyền
hình trực tiếp chứng kiến các quyền, nghĩa vụ của bị cáo, của những người
tham gia tố tụng tại phiên toà, của Nhà nước được bảo đảm thực hiện, cũng
như được pháp luật bảo vệ. Tại TA, mọi diễn biến, quá trình, bản chất của vụ
12
Luan van
án sẽ được TA thẩm vấn công khai trừ một số trường hợp xét xử kín theo quy
định của BLTTHS nhưng bản án cũng phải công bố công khai.
Thứ ba, hoạt động áp dụng án treo trong thực tế phải bảo đảm tuân thủ
đầy đủ các nguyên tắc cơ bản theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự như
quá trình Hội đồng xét xử quyết định áp dụng án treo phải tuân thủ các
nguyên tắc: Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử cơng khai, ngun tắc bảo đảm
quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, nguyên tắc TA xét xử tập
thể và quyết định theo đa số, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm
nhân dân tham gia, nguyên tắc hai cấp xét xử,… Tất cả những nguyên tắc này
nhằm bảo đảm sự chính xác, khách quan, cơng bằng, vơ tư khi quyết định
hình phạt và cho người phạm tội hưởng án treo.
Thứ tư, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện,
khơng phải là một loại hình phạt vì BLHS quy định khơng có hình phạt tù
treo. Trong các văn bản pháp luật hình sự của nước ta đã ban hành từ sau
Cách mạng tháng 8 đến nay có quy định về tội phạm và hình phạt thì đều
khơng có văn bản pháp luật nào quy định loại hình phạt là án treo. Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành quy định hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt
chính và hình phạt bổ sung, trong đó có bảy hình phạt chính là tử hình, tù
chung thân, tù có thời hạn, trục xuất, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, cảnh
cáo và năm hình phạt bổ sung là: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân, quản chế, cấm cư
trú và tịch thu tài sản còn án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
khi người phạm tội có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự
hiện hành. Trong thực tế do khơng nắm vững quy định của pháp luật cũng
như hiểu đúng tính chất của chế định của án treo nên đã có người hiểu sai
rằng án treo là một loại hình phạt thậm chí cịn gọi sai là tù treo và cho là tù treo
nhẹ hơn tù giam. Ở đây cần hiểu rõ: Tù giam, tù treo là những thuật ngữ không
13
Luan van
chính xác về mặt pháp lý. Chỉ có hình phạt tù (bao gồm tù có thời hạn và tù
chung thân) cịn giam là việc thi hành hình phạt tù. Chỉ có án treo với nghĩa là
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, chứ khơng có tù treo với tính chất là
một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
1.1.1.3. Ý nghĩa của án treo
Án treo là một chế định pháp lý hình sự thể hiện rất rõ ràng tính chất
nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Với phương
châm của án treo là giáo dục kết hợp với khoan hồng, án treo không buộc
người phạm tội bị kết án tù phải cách ly khỏi xã hội một khoảng thời gian
nhất định mà tạo điều kiện cho họ được cải tạo trong môi trường cùng cộng
đồng xã hội, họ vẫn được học tập, làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải,
hoàn lương của mình ngay trong mơi trường xã hội một cách bình thường
dưới sự theo dõi, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Án
treo có một số ý nghĩa sau đây:
- Ý nghĩa về mặt xã hội
Xét về mặt xã hội: Chế định án treo ra đời là sự phát triển tất yếu của
quá trình phát triển và biến đổi của xã hội, là nhu cầu về tự do của cá nhân.
Do đó, chế định án treo có ý nghĩa vơ cùng to lớn trong đời sống xã hội, phản
ánh sự mong mỏi được TA nhân danh Nhà nước khoan hồng, nhân đạo khi
con người lỡ lầm phạm tội gây ra hậu quả không lớn cho xã hội.
Chế định án treo bảo đảm cho sự công bằng trong xã hội nói chung cũng
như trong tố tụng hình sự nói riêng. Một người phạm tội nào đó mà hành vi
phạm tội của họ đáng bị phạt tù nhưng không cần cách ly họ khỏi xã hội vẫn
đảm bảo được sự cải tạo của họ thì TA nhân danh Nhà nước cho hưởng lượng
khoan hồng của pháp luật, cho họ chấp hành hình phạt tại cộng đồng, tức là
quyết định có cho người đó hưởng án treo. Đó là lẽ công bằng của xã hội và
cũng là sự cơng bằng của pháp luật hình sự.
