Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Skkn dạy học tác phẩm tấm cám theo hướng kết hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh ngữ văn 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 61 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đổi mới giáo dục là vấn đề cấp thiết, đặt lên hàng đầu. Hội nghị lần thứ 8 Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thơng qua nghị
quyết số 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Xu hướng
đổi mới là chuyển từ mục tiêu chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học. Giáo dục hiện nay địi hỏi học đi đơi với hành,
lý luận gắn với thực tiễn, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kỹ năng của người học. Qua đó, giáo viên rèn luyện cho học sinh năng
lực vận dụng kiến thức nhằm giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn.
Xu thế tồn cầu hóa địi hỏi nguồn nhân lực khơng chỉ được trang bị tốt về
nền tảng tri thức mà còn được chuẩn bị những kỹ năng mềm thiết yếu. Học sinh
hơm nay chính là nguồn nhân lực then chốt trong tương lai. Học sinh cần có bản
lĩnh sống, kỹ năng sống, biết nhận thức về giá trị bản thân, giá trị cuộc sống và
phấn đấu hồn thiện mình. Tuy nhiên, một thực tế đang tồn tại là các trường hiện
nay chỉ dạy chữ chưa chú trọng dạy người, chỉ chú trọng dạy lí thuyết mà chưa chú
trọng thực hành. Học sinh cịn thiếu khả năng thích ứng với cuộc sống trong khi
xung quanh các em còn đầy rẫy những biến cố, những tệ nạn, những tác động tiêu
cực sẵn sàng làm hoen mờ nhân cách, bào mịn ý chí và nghị lực các em.
Ngữ văn là một môn học đem lại những giá trị cao đẹp. Môn văn không
những giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp ở tất cả các hình thức: nghe, nói,
đọc và viết mà cịn góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người. Thông
qua những tác phẩm văn học trong nhà trường, học sinh sẽ phát triển năng lực
thẩm mỹ và các kỹ năng khám phá bản thân, thấu hiểu giá trị nhân bản và thân
phận của con người. Ngữ văn cũng giúp học sinh trở về với thực tiễn cuộc sống,
rút ra nhiều bài học triết lí nhân sinh sâu sắc. Vì vậy rèn KNS thơng qua từng giờ
dạy học văn thật sự là một trong những hướng đi thiết thực, bổ ích và dễ thực hiện
nhất nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng giáo dục toàn diện,
phát triển “trí – thể - mĩ” cho từng đối tượng học sinh.
Truyện cổ tích là những tác phẩm tự sự dân gian, phản ánh ước mơ, khát vọng
của người lao động thơng qua các yếu tố kì ảo. Học truyện cổ tích, học sinh sẽ có


thêm nhiều bài học làm người, nhiều chiêm nghiệm về cuộc sống, nhiều triết lí
nhân sinh được rút ra... Chính vì thế, dạy học chú trọng phát triển kỹ năng sống
cho học sinh qua truyện cổ tích là một phương pháp phù hợp và hiệu quả. Hơn
nữa, “Tấm Cám” được đánh giá là một trong những truyện đặc sắc nhất của truyện
cổ tích thần kỳ, vì thế việc chú trọng rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong tác
phẩm này lại càng phát huy hiệu quả. Phương pháp này không chỉ giúp đổi mới
phương pháp dạy học, tích cực hóa hoạt động của học sinh mà còn gắn dạy văn với
1

skkn


thực tiễn cuộc sống, làm cho môn văn ngày càng gần gũi với học sinh, tạo cho học
sinh có thêm nhiều kỹ năng mềm trong cuộc sống.
Trong quá trình dạy học, tôi cũng đã vận dụng phương pháp dạy học theo
hướng phát triển kỹ năng sống cho học sinh, tổ chức cho học sinh nhiều hoạt động
để góp phần phát triển kỹ năng sống, phát triển phẩm chất và năng lực và đã đạt
được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Chính vì tất cả những điều đó, tơi xin trình bày
đề tài Dạy học tác phẩm Tấm Cám theo hướng kết hợp rèn luyện kỹ năng sống
cho học sinh - Ngữ văn 10 . Đây là một đề tài mới, rất ít người quan tâm, đầu tư
chu đáo. Đề tài này được áp dụng ở trường tôi và một số trường bạn, kết quả đạt
được rất khả quan và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn phạm vi của đề tài, tơi tìm hiểu, nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn dạy học theo hướng phát triển kỹ năng sống. Tôi lấy tác phẩm “Tấm Cám”
làm đối tượng nghiên cứu.
III. Mục tiêu, nhiệm vụ
- Đối với học sinh: Giúp học sinh tham gia nhiều hoạt động, tăng cường trải
nghiệm để rèn luyện kỹ năng sống, phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo trong giờ
học. Đồng thời giúp học sinh có kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết

các vấn đề nảy sinh trong học tập cũng như trong thực tiễn cuộc sống, có hứng thú
trong học tập.
- Đối với giáo viên: Thiết kế bài giảng sáng tạo, nâng cao hiệu quả bài học,
ln có ý thức thay đổi phương pháp dạy học, giúp tiếp thêm đam mê để thực hiện
nhiệm vụ trồng người.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, khái qt hóa
tài liệu lý luận và các văn bản pháp quy về đổi mới giáo dục và dạy học theo
hướng phát triển kỹ năng sống.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, khảo sát, thực nghiệm,
ứng dụng công nghệ thông tin, minh họa thông qua video, tổng hợp…
V. Thời gian thực hiện
- Hình thành ý tưởng: năm học 2019- 2020
- Năm học 2020 – 2021, chúng tôi tiến hành thử nghiệm phương pháp dạy
học theo hướng kết hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua văn bản “Tấm
Cám” ở một số lớp và một số trường trên địa bàn của huyện Thanh Chương.
2

skkn


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở của đề tài
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Kỹ năng
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng, ở mỗi quan niệm là
cách nhìn khác nhau của các tác giả trong và ngoài nước.
Trong từ điển Từ và ngữ Hán Việt, Nguyễn Lân (1989) đã giải thích "kỹ năng
là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn"[37, Tr. 390].

Theo từ điển Giáo dục học "kỹ năng là khả năng thực hiện đúng hành động,
hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể để tiến hành hành động
ấy, cho dù là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ" [ 56, Tr. 220].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng "kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả
một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã
có để có thể hành động phù hợp với những điệu kiện cho phép"[57, tr.6].
Từ các khái niệm kỹ năng trên, có thể thấy đó là minh chứng cho sự sinh
động về các cách hiểu khác nhau của các tác giả. Dù hiểu theo góc độ nào thì kỹ
năng cũng chính là khả năng thực hiện những thao tác được hình thành và củng cố
qua quá trình thực hành và trải nghiệm của bản thân. Kỹ năng chính là cơng cụ để
gia tăng giá trị cho kiến thức bản thân, giúp con người làm việc có kế hoạch, tổ
chức, chuyên nghiệp và hiệu quả. Kỹ năng là khả năng thực hiện một công việc
nhất định, trong hoàn cảnh điều kiện nhất định và đạt chỉ tiêu nhất định.
1.2. Kỹ năng sống
Về kỹ năng sống cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Tổ chức y tế thế
giới WHO (1993) cho rằng: “KNS là khả năng để có hành vi thích ứng (adaptive)
và tích cực (positive) giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày”.
Theo quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, UNICEF (1995):“KNS là cách tiếp cận
giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Trong đó quan tâm tới sự cân bằng về
tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng”[8, tr.7,8].
Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc UNESCO (2003)
quan niệm: “KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham
gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm chủ hành vi và sự thay đổi của
mình phù hợp với tư cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm sốt, quản lí
có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức thức hàng ngày” [8, Tr.35].

3

skkn



Theo nhóm biên soạn tài liệu giáo dục KNS của Vụ giáo dục thể chất, tác giả
Nguyễn Võ Kì Anh cho rằng: “KNS là khả năng có được những hành vi thích nghi
và tích cực, cho phép chúng ta xử trí một cách hiệu quả các địi hỏi và thử thách
của cuộc sống thường ngày" [8, tr.36].
Kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống
hàng ngày của con người. Bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự quản lý bản
thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm
việc hiệu quả... Nói cách khác, kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi
con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả
năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống.
Việc giáo dục kỹ năng sống góp phần giải quyết tình trạng học sinh thụ động,
khơng biết ứng phó trong những hồn cảnh nguy cấp, khơng biết cách tự bảo vệ
bản thân trước nguy hiểm, thậm chí khơng biết cách tìm kiếm sự giúp đỡ... Bên
cạnh đó, các bài học về kỹ năng sống sẽ giúp học sinh hình thành những kỹ năng
tâm lý - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. Đó là
những kỹ năng chúng ta phải biết để có được sự điều chỉnh, ứng xử phù hợp với
những thay đổi diễn ra hằng ngày, hàng giờ. Qua học tập và rèn luyện các kỹ năng
sống, các em sẽ cảm nhận, thấu hiểu và trân trọng những giá trị căn bản của cuộc
sống, giúp các em vững vàng và thành công trong tương lai.
2. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang từng bước đổi mới. Người giáo viên phải
tìm phương pháp để giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn.
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển kỹ năng, phẩm chất, năng
lực của học sinh là phương hướng phù hợp với yêu cầu của thời đại đổi mới đất
nước. Việc đổi mới giáo dục dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo giáo
dục của nhà nước. Điều đó được thể hiện trong nhiều văn bản:
- Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: Phương pháp giáo dục

phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
- Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục và đào tạo cho rằng: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức,
kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt, một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực…”
4

skkn


- Bộ GD&ĐT có văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ
thơng hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm
học 2017-2018: Chú trọng rèn cho học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu
sách giáo khoa để tiếp nhận và vận dụng kiến thức mới thông qua giải quyết nhiệm
vụ học tập đặt ra trong bài học; dành nhiều thời gian trên lớp cho học sinh luyện
tập, thực hành, trình bày, thảo luận, bảo vệ kết quả học tập của mình; giáo viên
tổng hợp, nhận xét, đánh giá, kết luận để học sinh tiếp nhận và vận dụng.
Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, một thực tế cho thấy kỹ năng sống có vai
trị rất quan trọng trong cuộc sống của một con người. Kỹ năng sống góp phần lớn
vào sự sinh tồn, phát triển, thành công hay thất bại của một con người trong cuộc
sống. Mỗi người chúng ta không chỉ cần được trang bị những tri thức, hiểu biết mà
quan trọng là phải có những kỹ năng để sinh tồn và phát triển trong xã hội này. Xã
hội ngày càng phát triển, đất nước ngày càng đổi mới thì những kỹ năng đó lại
càng đóng vai trị quan trọng. Nền giáo dục nước ta hiện đang chú trọng nội dung,
trang bị kiến thức, chưa thực sự chú trọng, đầu tư cho việc phát triển kỹ năng,

phẩm chất, năng lực. Nội dung giáo dục đang chủ yếu trang bị lí thuyết, ít được
thực hành, đang chủ yếu hình thức trong lớp mà chưa đa dạng các hình thức
khác…Chính vì thế, dạy học gắn với việc phát triển kỹ năng sống trong mỗi bài
học đang là phương pháp cần thiết và đúng đắn trong thực tế hiện nay.
Văn bản “Tấm Cám” là một văn bản hay, là một truyện cổ tích giàu giá trị
giáo dục, có thể tổ chức rất nhiều hoạt động để rèn nhiều kỹ năng sống cho học
sinh, giúp học sinh có thể liên hệ, trở về với thực tiễn cuộc sống ngày nay để rút ra
nhiều bài học, nhiều triết lí nhân sinh. Khi dạy tác phẩm này, giáo viên thường chỉ
cho học sinh đọc hiểu đơn thuần, tìm mâu thuẫn và diễn biến mâu thuẫn của Tấm
và mẹ con Cám mà chưa có những phương pháp, hoạt động phong phú cho học
sinh rèn luyện những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Hơn nữa, qua tìm hiểu tơi
thấy vấn đề rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được nhiều người nghiên cứu
nhưng áp dụng vào văn bản “Tấm Cám” lại ít người quan tâm và khơng có sự đầu
tư chu đáo, hiệu quả.
Đặc biệt, dạy “Tấm Cám” theo hướng rèn luyện kỹ năng sống sẽ thay đổi
được phương pháp dạy học. Học sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn, đảm nhiệm
nhiều vai trò hơn; giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ cho học sinh
trong các hoạt động. Học sinh sẽ không chỉ được đọc hiểu về văn bản mà còn được
giải quyết những vấn đề của thực tiễn cuộc sống để rút ra những bài học cho bản
thân.
Từ những cơ sở lí luận và thực tế như trên, bản thân tôi nhận thấy, dạy học
theo hướng rèn luyện kỹ năng sống sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở
nhà trường. Nếu biết cách tổ chức, bỏ qua tâm lí e ngại, vượt qua những thiếu thốn
về cơ sở vật chất, chúng ta sẽ có những giờ dạy Ngữ văn hiệu quả, thắp sáng đam
5

skkn


mê, phát triển năng lực sáng tạo, tạo điều kiện cho các em bước vào cuộc đời một

cách vững vàng.
II. Thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi và khó khăn
1.1. Thuận lợi
Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ
quản lí, giáo viên về giáo dục KNS cho học sinh phổ thông. Bộ cũng đưa ra các
hướng dẫn, yêu cầu cần tích hợp giáo dục KNS cho học sinh qua các môn học và
các hoạt động giáo dục.
Trong những năm gần đây, Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An luôn quan tâm
đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Vấn đề dạy học theo hướng rèn luyện kỹ
năng sống luôn được Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An chú trọng, hướng dẫn, tạo
điều kiện để nâng cao chất lượng dạy và học, để học sinh được rèn luyện thêm
nhiều kỹ năng cần thiết trong cuộc sống.
Trường tôi đang giảng dạy là trường luôn quan tâm, tạo nhiều sân chơi, nhiều
hình thức rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong quá trình học tập. Nhờ thế,
học sinh được trang bị nhiều kỹ năng mềm, nhiều kinh nghiệm sống trong thời
hiện đại. Có được điều đó một phần là bởi lãnh đạo nhà trường ln có quyết tâm
cao trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Trường luôn đi đầu trong các hoạt
động đổi mới phương pháp, có nhiều hình thức sáng tạo, đa dạng trong các hoạt
động giáo dục như: tổ chức nhiều trị chơi, nhiều cuộc thì, tham quan trải nghiệm,
ngoại khóa, câu lạc bộ, sân khấu hóa…
Nhiều giáo viên hiện nay ln có ý thức phấn đấu, tích cực trong việc nghiên
cứu, tìm hiểu về đổi mới giáo dục. Chính vì thế, họ rất đồng tình với xu hướng đổi
mới giáo dục hiện nay. Họ luôn muốn tìm tịi, sáng tạo để tìm ra phương pháp dạy
học hiệu quả và nhận thấy dạy học theo hướng rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh trong môn Ngữ văn là một phương pháp dạy học cần thiết và phù hợp với mục
tiêu giáo dục.
Các phụ huynh học sinh hiện nay cũng rất hưởng ứng, đầu tư, tạo điều kiện để
con em mình được rèn luyện, phát triển kỹ năng sống. Bởi họ nhận thấy tầm quan
trọng của kỹ năng sống trong cuộc sống hiện đại, bởi các phụ huynh khơng chỉ

muốn con mình được trang bị kiến thức mà còn được rèn luyện những kỹ năng
mềm để vững vàng trong cuộc sống.
Trước đây, việc dạy học văn mang tính chất hàn lâm, xa rời thực tiễn, chủ yếu
đọc chép, giáo viên thường thuyết giảng… Vì thế nhiều em học sinh cảm thấy chán
nản, mệt mỏi. không hứng thú trong giờ học văn. Khi đổi mới phương pháp dạy
học, đặc biệt là dạy học theo hướng kết hợp rèn luyện kỹ năng sống ở môn Ngữ
văn làm cho học sinh đều cảm thấy hứng thú, tích cực, tự giác, say mê, tìm thấy
6

skkn


niềm vui, phấn khởi trong học tập. Đa số các em đều cảm thấy thích thú, phấn chấn
với các giờ học có nhiều hoạt động rèn luyện kỹ năng.
1.2. Khó khăn
1.2.1. Về phía giáo viên
Hiện nay, mặc dù vấn đề giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường đã đề ra từ
lâu, thế nhưng một bộ phận quản lí, giáo viên vẫn chưa nhận thức và thấy được
tầm quan trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Nhiều giáo viên hiện nay vẫn
còn sử dụng những phương pháp truyền thống, mà chưa quen với cách dạy học
hiện đại. Họ vẫn lên lớp với cách truyền thụ một chiều, thầy giảng, trị ghi, đọc
chép mà chưa chịu khó tìm tịi, học tập, thay đổi. Hơn nữa, để dạy học theo hướng
rèn luyện kỹ năng sống, giáo viên phải tốn thời gian, công sức trong khâu thiết kế,
định hướng bài học nên nhiều giáo viên chưa đầu tư, ngại vất vả, ngại thay đổi. Có
những giáo viên đã tìm cách thay đổi phương pháp dạy học, đã dạy học theo hướng
rèn luyện kỹ năng sống nhưng lại chỉ chú ý rèn luyện kỹ năng trên lớp học mà
chưa chú ý rèn luyện kỹ năng sống trong gia đình, ngồi xã hội. Chính vì thế nên
phương pháp dạy học này vẫn chưa thật sự kích thích hứng thú học tập của học
sinh. Hơn nữa, việc tìm tịi, học hỏi kinh nghiệm của giáo viên với nhau về vấn đề
này cũng còn hạn chế.