14
Luan van
Xét phương diện triết học: Mối quan hệ giữa pháp luật về án treo và
các quan hệ xã hội khác nói chung là quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và
cơ sở hạ tầng, hai mối quan hệ này biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Sự
tác động này thể hiện theo hai hướng: Tác động tích cực thì thúc đẩy xã hội
phát triển, áp dụng chế định án treo trở thành một giá trị nhân đạo của cuộc
sống, có ý nghĩa đối với người phạm tội và cộng đồng xã hội nói chung
ngược lại tác động tiêu cực sẽ làm giảm giá trị nhân đạo của án treo.
- Ý nghĩa về mặt kinh tế
Hiện nay ở Việt Nam, Bộ Công an đang quản lý 54 trại giam với hơn
130 nghìn phạm nhân trong đó có 115 nghìn phạm nhân nam và 15 nghìn
phạm nhân nữ. Kinh phí hàng năm để duy trì hoạt động của các trại giam và
phạm nhân là vô cùng to lớn. Cụ thể: Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-BCA
ngày 16 tháng 12 năm 2015 của Bộ Công an quy định về tổ chức quản lý
phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân
quy định: Phạm nhân được Nhà nước bảo đảm tiêu chuẩn định lượng mỗi
tháng: 17kg gạo tẻ thường; 0,7kg thịt, 0,8kg cá; 0,5 kg đường loại trung bình;
01kg muối; 15kg rau xanh; 0,75 lít nước mắm; chất đốt tương đương 17kg củi
hoặc 15 kg than. Đối với phạm nhân lao động nặng nhọc, độc hại theo quy
định của pháp luật, định lượng có thể được tăng thêm 15% so với tiêu chuẩn
định lượng nêu trên… Ngồi ra, án treo cịn tiết kiệm được rất nhiều các chi
phí về trang bị cơ sở vật chất phục vụ công tác cải tạo, giam giữ; chi phí cho
các nhu cầu tự nhiên của phạm nhân như ăn, mặc, sinh hoạt… chi phí quản lý
và các chi phí khác. Như vậy, với việc người phạm tội được hưởng án treo sẽ
tiết kiệm cho ngân sách nhà nước số tiền khơng hề nhỏ.
Chính vì vậy, việc cho người phạm tội được hưởng án treo đem lại lợi
ích tài chính to lớn cho mỗi quốc gia khơng chỉ đối với Việt Nam mà có nhiều
nước trên thế giới hiện nay đã, đang và có xu hướng quy định và tăng cường
áp dụng án treo.
15
Luan van
Bên cạnh đó, người bị kết án khơng bị buộc phải cải tạo tại các trại tạm
giam, trại giam không chỉ làm giảm bớt áp lực cho các cơ sở giam giữ, quản
lý nhà tù; mà chính bản thân người bị kết án cịn có điều kiện thuận lợi để học
tập, làm ăn, lao động tạo ra của cải vật chất cho bản thân họ và cho xã hội
dưới sự giám sát của các cơ quan có thẩm quyền và cộng đồng xã hội.
Tóm lại: Việc quy định về chế định án treo trong Luật hình sự vừa đem
lại lợi ích kinh tế cho bản thân người phạm tội, cho ngân sách nhà nước đồng
thời cũng đảm bảo thực hiện đúng ngun tắc nhân đạo trong chính sách hình
sự của nước ta. Mặc dù vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là khơng vì
kinh tế mà cho bị cáo hưởng án treo một cách tràn lan mà chỉ cho người phạm
tội được hưởng án treo khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật.
- Ý nghĩa về mặt nhân đạo
Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc cơ bản không chỉ của BLHS mà của
nhiều ngành luật khác. Mục đích khi quy định nguyên tắc nhân đạo trong Luật
hình sự là nhằm đảm bảo những lợi ích tối thiểu nhất định của con người, bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và tính
mạng. Nguyên tắc nhân đạo chính là việc thể chế hóa các quan điểm của nhà
nước Cộng hịa XHCN Việt Nam là vị tha và bao dung coi giáo dục thuyết
phục nhân cách trong con người là trọng tậm, chủ yếu. Cơng dân Việt Nam là
người có quốc tịch Việt Nam. Dù phạm tội thì họ vẫn là cơng dân Việt Nam,
vẫn là một con người cụ thể, một thành viên của xã hội. Vì vậy, khi xem xét
hành vi phạm tội của họ, Hội đồng xét xử luôn xem xét đến nhiều khía cạnh
khác nhau như độ tuổi, tình trạng sức khỏe, tình trạng bản thân, các yếu tố
nhân thân khi phạm tội như mang thai, hoàn cảnh gia đình có phải là lao động
chính khơng? Mắc bệnh hiểm nghèo hay có hồn cảnh đặc biệt khó khăn hay
khơng để xác định mức hình phạt phù hợp, điều đó xuất phát từ đạo đức,
truyền thống dân tộc Việt Nam và được thể hiện rõ trong nguyên tắc nhân đạo
XHCN của Luật Hình sự Việt Nam.