Khi thực hiện giáo dục KNS cho học sinh, giáo viên cịn gặp nhiều khó khăn
và lúng túng. Mặc dù yêu cầu rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh đã có từ lâu
nhưng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các Sở Giáo dục chưa có tài liệu hướng
dẫn nào cụ thể, chưa có tiêu chí đánh giá nào rõ ràng. Hầu hết giáo viên hiện nay
dạy học kỹ năng sống theo kinh nghiệm cá nhân là chủ yếu. Hơn nữa, hoạt động
rèn luyện kỹ năng sống có những đặc thù riêng, khác với các hoạt động giáo dục
khác. Bởi nội dung giáo dục này không chỉ diễn ra trong các mơn học mà cịn
trong nhiều hoạt động khác: câu lạc bộ, ngoại khóa, sinh hoạt lớp, trải nghiệm sáng
tạo...Chính vì thế, kết quả rèn luyện kỹ năng sống của học sinh là tổng hợp của
nhiều hoạt động khác nhau. Như vây, để thực hiện hoạt động này, nhà trường và
học sinh cần đầu tư cơ sở vật chất và có một nguồn kinh phí.
1.2.2. Về phía học sinh
Đa số học sinh đều say mê, thích thú khi được học những giờ có rèn luyện kỹ
năng sống. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại một số vấn đề. Một số ít học
sinh chưa thực sự thích nghi với phương pháp học mới này, chỉ thực hiện một cách
thụ động, tham gia lấy lệ, không xây dựng ý kiến vào q trình thảo luận của
nhóm, khơng tích cực trong các nhiệm vụ giáo viên giao. Có những học sinh thiếu
tự tin trong mọi hoạt động nên né tránh, lo sợ, khơng tham gia hết mình. Có những
trường hợp lại gặp khó khăn trong diễn đạt: nói lắp, sợ hãi đám đông. Tất cả những
điều này làm cho việc triển khai hoạt động rèn luyện kỹ năng sống trong giờ dạy
học văn có những khó khăn đáng kể.
7

skkn


2. Thành công và hạn chế
Từ những thuận lợi và khó khăn nói trên, chúng tơi đã khơng ngừng tìm cách
phát huy những thuận lợi và khắc phục tối đa những khó khăn để áp dụng phương
pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong bài học “Tấm Cám”. Bước đầu,

chúng tơi thấy có những thành cơng đáng kể cũng như cịn một số hạn chế cần
khắc phục.
Thành cơng bước đầu của việc áp dụng phương pháp dạy học này là tạo hứng
thú, say mê, sáng tạo cho học sinh. Nếu như trước đây, học sinh thường không
hứng thú với môn văn, coi môn văn là môn học buồn ngủ, là môn học không mấy
“thời thượng” trong xã hội hiện đại ngày nay. Hơn nữa, tác phẩm “Tấm Cám” mặc
dù là tác phẩm hay, nhiều giá trị nhưng nếu không biết các tổ chức hoặc dạy học
theo kiểu đọc chép, khơng tạo được hứng thú thì sẽ làm mất đi giá trị của tác phẩm.
Khi áp dụng phương pháp dạy học theo hướng rèn luyện kỹ năng sống thì học sinh
tỏ ra háo hức, tích cực, tự giác trong mọi nhiệm vụ được giao. Sau bài học, học
sinh không chỉ được trang bị tri thức mà còn rèn luyện nhiều kỹ năng, phát huy
nhiều năng lực, rèn nhiều phẩm chất cần thiết cho học sinh thời hiện đại.
Còn với giáo viên giảng dạy, áp dụng phương pháp dạy học này, tình hình
dạy học văn có nhiều chuyển biến. Học sinh tích cực, sáng tạo làm cho giáo viên
cũng nhiều hứng thú, giúp giáo viên khơng ngừng học hỏi, tìm tịi để nâng cao hiểu
biết, tìm ra những giải pháp tốt nhất để “thắp lửa” đam mê cho các em. Sử dụng
phương pháp dạy học này, giáo viên khơng cịn phải nói nhiều, giảng lắm, phải độc
thoại một mình trên lớp học mà trở thành người tổ chức, hướng dẫn còn mọi hoạt
động chủ yếu do học sinh tiến hành.
Bên cạnh những thành cơng bước đầu thì cũng cịn tồn tại một số hạn chế. Về
phía giáo viên, trong quá trình lên lớp, một số thầy cơ khi áp dụng phương pháp
này vẫn cịn nặng về hình thức, cịn mang nặng tính chất trình diễn. Nhiều giáo
viên lại ơm đồm kiến thức làm mất thời gian mà hiệu quả giờ dạy chưa cao. Trong
tiến trình lên lớp với phương pháp rèn luyện kỹ năng sống, một số giáo viên thao
tác hơi nhanh hoặc chưa cụ thể, chưa có sự giám sát, theo dõi, động viên, quan tâm
nên dẫn đến việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của học sinh chưa
cao. Một số học sinh chưa thích nghi với phương pháp học mới này, chỉ thực hiện
một cách thụ động, tham gia miễn cưỡng, không xây dựng ý kiến vào q trình
thảo luận của nhóm. Ngồi ra, có một số học sinh cịn ỷ lại mọi việc cho các bạn
học khá, giỏi thực hiện cịn mình chỉ đứng ngoài cuộc, ghi lại các thành quả của

các bạn. Một số học sinh lại gặp khó khăn trong diễn đạt: nói lắp, sợ hãi đám
đơng, thiếu tự tin. Những học sinh này thường ngại hoặc không dám trực tiếp tham
gia các hoạt động rèn luyện kỹ năng sống.

8

skkn


III. Các hình thức, phương pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh
THPT
1. Lồng ghép dạy kỹ năng sống trong q trình dạy học các mơn học
Đây là hình thức, phương pháp sử dụng hiệu quả, thường xuyên nhất trong
việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Chương trình THPT có rất nhiều mơn
học, mỗi mơn có đặc điểm và ưu thế riêng cho việc rèn luyện kỹ năng sống. Nếu
giáo viên có ý thức rèn luyện kỹ năng sẽ dễ liên hệ, dễ đặt ra nhiều tình huống để
học sinh vận dụng vào thực tiễn cuộc sống nhằm rút ra những bài học cho bản
thân. Chính vì thế, đây là một hình thức, phương pháp quan trọng, có ý nghĩa vơ
cùng to lớn để hướng đến việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Ví dụ, với
môn văn, qua các bài học, giáo viên không chỉ giúp học sinh rèn luyện kỹ năng thể
hiện sự tự tin, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự nhận thức,
kỹ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin…mà cịn có thể bồi đắp đời sống tâm hồn, tình
cảm qua hệ thống các nhân vật, các sự việc, các nội dung trong tác phẩm văn học.
Ví dụ, qua tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, giáo viên có thể giúp học sinh bồi
đắp thêm kỹ năng thể hiện sự cảm thơng, tình thương người, khát vọng sống mãnh
liệt, sự lạc quan trong cuộc sống... Với mơn giáo dục cơng dân là mơn học có thể
giúp học sinh nhiều bài học đạo đức, nhiều hiểu biết về cách ứng xử trong cuộc
sống, có thêm nhiều kỹ năng trong cuộc đời. Học môn lịch sử giúp học sinh rèn
luyện kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng đảm nhận
trách nhiệm, kỹ năng đạt mục tiêu…Vì thế, mỗi mơn học sẽ giúp trang bị, bồi

dưỡng cho học sinh những kỹ năng, hiểu biết khác nhau để giúp các em vững vàng
trong cuộc sống.
Nội dung mỗi bài học Ngữ văn giúp học sinh có thể nhận thức, rèn luyện
được nhiều kỹ năng. Hơn nữa, cách tổ chức các hoạt động trong giờ học của giáo
viên và sự tích cực của học sinh trong các hoạt động ấy cũng góp phần khơng nhỏ
vào việc hình thành, phát triển kỹ năng sống. Bởi kỹ năng được hình thành qua suy
nghĩ, nhận thức, hành động nên nếu giáo viên có cách thức tổ chức giờ học hợp lí
hiệu quả, học sinh được làm việc nhiều, với các hình thức đa dạng thì chắc chắn sẽ
có thêm nhiều kỹ năng cần thiết. Hơn nữa, ở các nhà trường hiện nay, học sinh chủ
yếu hoạt động học tập trên lớp qua các mơn học nên hình thức, phương pháp rèn
luyện kỹ năng sống này lại càng có ý nghĩa quan trọng.
2. Sinh hoạt lớp.
Sinh hoạt lớp là hoạt động tập thể của học sinh, được phân bố thời gian mỗi
tuần một tiết để học sinh tiến hành những hoạt động giáo dục và xây dựng tập thể
dưới sự hướng dẫn và cố vấn trực tiếp của giáo viên chủ nhiệm.
Sinh hoạt lớp ngoài nhiệm vụ sơ kết các hoạt động trong tuần và triển khai
các hoạt động của tuần tới thì có thể tổ chức dưới nhiều hình thức, nhiều chủ đề
khác nhau nhờ vào sự sáng tạo, chủ động của giáo viên chủ nhiệm. Hiện nay, hình
9

skkn


thức tổ chức sinh hoạt lớp được thực hiện rất phong phú, đa dạng. Có thể là những
tổng kết, rút kinh nghiệm của giáo viên và học sinh, là những bài học, lời khuyên
răn của giáo viên chủ nhiệm từ những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Không
những thế, nhiều giáo viên tổ chức sinh hoạt lớp với các chủ đề rất đa dạng, với
nhiều hình thức rất phong phú và sáng tạo. Chính vì thế, tiết sinh hoạt lớp khơng
cịn là những lời giáo huấn sng hay là tiết để trách phạt, khen thưởng học sinh
mà còn là tiết học để tổ chức rất nhiều hoạt động vui, chơi, tìm hiểu, khám phá để

đúc rút, rèn luyện thêm nhiều hiểu biết, đặc biệt là nhiều kỹ năng trong cuộc sống.
Trong tiết sinh hoạt lớp, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận, tìm hiểu, trả lời
các câu hỏi về một chủ đề nào đó. Cũng có thể, học sinh được điều khiển và tham
gia các trò chơi bổ ích, lí thú. Khơng những thế, tiết sinh hoạt lớp cũng là thời gian
để các học sinh bộc lộ các khả năng của bản thân như: hát, múa, nhảy, kể chuyện,
dẫn chương trình…về một chủ đề nhất định. Tất cả những điều đó đều góp phần
giúp học sinh rèn luyện và phát triển những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống, để
các em vững vàng, tự tin trong tương lai.
3. Chủ đề tự chọn.

Chủ đề tự chọn là những vấn đề được giáo viên hoặc tập thể giáo viên chọn
lựa để đưa vào hoạt động giáo dục trong nhà trường. Chủ đề tự chọn thường là
những vấn đề quan trọng, có nhiều nội dung, có ý nghĩa trong việc giáo dục học
sinh. Hiện nay, trong các mỗi môn học thường có những chủ đề tự chọn của tổ
nhóm, mỗi giáo viên chủ nhiệm lại tổ chức những chủ đề khác nhau trong tiết sinh
hoạt lớp.
Với các tiết học theo chủ đề này, giáo viên không chỉ giúp học sinh nắm rõ
những nội dung của chủ đề mà điều quan trong là rèn cho học sinh thêm những kỹ
năng, phẩm chất và năng lực. Để giúp học sinh khám phá về chủ đề, giáo viên có
thể hướng cho học sinh có nhiều cách thức hoạt động khác nhau: trị chơi, tìm hiểu
kiến thức, thảo luận, trải nghiệm, viết bài, tạo video... Chính những hoạt động này
sẽ làm cho các em khắc sâu thêm nội dung kiến thức đồng thời tạo hứng thú, tìm
tịi, khám phá và góp phần giúp các em có thêm những kỹ năng cần thiết trong
cuộc sống.
4. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) là một bộ phận của q
trình giáo dục ở trường phổ thơng. Đó là những hoạt động đuợc tổ chức ngồi giờ
học các mơn văn hóa trên lớp. Hoạt động ngồi giờ lên lớp là sự tiếp nối hoạt động
dạy học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực hành, tạo nên sự thống nhất
giữa nhận thức với hành động. Hoạt động ngồi giờ lên lớp là con đường quan

trọng hình thành và phát triển kỹ năng, năng lực và nhân cách cho học sinh.
HĐGDNGLL có nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, diễn ra trên bình diện
rộng. Đó là các hoạt động thực tiễn về khoa học kỹ thuật, lao động cơng ích, hoạt
động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí…Trong
10

skkn


HĐGDNGLL, học sinh có điều kiện sử dụng kiến thức, kinh nghiệm tri thức đã
học, khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, kích
thích sự phát triển tư duy.
Có thể nói HĐGDNGLL là mơi trường tốt cho việc phát triển tồn diện nhân
cách cho học sinh, là điều kiện tốt nhất để các em phát huy vai trò chủ thể, chủ
động, sáng tạo trong q trình rèn luyện và học tập, góp phần hình thành phát triển
kỹ năng sống cho học sinh. Khi tham gia các HĐGDNGLL, các em được hịa mình
vào sự vận động chung của đời sống xã hội phong phú, phức tạp và sơi động.
Chính HĐGDNGLL đã bước đầu đặt học sinh trước những vấn đề của thời đại, của
xã hội, của đất nước cũng như những thách thức thực tiễn mà các em sẽ phải tiếp
cận và đối mặt…Từ thực tế đó giúp các em có thêm nhiều kỹ năng trong cuộc
sống.
Để hoạt động này có hiệu quả, giáo viên cần đóng vai trị là người tư vấn, tổ
chức còn học sinh là những người trực tiếp, chủ động thực hiện mọi nhiệm vụ, yêu
cầu mà giáo viên đề ra. Thơng qua những hoạt động đó, học sinh sẽ hình thành,
phát triển kiến thức, kỹ năng.
5. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là cách thức tổ chức hoạt động giáo dục, trong
đó dưới sự hướng dẫn và tổ chức của người thầy, học sinh được trực tiếp tham gia
vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như
ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động. Từ đó, học sinh phát huy năng

lực thực tiễn và tiềm năng sáng tạo. Giáo viên là người tạo cơ hội cho học sinh trải
nghiệm trong thực tiễn để tích lũy và chiêm nghiệm, để học sinh có thể khái quát
thành sự hiểu biết cho bản thân và rèn luyện các kỹ năng trong cuộc sống.
Hoạt động trải nghiệm giúp cho học sinh huy động tổng hợp kiến thức, kỹ
năng của các môn học và lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời
sống gia đình, nhà trường và xã hội. Trải nghiệm cịn giúp bày tỏ quan điểm, ý
tưởng sáng tạo, lựa chọn ý tưởng hoạt động; thể hiện và tự khẳng định bản thân,
đánh giá và tự đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm và của các bạn...
dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Nhờ đó, hoạt động trải nghiệm giúp
hình thành và phát triển kỹ năng, phẩm chất và năng lực. Chương trình hoạt động
trải nghiệm rất đa dạng, phong phú, có thể tổ chức thực hiện trong phạm vi nhà
trường cũng như gia đình và xã hội. Học sinh khi được tham gia trải nghiệm
thường hứng thú để khám phá, thực hiện.
6. Tham vấn, truyền thông.
Tham vấn, truyền thông ở trường THPT là hoạt động của đội ngũ tham vấn
viên, của các diễn giả nhằm tư vấn, tháo gỡ, chia sẻ với học sinh những điều khó
nói, những vấn đề quan trọng trong cuộc sống.

11

skkn


Hằng năm, các trường phổ thông không chỉ tiến hành dạy học và tổ chức,
triển khai các hoạt động giáo dục đa dạng mà còn liên hệ các cơ quan, tổ chức để
mời các tham vấn viên, các diễn giả nổi tiếng về trường trực tiếp nói chuyện, trao
đổi, tổ chức trò chơi, trả lời các câu hỏi...với học sinh. Mục đích của hoạt động này
là để tư vấn, chia sẻ với học sinh những vấn đề tế nhị, khó nói nhưng ảnh hưởng to
lớn đến đời sống học sinh như sức khỏe sinh sản vị thành niên, các biện pháp tránh
thai, tình yêu tuổi học đường...Bằng nghệ thuật truyền giảng, bằng giọng nói

truyền cảm, bằng những câu chuyện, bằng hiểu biết phong phú, các diễn giảng
giúp học sinh nhận thức được nhiều điều, hiểu được những vấn đề ít ai nói đến, rút
ra nhiều bài học cho bản thân, thấm thía về cách ứng xử trong cuộc sống. Các tham
vấn viên là những người đã được đào tạo, rèn luyện, có hiểu biết, có kinh nghiệm,
có năng khiếu để thuyết phục người khác. Tất cả những điều đó giúp cho học sinh
có thêm nhiều kỹ năng, nhiều bài học trong cuộc sống.
IV. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua việc đọc hiểu văn bản “Tấm
Cám”
1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua môn Ngữ Văn
1.1. Mơn Ngữ văn ở trường THPT có vai trị quan trọng trong việc thực
hiện mục tiêu rèn luyện kỹ năng sống
Với đặc trưng là môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, bên
cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt,
năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, mơn Ngữ văn cịn
giúp học sinh có những hiểu biết xã hội, văn hóa, văn học, lịch sử, đời sống nội
tâm của con người. Học văn học, học sinh biết thêm nhiều nền văn hóa, nhiều giai
đoạn lịch sử của nước ta và thế giới, biết về tình thần đấu tranh quật cường của dân
tơc ta, biết đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm vô cùng phức tạp của con người…
Như vậy, môn Ngữ văn ở trường THPT cung cấp cho học sinh một kho tàng tri
thức lớn, giúp các em nhận thức được nhiều điều trong cuộc sống. Đó là một cơ sở
quan trọng để hình thành kỹ năng sống cho học sinh hiện nay.
Với tính chất là mơn học cơng cụ, mơn Ngữ văn giúp học sinh có năng lực
ngơn ngữ để học tập, tăng khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người.
Với tính chất là mơn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng
năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng lành mạnh hoàn thiện
nhân cách. Những chức năng, giá trị này của môn Ngữ văn ở trường THPT đều rất
cần thiết và không thể thiếu đối với mỗi học sinh trong thời đại ngày nay. Học mơn
Ngữ văn, học sinh sẽ có thêm nhiều kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, hình thành cách
em kỹ năng nhận thức và nhiều kỹ năng ứng xử trong cuộc sống, giúp các em hoàn
thiện nhân cách, năng lực, phẩm chất để thích ứng với những địi hỏi của xã hội.