16
Luan van
Ý nghĩa lớn nhất của áp dụng án treo là thể hiện tính nhân đạo sâu sắc
trong chính sách hình sự trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta. Xét cho cùng
mọi quy định của pháp luật đều hướng vào mục tiêu vì con người. Việc áp
dụng hình phạt tù giam là sự trừng phạt của pháp luật đối với người phạm tội
nhưng không phải lúc nào sự trừng phạt nghiêm khắc cũng có tác động tích
cực, trong nhiều hồn cảnh càng hạn chế việc áp dụng hình phạt tù giam mà
thay vào đó là áp dụng các hình phạt không tước tự do của con người như
việc áp dụng án treo mang lại những tác động tích cực hơn, là điều tốt hơn.
“Án treo có nhiều ưu điểm vượt trội so với việc áp dụng tù giam đối với người
phạm tội vì: nó giảm tỷ lệ phạm tội, mang ý nghĩa nhân đạo khi tuyên án” [3,
tr 42].
Án treo chính là sự kết hợp đan xen giữa trừng trị và giáo dục, giữa
trừng trị và khoan hồng, thể hiện rõ tính nhân đạo trong chính sách hình sự
của Nhà nước ta. Người phạm tội được Hội đồng xét xử cho hưởng án treo
tức là được giảm tối đa các mặt bất lợi đối với họ về thể chất, tinh thần, kinh
tế so với án phạt tù. Nếu không được hưởng án treo thì người phạm tội phải
chấp hành hình phạt trong trại giam, trại tạm giam tức là phải cách ly hoàn
toàn khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định. Khi đó hậu quả đối với
bản thân, gia đình và cho xã hội là rất lớn.
Chế định án treo thể hiện chính sách hình sự nhân đạo, hướng thiện, coi
trọng tính phịng ngừa, hạn chế hình phạt tù của Đảng và Nhà nước. Như vậy,
án treo có một vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong chính sách hình sự
của Đảng và nhà nước ta, nó vừa thể hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo
của Nhà nước ta, nó vừa mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Sự nhân đạo
ấy mang lại những giá trị đích thực có tính hiệu quả cao trong cơng tác đấu
tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự
an tồn xã hội, đảm bảo được sự ổn định của đời sống chính trị, kinh tế, văn
hố - xã hội đang ngày càng phát triển của đất nước ta. Án treo thể hiện
17
Luan van
đường lối lãnh đạo của Đảng ta luôn đúng đắn trên cơ sở tôn trọng quyền con
người, quyền công dân, là nền tảng vững chắc để tồn tại chế độ XHCN, củng
cố và gia tăng sức chiến đấu của giai cấp cầm quyền.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng án treo
1.1.2.1. Khái niệm áp dụng án treo
Trước khi tìm hiểu áp dụng án treo là gì cần tìm hiểu thế nào là áp dụng
pháp luật và áp dụng pháp luật hình sự.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, có
những đặc trưng riêng nhất định như mang tính tổ chức và quyền lực nhà
nước, áp dụng pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện để
đảm bảo cho pháp luật được thi hành mà khơng phụ thuộc vào tính tự giác, tự
thực hiện của các chủ thể khác trong xã hội. Thông qua hoạt động áp dụng
pháp luật, các quy phạm pháp luật tìm thấy được sự liên kết vững chắc với
đời sống xã hội để chuyển hóa những yêu cầu chung vào những quan hệ xã
hội cụ thể. Chính vì vậy, hoạt động áp dụng pháp luật nói chung có những
ảnh hưởng nhất định và tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Đối với xã hội, hình ảnh thực tế của pháp luật được nhìn thấy thơng qua chính
các hoạt động áp dụng pháp luật cụ thể.
Trong số các hoạt động áp dụng pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm Sát và Tịa án có vị trí và ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Pháp luật hình sự bảo vệ những giá trị mà nhà nước
coi là quan trọng nhất đối với sự phát triển chung của xã hội được quy định
trong hệ thống các văn bản PLHS cụ thể. Chính vì vậy, là hoạt động chuyển
hóa các quy định của PLHS, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự thực sự lại
có những tác động xã hội sâu sắc.