Học những tác phẩm văn học dân gian ở trường THPT khơng chỉ giúp học sinh
hiểu về một thời kì xa xưa của lịch sử xã hội mà còn giúp các em rút ra nhiều bài
học về cuộc sống, về cách ứng xử đúng đắn với mọi người, về truyền thống cha
12

skkn


ông. Học văn học trung đại, học sinh không chỉ thấy một thời hào hùng của lịch sử
dân tộc, thấy được những tư tưởng, suy nghĩ của cha ông ta cách đây hàng chục thế
kỉ mà còn giúp các em thấy được ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay trong
việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, non sông, giúp các em rút ra nhiều bài học quý
báu trong cuộc sống ngày nay. Học văn học hiện đại, đương đại, học sinh lại được
hiểu hơn về tâm tư, tình cảm của các nhà văn nhà thơ, những con người có tấm
lịng u nước, ln thổn thức trước những vấn đề của xã hội. Tất cả những tác
phẩm văn học được chọn lọc trong chương trình THPT khơng chỉ có giá trị nhận
thức, giá trị thẩm mĩ mà cịn có giá trị giáo dục sâu sắc về tình thương người, sự
yêu thương đùm bọc lẫn nhau, lòng yêu nước, sự căm thù giặc…Chính vì thế, mơn
Ngữ văn ở trường THPT sẽ giúp học sinh có những bài học ý nghĩa về cuộc sống,
sẽ bồi dưỡng, thanh lọc tâm hồn, giúp các em được phát triển lành mạnh, hoàn
thiện hơn về nhân cách. Như vậy, mơn Ngữ văn có ý nghĩa vô cùng to lớn trong
viêc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
1.2. Quan điểm giáo dục kỹ năng sống ở môn Ngữ văn
Mục tiêu hướng đến của chương trình giáo dục phổ thơng mới là khơng chú
trọng nhiều vào nội dung mà quan tâm nhiều đến việc rèn luyện năng lực, phẩm
chất của người học. Muốn đạt được phẩm chất, năng lực thì học sinh phải hình
thành, phát triển được những kỹ năng cần thiết trong quá trình học tập. Chính vì
thế, dạy học văn trong nhà trường hiện nay khơng chỉ quan tâm đến việc hình
thành kiến thức, năng lực mà cần quan tâm rèn luyện cả kỹ năng sống cho học
sinh.

Để hình thành, phát triển kỹ năng sống trong quá trình dạy học Ngữ văn, giáo
viên có hai cách để tiếp cận kỹ năng sống cho học sinh: tiếp cận từ nội dung và từ
phương pháp dạy học. Tiếp cận từ nội dung là thông qua nội dung bài học, giáo
viên có thể liên hệ, nhắn nhủ hoặc đặt ra các tình huống gắn với thực tiễn để học
sinh nghiên cứu, tìm tịi, rút ra bài học, hình thành kỹ năng sống cho bản thân. Tiếp
cận từ phương pháp là thông qua hệ thống các phương pháp dạy học của giáo viên,
thông qua sự tổ chức các hoạt động của giáo viên để học sinh tích cực hoạt động.
Từ việc tham gia các hoạt động đó, giáo viên giúp học sinh có thêm nhiều kỹ năng
quan trọng trong cuộc sống. Đây là cách thức hình thành kỹ năng quan trọng, diễn
ra trong mọi bài học, diễn ra thường xun, chính vì thế sẽ hình thành và phát triển
nhiều kỹ năng của học sinh trong cuộc sống. Nếu giáo viên tổ chức được nhiều
hoạt động, thu hút được sự tham gia tích cực của học sinh thì chắc chắn hiệu quả
thu được về kỹ năng, năng lực sẽ rất rõ.
Giáo dục kỹ năng sống trong môn Ngữ văn, theo đặc trưng của môn học là
giáo dục theo con đường “mưa dầm thấm lâu”, nhẹ nhàng, tự nhiên, không ngượng
ép. Kỹ năng sống của học sinh không phải hình thành trong một sớm một chiều,
qua một bài học, một vài hoạt động mà chính là nhờ một q trình dài lâu, qua
nhiều hoạt động, nhiều mơi trường để hình thành và phát triển. Đặc biệt, giáo dục
13

skkn


kỹ năng sống qua môn Ngữ văn, môn học vừa có tính chất cơng cụ vừa có tính
chất nghệ thuật thì càng phải cần thời gian, khơng nóng vội, cần sự tự nhiên chứ
không thể gượng ép. Mỗi bài học chỉ có thể rèn luyện cho học sinh một phương
diện nào đó của kỹ năng sống, phải qua thời gian, qua nhiều hoạt động, qua nhiều
bài học, qua thực tế cuộc sống đa dạng thì học sinh mới tích lũy được cho mình
những kỹ năng sống cần thiết. Các kỹ năng mà học sinh có được trong những bài
học cũng cần sự uốn nắn, chỉnh sửa, rèn luyện qua thời gian dài lâu mới có thể trở

thành kỹ năng, kỹ xảo. Đặc biệt, những bài học rút ra về tình người, sự sẻ chia,
những khát vọng sống của con người…qua những tác phẩm văn học giá trị cần
được kết hợp với những phương pháp dạy học tích cực, để học sinh tự tìm tịi, tự
khám phá thì chắc chắn hiệu quả mang lại sẽ thấm thía hơn. Qua những hoạt động
tích cực, hiệu quả của học sinh, dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên thì việc
hình thành kỹ năng sống sẽ do các em tự khám phá ra, sẽ ăn sâu vào đời sống tâm
hồn, tình cảm và nhận thức của các em.
1.3. Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống qua môn Ngữ văn THPT
1.3.1. Mục tiêu giáo dục môn Ngữ văn ở trường THPT
Trước hết, môn Ngữ văn trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ
bản, hiện đại, hệ thống về văn học và Tiếng Việt. Những kiến thức đó bao gồm:
kiến thức về những tác giả, tác phẩm tiêu biểu với những thể loại đa dạng của văn
học Việt Nam và một số tác phẩm, đoạn trích của văn học nước ngồi; những hiểu
biết về lịch sử văn học, kiến thức về lí luận văn học; những hiểu biết về lịch sử
tiếng Việt, phong cách ngôn ngữ; những kiến thức về kiểu văn bản, đặc biệt là văn
bản nghị luận…
Môn văn ở trường THPT cịn hình thành ở học sinh những năng lực đặc thù
như năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Năng lực ngôn ngữ thể hiện ở việc
việc rèn luyện 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Năng lực văn học thể hiện ở
khả năng tiếp nhận văn học, khả năng tạo lập một số kiểu văn bản văn học, năng
lực cảm thụ thẩm mĩ…
Không những thế, mơn văn cịn bồi dưỡng cho học sinh tình u tiếng Việt,
văn học, văn hóa, tình u gia đình, thiên nhiên, đất nước. Mơn văn cũng góp phần
giúp các em có thêm lịng tự hào dân tộc, ý chí tự lập tự cường, tinh thần dân chủ,
nhân văn, tinh thần quốc tế cao cả. Môn văn giúp bồi đắp đời sống tâm hồn con
người thêm phong phú, hướng thiện.
1.3.2. Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống ở trường THPT qua giờ học Ngữ
văn
Về kiến thức, môn Ngữ văn giúp học sinh nâng cao hiểu biết về các giá trị
truyền thống của dân tộc và các giá trị tốt đẹp của nhân loại. Mơn văn góp phần

củng cố, mở rộng, bổ sung, khắc sâu cho học sinh hiểu rõ quyền và trách nhiệm
đối với bản thân, gia đình, xã hội. Hơn nữa, học sinh cần hiểu được giá trị, ý nghĩa
14

skkn


của kỹ năng sống giúp bản thân sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy
cơ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất, tinh thần của bản thân mình cũng như
người khác.
Về kỹ năng, mơn Ngữ văn góp phần giúp học sinh phát triển kỹ năng làm chủ
bản thân, có trách nhiệm, biết ứng xử linh hoạt và tự tin trong các tình huống giao
tiếp hằng ngày. Nó giúp học sinh có suy nghĩ, hành động tích cực, tự tin, có những
quyết định đúng đắn trong cuộc sống. Mơn Ngữ văn cũng giúp học sinh có kỹ năng
quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác trước những nguy cơ
ảnh hưởng đến an toàn và lành mạnh của cuộc sống như tệ nạn xã hội, HIV/ AIDS,
bạo lực, xâm hại về tinh thần và thể xác con người…Hơn nữa, qua bài học mơn
Ngữ văn cũng có thể giúp các em có thêm nhận thức để phịng ngừa những hành
vi, nguy cơ có hại cho sự phát triển lành mạnh của bản thân.
Về thái độ, mơn Ngữ văn cũng góp phần giúp học sinh có hứng thú và nhu
cầu được thể hiện kỹ năng sống mà bản thân đã được rèn luyện đồng thời biết động
viên người khác cùng thực hiện các kỹ năng sống đó. Mơn Ngữ văn góp phần
khơng nhỏ vào việc hình thành và thay đổi hành vi, đặc biệt là những hành vi liên
quan đến lối sống lành mạnh, đến quyền và trách nhiệm của bản thân, gia đình,
cộng đồng. Chính nhờ những điều đó nên mơn Ngữ văn giúp cho học sinh có
những định hướng nghề nghiệp cho bản thân trong tương lai.
2. Tìm hiểu về truyện cổ tích
2.1. Định nghĩa
Truyện cổ tích là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu
chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi,

nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ,
người có hình dạng xấu xí, người thơng minh, người ngốc nghếch và cả những câu
chuyện kể về những con vật nói năng và hoạt động như con người. Trong truyện cổ
tích thường có yếu tố hoang đường kì ảo, đóng vai trị cán cân cơng lí, thể hiện
khát vọng cơng bằng, mơ ước và niềm tin của nhân dân về sự chiến thắng của cái
thiện với cái ác, cái tốt với cái xấu.
2.2. Truyện cổ tích thần kỳ
Truyện cổ tích thần kỳ là loại truyện cổ tích có nội dung phong phú và số
lượng nhiều nhất. Đặc trưng quan trọng của cổ tích thần kỳ là có sự tham gia của
các yếu tố thần kỳ vào tiến trình phát triển của câu chuyện. Qua đó, nhân dân ta thể
hiện ước mơ cháy bỏng về hạnh phúc gia đình, về lẽ cơng bằng trong xã hội, về
phẩm chất và năng lực tuyệt vời của con người.

15

skkn


3. Phương pháp dạy học tác phẩm “Tấm Cám” theo hướng rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh
“Tấm Cám” là truyện cổ tích thần kỳ viết về cuộc đời, số phận nhân vật Tấm một cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải sống với dì ghẻ và người em cùng cha khác
mẹ. Từ nhỏ, Tấm đã phải chịu sự đối xử bất cơng, có nhiều mâu thuẫn với dì ghẻ
và Cám. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt, Tấm bị mẹ con Cám giết hại. Mặc dù thế,
Tấm đã khơng cam chịu cái chết mà liên tục hóa thân để tiếp tục cuộc đấu tranh
bền bỉ, không khoan nhượng với kẻ thù và cuối cùng cái thiện đã chiến thắng cái
ác. Tấm làm hoàng hậu và mẹ con Cám đều bị chết. Chính vì nội dung tác phẩm cổ
tích thần kỳ này gắn với nhiều ước mơ, khát vọng của nhân dân nên trong phần tìm
hiểu nội dung, nếu giáo viên lưu ý, quan tâm sẽ giúp học sinh có thêm nhiều bài
học và kỹ năng sống.
Với tác phẩm “Tấm Cám”, kỹ năng sống khơng chỉ được hình thành, rèn

luyện, phát triển từ nội dung sâu sắc của bài học mà còn được rèn luyện qua các
phương pháp dạy học tích cực của giáo viên. Chính vì thế, dạy học tác phẩm này
cũng như nhiều tác phẩm khác, nếu giáo viên biết cách tổ chức, chỉ dẫn cho học
sinh hoạt động hợp lý, hiệu quả thì học sinh sẽ rèn luyện được nhiều kỹ năng cần
thiết trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
3.1. Học sinh thực hiện video đóng vai trích đoạn “Tấm Cám” để trình
chiếu trong tiết học
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử
nào đó trong một tình huống giả định. Ở tiết học này, để kết hợp rèn kỹ năng sống
cho học sinh, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho một nhóm học sinh trong lớp
thực hiện video đóng vai trích đoạn “Tấm Cám” để trình chiếu trong phần khởi
động của tiết học. Ở hoạt động này, giáo viên nên cho các em có cùng sở thích và
năng khiếu đóng vai, diễn xuất, quay phim, tạo dựng, sửa chữa video đăng kí đảm
nhận. Đây là hoạt động tuy mất thời gian chuẩn bị và thực hiện nhưng giúp các em
rèn luyện thêm nhiều kỹ năng quan trọng trong cuộc sống hiện đại.
Trước khi tiến hành tiết học, giáo viên cần hướng dẫn và nói rõ nhiệm vụ cho
một nhóm tự chuẩn bị và thực hiện video đóng vai trích đoạn “Tấm Cám” trước
khi làm hồng hậu. Để thực hiện video này, học sinh cần tự sắp xếp thảo luận
nhóm để trao đổi chọn trích đoạn nào, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành
viên của nhóm: bạn viết kịch bản, bạn đóng vai Tấm, bạn đóng vai dì ghẻ, bạn
đóng vai Cám, bạn đóng vai Bụt, bạn quay video, bạn chỉnh sửa và tạo lập video…
Sau đó, nhóm chọn địa điểm, thời gian để thực hiện video. Đây là nhiệm vụ tương
đối khó, yêu cầu các thành viên tích cực và nỗ lực hết mình với nhiệm vụ được
giao. Giáo viên không trực tiếp tham gia mà đóng vai trị là người hướng dẫn, trao
đổi, quan sát, theo dõi, nhắc nhở, giải đáp những thắc mắc mà các em gặp phải
trong quá trình thực hiện video đóng vai.
16

skkn



Video học sinh thực hiện đóng vai trích đoạn “Tấm Cám”
Đến tiết học, sau khi trình chiếu video đóng vai của nhóm, giáo viên yêu cầu
các nhóm khác nhận xét về video đóng vai “Tấm Cám” mà nhóm đã thực hiện về
mọi phương diện: kỹ năng viết kịch bản, kỹ năng đóng vai, kỹ năng quay và tạo
lập video…Sau đó, giáo viên nhận xét, đánh giá, góp ý.
Khi học sinh thực hiện hoạt động này trong giờ học thì tiết học sẽ thêm phần
sinh động, hấp dẫn, thú vị với các em học sinh. Với những em tham gia nhóm đóng
vai tạo lập video sẽ có thêm nhiều hoạt động trải nghiệm sáng tạo đáng nhớ. Nhờ
vậy, các em sẽ được rèn thêm nhiều kỹ năng trong cuộc sống như: kỹ năng tự tin,
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kỹ năng thương lượng, kỹ năng hợp
tác, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ
năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ năng quản lý thời gian…Những bạn học sinh mặc
dù khơng trực tiếp tham gia đóng vai nhưng thơng qua video trình chiếu chắc chắn
cũng sẽ phần nào nâng cao hiểu biết, rút thêm nhiều kinh nghiệm và kích thích
hứng thú, đam mê khám phá cho các em.
3.2. Tổ chức hoạt động phỏng vấn trong phần tìm hiểu chung
Phỏng vấn là hoạt động trao đổi, đối đáp giữa hai người với nhau để trao đổi
thông tin, để tìm hiểu về một vấn đề nào đó trong xã hội. Trong phần tìm hiểu
chung của tác phẩm “Tấm Cám”, giáo viên có thể cho học sinh tiến hành hoạt
động phỏng vấn và trả lời phỏng vấn để bài học trở nên sinh động, hấp dẫn; học
sinh làm việc tích cực và rèn luyện phát triển thêm nhiều kỹ năng trong cuộc sống.
Để thực hiện hoạt động này, tiết học trước giáo viên cần dặn dị, giao nhiệm
vụ cho nhóm để chuẩn bị phần phỏng vấn. Với nhóm này, giáo viên cần hướng dẫn
cách chuẩn bị phần phỏng vấn để học sinh thực hiện có hiệu quả. Nhóm cần nghiên
17

skkn



cứu, phân công nhiệm vụ cụ thể cho người phỏng vấn và người trả lời phỏng vấn
để thực hiện thành công, đúng yêu cầu cuộc phỏng vấn và cung cấp những thơng
tin cần thiết về truyện cổ tích nói chung và truyện cổ tích “Tấm Cám” nói riêng.
Đến tiết học, giáo viên yêu cầu nhóm thực hiện cuộc phỏng vấn giữa một người
yêu văn chương và một nhà phê bình, nghiên cứu văn học. Yêu cầu cuộc phỏng
vấn cần diễn ra tự nhiên, thoải mái, người phỏng vấn cần chuẩn bị những câu hỏi
phù hợp để khơi gợi người trả lời phỏng vấn nhắc đến những nội dung quan trọng
của bài học như: định nghĩa truyện cổ tích, phân loại, đặc điểm truyện cổ tích thần
kỳ và truyện cổ tích “Tấm Cám”. Người trả lời phỏng vấn cần diễn đạt lưu lốt, am
hiểu về vấn đề truyện cổ tích để cung cấp kiến thức cho mọi người. Kết thúc cuộc
phỏng vấn, giáo viên nên cho các nhóm khác nhận xét, bổ sung phần làm việc của
nhóm này và cuối cùng giáo viên nhận xét, bổ sung.

Hoạt động phỏng vấn
Với hoạt động phỏng vấn này, giáo viên sẽ giúp các học sinh rèn kỹ năng phát
hiện giải quyết vấn đề để chuẩn bị phần phỏng vấn để rèn kỹ năng tự tin, kỹ năng
giao tiếp khi tiến hành phỏng vấn trước tập thể lớp. Đây đều là những kỹ năng
quan trọng, cần thiết, cần được trau dồi rèn luyện với mỗi học sinh.
3.3. Học sinh vẽ tranh và tóm tắt tác phẩm qua tranh
Trong giờ đọc hiểu tác phẩm “Tấm Cám”, giáo viên cịn có thể tạo điều kiện
cho học sinh thể hiện năng khiếu của bản thân qua việc vẽ tranh và tóm tắt tác
phẩm qua tranh. Vẽ tranh cũng là một phương diện thể hiện sự cảm nhận, hiểu biết
của học sinh về tác phẩm văn học. Học sinh vẽ những bức tranh về những chi tiết,
18

skkn


sự việc tiêu biểu trong tác phẩm “Tấm Cám” để phục vụ cho việc tóm tắt tác phẩm
thêm sinh động, hấp dẫn và dễ nhớ, dễ hiểu. Hoạt động này giáo viên cho một

nhóm học sinh chuẩn bị ở nhà. Nhóm này giáo viên có thể cho học sinh có cùng sở
thích và năng khiếu đăng kí tham gia. Sau khi giao nhiệm vụ, nhóm tự thảo luận để
bàn bạc, thống nhất vẽ những chi tiết sự việc nào, ai là người vẽ tranh, ai là người
tóm tắt tác phẩm qua tranh.. Với hoạt động này, giáo viên cần đóng vai trò là người
hướng dẫn, nhắc nhở, khuyên bảo, động viên, khuyến khích các em để học sinh tự
tin trong hoạt động và trong cuộc sống.