Do đó, có thể định nghĩa khái niệm này như sau:
Áp dụng án treo là một dạng cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự do Tòa án, nhân danh Nhà nước căn cứ quy định của pháp luật hình
18
Luan van
sự hiện hành để xem xét một người bị kết án phạt tù không quá ba năm, căn
cứ vào nhân thân của người đó và các tình tiết giảm nhẹ, quyết định cho
người đó được hưởng án treo đồng thời ấn định thời gian thử thách từ một
đến năm năm.
1.1.2.2. Đặc điểm áp dụng án treo
Thứ nhất, áp dụng án treo là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực
nhà nước. Bởi vì: Hoạt động áp dụng án treo chỉ do Hội đồng xét xử quyết
định theo quy định của pháp luật hiện hành. Hoạt động áp dụng án treo là sự
tiếp tục thể hiện ý chí của nhà nước, thơng qua hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự, ý chí nhà nước thể hiện trong các quy phạm pháp luật, cụ thể như Bộ
luật hình sự và văn bản hướng dẫn, thông tư liên tịch của các Bộ, cơ quan ban
ngành liên quan, trở thành hiện thực trong thực tế, được thể hiện một cách cụ
thể trong các trường hợp cụ thể.
Khi áp dụng án treo trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự, các
chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể ban hành những mệnh lệnh, quyết định
có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với đối tượng áp dụng.
Các mệnh lệnh, quyết định này chủ yếu thể hiện ý chí đơn phương của chủ
thể có thẩm quyền mà cụ thể là Hội đồng xét xử áp dụng mà khơng phụ thuộc
vào ý chí của đối tượng bị áp dụng là người phạm tội.
Thứ hai: Áp dụng án treo là hoạt động cá biệt hoá các quy phạm pháp
luật hình sự vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân phạm tội.
Chính vì thế, áp dụng án treo là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể của Nhà
nước đối với chủ thể phạm tội khi có đủ các điều kiện theo quy định của
BLHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Thứ ba: Áp dụng án treo là hoạt động thể hiện tính sáng tạo. Bởi vì, các
quy định của pháp luật hình sự nói chung, các quy định liên quan đến án treo
nói riêng không phải là những quy định đơn giản, khái quát, mặc dù vậy các
vụ việc xảy ra trong thực tế vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp. Do đó,
19
Luan van
muốn đưa ra được một quyết định “thấu tình, đạt lý” để giải quyết vụ án hình
sự để xem xét cho người phạm tội có đủ điểu kiện hưởng án treo hay khơng
thì rất cần có sự sáng tạo của người áp dụng chúng.
1.2. Quy định của pháp luật về áp dụng án treo
1.2.1. Quy định về điều kiện áp dụng án treo
Những căn cứ để áp dụng án treo đối với người bị phạt tù là những yêu
cầu, đòi hỏi bắt buộc phải có của người phạm tội do pháp luật hình sự quy
định đối với người đó mà chỉ khi nào có đầy đủ những căn cứ thì Tòa án mới
được áp dụng án treo đối với họ. Theo quy định tại Điều 65 Bộ Luật Hình sự
năm 2015 quy định khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân
của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ TNHS, nếu xét thấy khơng cần
thiết phải áp dụng hình phạt tù, thì Tịa án có thể xem xét cho hưởng án treo
và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm đồng thời phải thực hiện
các nghĩa vụ của họ trong thời gian thử thách theo quy định của pháp luật về
thi hành án hình sự. Ngồi ra, để áp dụng thống nhất án treo, Hội đồng Thẩm
phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP TANDTC
ngày 15/05/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo [15, tr 1].
Từ nội dung của chế định án treo được quy định trong pháp luật hình sự hiện
hành có thể khẳng định rằng: việc áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình
phạt tù có điều kiện cho người bị kết án lúc nào cũng phải thận trọng và xem
xét kỹ lưỡng để áp dụng một cách chính xác, khơng thể tuỳ tiện cho người bị
phạt tù được hưởng án treo theo ý chí chủ quan của Hội đồng xét xử mà phải
tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan đến án treo, điều kiện áp dụng
án treo sau đây:
Một là: Về hình phạt
Theo quy định tại Điều 65 BLHS 2015 thì căn cứ để xem xét cho người
bị kết án được hưởng án treo bao gồm đồng thời cả căn cứ về mức hình phạt
tù và căn cứ về sự khơng cần thiết bắt chấp hành hình phạt tù đó. Căn cứ về
20
Luan van