Học
sinh tóm tắt tác phẩm qua tranh vẽ
Đến tiết học văn bản “Tấm Cám”, giáo viên cho học sinh treo sản phẩm tranh
vẽ đã chuẩn bị để phục vụ cho bài học. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh tóm tắt
ngắn gọn tác phẩm “Tấm Cám” trên cơ sở các bức tranh để câu chuyện trở nên
sinh động, cuốn hút hơn. Sau khi nhóm trình bày xong, giáo viên cho các nhóm
nhận xét, góp ý, rút kinh nghiệm. Nhờ hoạt động này, giáo viên giúp học sinh có
kỹ năng sáng tạo, kỹ năng tự tin, kỹ năng cảm nhận tác phẩm, kỹ năng khẳng định
bản thân, kỹ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin…Không những thế, nhờ hoạt động
này mà tiết học thêm phần sinh động, học sinh thêm hứng thú, giờ học văn trở
thành tiết học mà nhiều học sinh chờ đợi.
3.4. Thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là phương pháp giáo viên sắp xếp học sinh thành những
nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp giữa các thành viên để hồn
thành một nhiệm vụ nào đó. Trong hoạt động nhóm cần có sự phân cơng: trưởng
nhóm, phó nhóm, thư kí...Sự phân cơng này có tính chất tạm thời, nên có sự thay
đổi. Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả, giáo viên cần lưu ý các vấn đề sau: thiết kế
19

skkn


các nhiệm vụ đòi hỏi sự phụ thuộc lẫn nhau, tạo những nhiệm vụ phù hợp với kỹ

năng và khả năng làm việc nhóm của học sinh, phân cơng nhiệm vụ cơng bằng
giữa các nhóm và các thành viên, hướng dẫn học sinh phương pháp, kỹ năng làm
việc nhóm. Hoạt động nhóm cần tiến hành theo các bước: chuẩn bị hoạt động, thực
hiện và đánh giá hoạt động. Hơn nữa, giáo viên phải quan tâm, hướng dẫn, có biện
pháp giúp đỡ kịp thời đối với hoạt động của các nhóm.

Hoạt động thảo luận nhóm
Từ hoạt động nhóm, học sinh được trao đổi, hỗ trợ và cùng nhau phối hợp
làm việc để hồn thành nhiệm vụ chung. Hoạt động nhóm có ý nghĩa trong việc
phát huy cao độ vai trò hợp tác, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh
thần trách nhiệm của học sinh. Nó tạo cơ hội cho các em thể hiện ý kiến, tự khẳng
định khả năng, biết tiếp thu ý kiến người khác, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được
giao. Hơn nữa, nó cịn giúp học sinh hình thành các kỹ năng, phẩm chất cần thiết
như: kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng thương lượng, kỹ năng giải quyết vấn đề,
kỹ năng quản lý thời gian. Ngồi ra, nó cịn thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân
chủ, nhân văn. Hoạt động nhóm tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học
được khẳng định và phát triển. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích học sinh giao tiếp
với nhau và như vậy sẽ giúp cho những em nhút nhát, thiếu tự tin có nhiều cơ hội
hòa nhập với lớp học. Tuy nhiên, nếu giáo viên không quan tâm, theo dõi sát sao
các hoạt động làm việc nhóm sẽ tạo sự chây lười, ỉ lại của một số học sinh và các
em sẽ khó có thể nắm được nội dung bài học.

20

skkn


Với bài học “Tấm Cám”, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận để tìm hiểu
nhân vật Tấm trước khi làm hoàng hậu và sau khi làm hoàng hậu. Ở phần thảo luận
này, mỗi nhóm sẽ có một nhiệm vụ khác nhau nhưng liên quan đến nhau thành một

chuỗi kiến thức để rèn luyện kỹ năng. Sử dụng phương pháp làm việc nhóm giúp
cho học sinh làm việc nhiều hơn, kiến thức nhớ lâu hơn, các em sẽ trau dồi thêm
nhiều kỹ năng cần thiết.
3.5. Giáo viên thiết kế hệ thống câu hỏi để vừa tổ chức, hướng dẫn, tìm
hiểu tác phẩm vừa rèn kỹ năng sống cho học sinh
Với phương pháp dạy học tích cực, giáo viên thường phải sử dụng hệ thống
câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu, khám phá thơng tin, kiến thức, để
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Hơn nữa, trong quá trình dạy học,
học sinh cũng sẽ sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm giáo viên và các học sinh
khác về những nội dung bài học chưa rõ. Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự
hiểu biết lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh. Hệ thống câu hỏi càng tốt thì thì mức
độ tham gia của học sinh càng nhiều, học sinh sẽ học tập tích cực hơn, sẽ tăng
thêm hiểu biết, sẽ rèn luyện được nhiều kỹ năng, năng lực.
Một tác phẩm văn học dân gian dài, nhiều nội dung ý nghĩa sâu sắc như “Tấm
Cám”, học sinh không thể tự khám phá mà cần sự dẫn dắt, hướng dẫn của giáo
viên. Giáo viên không thể là người cung cấp tri thức, người truyền giảng, người
đọc cho học sinh chép những kiến thức cần thiết về tác phẩm. Ngược lại, giáo viên
phải là người tổ chức, hướng dẫn cho học sinh tham gia các hoạt động để khám
phá tác phẩm, để học sinh tự mình nhận ra những giá trị nội dung, nghệ thuật và
rèn cho các em những kỹ năng, thái độ, từ đó hình thành nhiều phẩm chất và năng
lực cần thiết.
Để hệ thống câu hỏi đạt hiệu quả cao trong quá trình dạy học thì khi đặt câu
hỏi, giáo viên cần chú ý các vấn đề sau: câu hỏi nên ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu; câu
hỏi phải đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với trình độ, kích thích được hứng thú ở học
sinh; hệ thống câu hỏi nên sắp xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, không
nên ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích, khơng hỏi nhiều vấn đề cùng
một lúc… Qua hệ thống câu hỏi chặt chẽ, logic, khoa học của giáo viên, học sinh
được khơi gợi tư duy, được làm việc, được suy nghĩ, được rèn luyện kỹ năng để
tìm ra đáp án. Khi học sinh trả lời xong, yêu cầu những học sinh khác
nhận xét, bổ sung, sửa chữa câu trả lời của bạn để thu hút sự tập

trung lắng nghe của cả lớp trong hoạt động đàm thoại với tinh
thần có thể phê phán, phản biện. Khi học sinh trả lời, giáo viên
cần lắng nghe, chú ý. Đối với nội dung trả lời của học sinh, giáo
viên cần có sự nhận xét, đánh giá cụ thể, ghi nhận sự nỗ lực và
kết quả đạt được của học sinh. Với những học sinh trả lời sai hoặc
chưa đầy đủ, thiếu chính xác, giáo viên cần bình tĩnh, tránh vội
vàng cắt ngang lời của học sinh khi không thật cần thiết, tránh
21

skkn


đưa ra những nhận xét có tính chất tiêu cực, phủ nhận sự nỗ lực
của các em. Trong những trường hợp ấy, giáo viên nên gạn lọc
những gì các em đã làm được để khích lệ học sinh và gợi mở, dẫn
dắt thêm để các em tiếp tục suy nghĩ. Khi phản hồi câu trả lời của
học sinh, giáo viên cần tập trung vào điều chỉnh, bổ sung câu trả
lời của các em, giúp học sinh hệ thống hóa lại kiến thức, kỹ năng
thu được từ hoạt động học tập. Giáo viên cần chú ý nhận xét cả
nội dung và cách thức diễn đạt của học sinh để phát triển kỹ năng
sử dụng ngôn ngữ và kỹ năng tư duy sáng tạo.
Chính vì thế, với phương pháp dạy học này, giáo viên sẽ rèn cho học sinh
thêm một số kỹ năng cần thiết: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ
năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thơng tin, kỹ năng cảm thụ tác
phẩm văn học… Hơn nữa, với việc sử dụng phương pháp dạy học này thì tiết học
sẽ trở nên cuốn hút, học sinh được làm việc tích cực, sổi nổi, tất cả các em đều có
thể tham gia vào hoạt động trả lời câu hỏi để khám phá nội dung, kiến thức, rèn
luyện năng lực, phẩm chất từ bài học. Đặc biệt, phương pháp dạy học này sẽ giúp
học sinh dễ hiểu bài, khắc sâu hơn nội dung kiến thức cho các em.
3.6. Học sinh vẽ sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy (còn được gọi là bản đồ khái niệm hay giản đồ ý) là một hình
thức trình bày thơng tin trực quan. Thơng tin được sắp theo thứ tự ưu tiên và biểu
diễn bằng các từ khố, hình ảnh…Thơng thường, chủ đề hoặc ý tưởng chính được
đặt ở giữa, các nội dung hoặc ý triển khai được sắp xếp vào các nhánh chính và
nhánh phụ xung quanh. Dựa vào sơ đồ tư duy, con người sẽ có cái nhìn tổng quan
hơn về một thơng tin nào đó. Chúng ta có thể vẽ sơ đồ tư duy trên giấy, bảng hoặc
thực hiện trên máy tính.
Trong học tập, sơ đồ tư duy là phương pháp sử dụng những ký hiệu, hình ảnh
sinh động minh họa giúp cho học sinh ghi nhớ bài dễ dàng và hiệu quả hơn. Trong
công việc, sơ đồ tư duy được sử dụng như một cơng cụ để phân tích vấn đề mang
lại hiệu quả cao. Phương pháp này giúp học sinh dễ dàng nắm bắt, xâu chuỗi vấn
đề, liên kết những đối tượng đơn lẻ. Sử dụng sơ đồ tư duy khai thác được các khả
năng tư duy của não bộ. Thay vì học sinh sử dụng một câu văn để mô tả thì sơ đồ
tư duy sử dụng những hình ảnh minh họa, những đường nối và những mũi tên biểu
thị theo quy tắc vừa thể hiện được dạng thức đối tượng, vừa biểu thị được quan hệ
nhiều chiều giữa chúng. Tuy nhiên, giữa những khái niệm, những nội dung quan
trọng có liên hệ, liên quan đến nhau.
Trong giờ học Ngữ văn, sơ đồ tư duy có thể sử dụng ở nhiều thời điểm khác
nhau: tìm hiểu phần tiểu dẫn, đọc hiểu văn bản, phần tổng kết... Với bài học Tấm
Cám, giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy để tóm tắt các ý phần tiểu
dẫn, sơ đồ tư duy về nhân vật Tấm, về quá trình hóa thân của Tấm, sơ đồ tư duy về
những đặc sắc nội dung, nghệ thuật của tác phẩm “Tấm Cám” để sử dụng trong
22

skkn


phần tổng kết...Ở mỗi thời điểm, nếu giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy chắc
chắn sẽ rèn luyện và phát triển nhiều kỹ năng cần thiết, bài học sẽ cô đọng, học
sinh sẽ nhớ và ấn tượng lâu hơn. Mặt khác, vì thời gian có hạn và tránh sự nhàm

chán, giáo viên có thể chọn và yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy một lần trong quá
trình dạy học tác phẩm “Tấm Cám”.

Học sinh trình bày sơ đồ tư duy "Q trình hóa thân của Tấm"
Với văn bản “Tấm Cám”, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho một nhóm vẽ sơ
đồ tư duy về q trình hóa thân của Tấm ở nhà. Giáo viên yêu cầu học sinh tự thảo
luận để hoàn thành sơ đồ đúng thời gian và đảm bảo khoa học, trình bày đẹp mắt,
ấn tượng. Chính vì thế, các em cần bàn bạc, đóng góp ý kiến để tìm ra phương
pháp vẽ sơ đồ thể hiện rõ nhất q trình hóa thân của Tấm. Đến tiết học, nhóm
được giao nhiệm vụ vẽ sơ đồ tư duy sẽ treo sản phẩm và thuyết trình cịn các nhóm
khác nhận xét, đánh giá. Cuối cùng, giáo viên nhận xét, bổ sung, rút kinh nghiệm.
Giờ học có sử dụng sơ đồ tư duy sẽ giúp các em thấy rõ hơn và khắc sâu trí
nhớ hơn về mâu thuẫn gay gắt giữa Tấm và mẹ con Cám cũng như q trình đấu
tranh khơng khoan nhượng với kẻ thù, sự mạnh mẽ, chủ động, quyết liệt của Tấm
sau khi làm hoàng hậu. Giáo viên sử dụng kỹ thuật vẽ sơ đồ tư duy trong tiết học
sẽ giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng
tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thương lượng, kỹ năng quản
lý thời gian, kỹ năng lắng nghe tích cực...Sử dụng kỹ thuật này sẽ giúp học sinh
phát triển tư duy khái quát, sáng tạo.
23

skkn


3.7. Học sinh dẫn chương trình để tổ chức trị chơi
Dẫn chương trình là nói trước cơng chúng, nơi đơng người nhằm lôi cuốn sự
chú ý của mọi người, để dẫn dắt những người có mặt tương tác và hịa nhập với
sự kiện. Đó có thể là sự kiện giải trí hay lễ nghi, trên truyền hình hay ngồi đời
thực. Hiện nay, trong trường chúng tôi đã tổ chức được một số đội nhóm, câu lạc
bộ để đào tạo, nâng cao kỹ năng cho các em học sinh có năng khiếu, trong đó có

dẫn chương trình. Chính vì thế, các lớp hầu như đã lựa chọn một vài em có năng
khiếu, đam mê và được hướng dẫn, đào tạo, thực hành tương đối bài bản, có thể
nhanh nhạy xử lí trong mọi trường hợp được giao. Những học sinh đó đều có sự
tự tin, giọng nói lưu lốt, truyền cảm, hoạt ngơn, chủ động, thơng minh, dí dỏm,
có khả năng xử lí nhanh các tình huống…
Trong giờ dạy học văn theo xu hướng hiện nay, giáo viên không chỉ chú trọng
đến việc tìm hiểu nội dụng kiến thức mà cịn cố gắng suy nghĩ, tìm tịi để tổ chức
nhiều hoạt động, nhiều phương pháp để học sinh rèn luyện kỹ năng và phát triển
phẩm chất, năng lực. Chính vì thế, khi dạy tác phẩm “Tấm Cám”, trong hoạt động
mở rộng, giáo viên có thể kích thích hứng thú học tập cho học sinh bằng việc tổ
chức cuộc thi nhỏ "Ai nhanh hơn". Đó là u cầu học sinh tìm nhanh và thể hiện
tốt nhất nhất những câu hát, đoạn bài hát hoặc câu thơ, bài thơ liên quan đến “Tấm
Cám”. Hoạt động này vừa giúp học sinh mở rộng kiến thức vừa góp phần tạo sự
hứng khởi, thích thú, thoải mái tinh thần cho các em sau tiết học. Khi tổ chức,
hướng dẫn hoạt động này, giáo viên cần tạo khơng khí vui vẻ, háo hức, có sự hợp
tác tích cực của học sinh.
Trước hết, giáo viên giao nhiệm vụ, nói rõ u cầu và tính chất của cuộc thi.
Trong quá trinh tổ chức hoạt động này, giáo viên cho một học sinh đóng vai trị là
người dẫn chương trình. Người dẫn chương trình cần được giáo viên lựa chọn và
hướng dẫn chuẩn bị trước để làm tốt vai trò của mình. Nhiệm vụ của người dẫn
chương trình là dẫn dắt, khơi gợi, thu hút các bạn trong lớp tham gia tích cực, hào
hứng để tìm ra các đáp án và thể hiện tài năng hát. Trong phần này, người dẫn
chương trình có thể chia lớp thành hai đội thi để phần thi thêm phần hấp dẫn và thú
vị, có sự hợp sức của nhiều cá nhân. Trong trò chơi, đội nào tìm được đáp án sẽ giơ
tay và trả lời. Mỗi đội cử một thư ký lên bảng ghi lại kết quả của nhóm, yêu cầu
kết quả hai nhóm phải khác nhau. Những bài hát, bài thơ liên quan đến tác phẩm
“Tấm Cám” học sinh có thể tìm như: cô Tấm ngày nay, bống bống bang bang,
chuyện Tấm Cám…Kết thúc trị chơi, người dẫn chương trình kết luận nhóm dành
phần thắng. Hơn nữa, người dẫn chương trình có thể cho một vài bạn thể hiện một
vài bài hát để tiết học thêm phần hứng khởi, vui vẻ. Sau khi tổ chức xong hoạt

động, giáo viên nhận xét, đánh giá. Như vậy, ở hoạt động này, dưới sự tổ chức,
hướng dẫn của giáo viên, mọi hoạt động đều do học sinh thực hiện. Giáo viên sẽ là
người quan sát, theo dõi, hướng dẫn, nhận xét, đánh giá mọi hoạt động của học
sinh.
24

skkn


Nếu tổ chức hoạt động mở rộng theo phương pháp tổ chức này thì học sinh sẽ
hình thành và phát triển kỹ năng tự tin thể hiện khả năng trước đám đơng, kỹ năng
tìm kiếm và xử lí thơng tin để có đáp án nhanh và phù hợp. Người dẫn chương
trình sẽ rèn luyện được nhiều kỹ năng: kỹ năng tự tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
lắng nghe tích cực, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản
lý thời gian, kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin…
Như vậy, chỉ qua một hoạt động nhỏ nhưng nếu biết cách tổ chức, nếu kích thích
được sự tích cực của học sinh thì giáo viên sẽ gián tiếp rèn luyện cho các em nhiều
kỹ năng quan trọng, làm tiền đề cho sự phát triển về sau của học sinh.

Học
dẫn

sinh
chương trình tổ chức trị chơi "Ai nhanh hơn"

3.8. Giáo viên đặt ra các tình huống gắn với thực tiễn cuộc sống, đặt các
câu hỏi để rút ra bài học giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Kỹ năng sống cho học sinh khơng chỉ được hình thành, rèn luyện, trau dồi,
phát triển qua các phương pháp, kỹ thuật dạy học giáo viên tổ chức cho học sinh
mà còn được hình thành từ những chi tiết, sự việc, nội dung, ý nghĩa…của những

tác phẩm văn học. Truyện cổ tích vốn là những tác phẩm dân gian có ý nghĩa giáo
dục sâu sắc. Các bà, các mẹ thường kể cho con trẻ nghe các câu chuyện cổ tích để
rút ra những bài học trong cuộc sống. Không những thế, “Tấm Cám” lại là truyện
cổ tích tiêu biểu, hầu như ai cũng biết đến, có ý nghĩa giáo dục quan trọng. Từ
truyện cổ tích này, các em rút ra nhiều chiêm nghiệm có giá trị, nhiều bài học
trong cuộc sống. Những bài học này không chỉ được rút ra ở phần cuối tác phẩm,
khi chúng ta đã tìm hiểu xong truyện cổ tích này mà cịn được khám phá, được
đúc rút trong trong suốt diễn biến của câu chuyện. Nhiều chi tiết, nhiều sự việc
25

skkn


×