Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 139 trang )



PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Là một trong những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu bậc nhất Đơng Nam Á và thế 
giới, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, thủy hải sản và cây ăn trái 
nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hơn thế, nó cịn là vùng kinh tế trọng điểm cả nước, có vị trí 
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước 
trong khu vực và thế giới. Q trình cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc 
tế  mà  thời  gian  qua  đã  giúp  cho  các  lĩnh  vực  công  nghiệp,  dịch  vụ  và  đặc  biệt  là  nông 
nghiệp ở  ĐBSCL đạt được những  thành tựu to lớn. Tốc độ  tăng trưởng GDP  lập nên  kỷ 
lục mới, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngồi khơng ngừng gia tăng; cơ cấu kinh 
tế chuyển dịch dần từ nơng nghiệp truyền thống sang cơng nghiệp, thương mại dịch vụ và 
nơng  nghiệp  cơng nghệ cao;  thu  nhập bình qn  đầu người  tăng  lên  và  đời  sống  xã  hội 
khơng ngừng được cải thiện; một số sản phẩm nơng nghiệp, thủy sản và cơng nghiệp chế 
biến đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem về nhiều ngoại tệ cho các đại phương 
trong vùng và cả nước…. Tuy nhiên, q trình phát triển kinh tế của ĐBSCL thời gian qua 
cũng  bộc  lộ  khá  nhiều  yếu  kém:  tăng  trưởng  xuất  khẩu  không  ổn  định,  cịn  chứa  đựng 
nhiều  yếu  tố  khơng  bền  vững  và  dễ  bị  tổn  thương  bởi  những  cú  sốc  từ  bên  ngồi;  sản 
phẩm chủ lực cịn ít và phát triển chậm, chưa chuyển dịch theo hướng tăng hàm lượng trí 
tuệ và cơng nghệ cao nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng; năng lực cạnh 
tranh trong xuất khẩu của các sản phẩm cịn thấp…. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên 
cứu, sự phát triển kinh tế ­ xã hội của Đồng bằng sơng Cửu Long cịn khá biệt lập, chưa có 
sự gắn kết chặt chẽ với các vùng khác của đất nước cũng như quốc tế. Đồng thời, sự phát 
triển  của  vùng  cũng rất  thiếu đồng bộ,  chưa cân  xứng  giữa  các ngành nghề,  lĩnh  vực  và 
giữa  các  địa phương; phát  triển nặng về  chiều  rộng,  chạy  theo  số  lượng nên  chất  lượng, 
hiệu quả và đặc biệt là tính cạnh tranh quốc tế khơng cao… 
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều ngun nhân, nhưng ngun nhân chủ 
yếu có thể khẳng định là thiếu vắng những sản phẩm chủ lực có khả năng tạo ra giá trị gia 
tăng lớn, sức cạnh tranh cao và nhất là tạo được động lực thúc đẩy khai thác một cách hiệu 
quả tài ngun thiên nhiên, lao động và những lợi thế “trời cho” mà khơng một nơi nào 


khác  có  được ngồi  vùng đất nầy.  Vấn  đề đặt ra  ở đây  là,  làm  cách nào để  ĐBSCL  xác 
định được sản phẩm chủ lực hoặc hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng để tập trung đầu tư phát




triển; làm cách nào để cho  sản phẩm chủ lực ĐBSCL có thể cạnh tranh ngang ngửa với 
hàng hóa, dịch vụ cùng loại trong cả nước và trên thế giới; và làm cách nào để sản phẩm 
chủ lực ĐBSCL khơng ngừng phát triển và phát triển một cách bền vững trong mơi trường 
hội nhập và cạnh tranh quốc tế… 
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, việc nhanh chóng nghiên cứu để tìm ra những 
sản phẩm chủ lực, giữ vai trị chủ đạo đồng thời tạo ra cú đột phá mạnh mẽ cho phát triển 
kinh tế ĐBSCL trong tương lai gần cũng như lâu dài là u cầu khách quan và bức thiết ở 
thời điểm hiện nay.  Và,  đây cũng  chính  là  lý  do mà  tác  giả  chọn  đề  tài: “Xác định  sản 
phẩm  chủ  lực  và  phát  triển  sản  phẩm  chủ  lực  Đồng  bằng  sông  Cửu  Long  đến  năm 
2020” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của bản thân. 

2.  Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên nghiên cứu của luận án 
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 
Luận án tập trung vào nghiên cứu 3 mục tiêu cơ bản sau đây: 
1) Hệ thống tiêu chí xác định  sản phẩm chủ lực phù hợp với điều kiện thực tế và 
tính đặc thù của ĐBSCL để làm cơ sở đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực thống nhất cho 
tồn vùng. 
2) Danh mục các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL đến năm 2020. 
3) Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển một cách bền vững sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL trong thời gian tới. 
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận án  sẽ tập trung thực hiện xun suốt các 
nhiệm vụ trọng tâm như sau: 
1) Nghiên cứu hệ thống hóa lý thuyết về sản phẩm chủ lực và vận dụng nó để làm 

sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá, xét chọn  và 
phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL từ nay đến năm 2020. 
2) Phân tích, đánh giá nhu cầu thị trường, tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm 
chủ lực cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực ĐBSCL để từ đó xây dựng Hệ 
thống tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực vùng từ nay đến năm 2020. 
3) Trên cơ sở Hệ thống tiêu chí, tiến hành phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những 
hàng hóa hội đủ điều kiện hoặc có triển vọng để hình thành Bảng danh mục sản phẩm chủ 
lực ĐBSCL từ nay đến năm 2020.




4) Phân tích, đánh giá những thành tựu cũng như tồn tại, hạn chế trong thực tế xét 
chọn và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian qua để từ đó đề xuất các giải pháp 
khắc phục nhằm phát triển hơn nửa sản phẩm chủ lực của vùng trong tương lai lâu dài . 

3.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 
3.1.  Đối tượng nghiên cứu 
Đối  tượng  nghiên  cứu  của  luận  án  là  các  sản  phẩm  hàng  hóa  và  dịch  vụ  chủ  lực 
mang  đặc  trưng  cho  lợi  thế,  tiềm  năng  và  gắn  chặt  với  q  trình  phát  triển  kinh  tế  của 
vùng, đồng thời đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản phẩm chủ lực của Đồng 
bằng sơng Cửu Long giai từ nay đến năm 2020. 
2.2.  Phạm vi nghiên cứu 
Đối với hàng hóa, dịch vụ: Các loại hàng hóa, dịch vụ đã, đang và có triển vọng 
phát triển để tham gia thị trường và giữ vai trị chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế 
vùng đồng bằng sơng Cửu Long đến năm 2020 
Đối với địa bàn nghiên cứu: Ngồi các tỉnh, thành thuộc khu vực đồng bằng sơng 
Cửu  Long, khi nghiên  cứu nhu  cầu thị  trường  thì phạm  vi nghiên cứu  được mở rộng  ra 
nhiều tỉnh, thành phố lớn trong cả nước. 


4.  Tổng quan tài liệu nghiên cứu 
Phát triển  cụm  cơng nghiệp gắn với phát triển vùng  lãnh thổ và địa phương, hoặc 
phát triển ngành hoặc sản phẩm cơng nghiệp chủ lực của địa phương, từ lâu đã có nhiều 
cơng trình trong và ngồi nước nghiên cứu, nhiều tài liệu, lý thuyết đề cập tới. Tuy nhiên, 
nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực cho một vùng kinh 
tế như ĐBSCL thì hầu như chưa được nghiên cứu bao giờ. Vì vậy, q trình nghiên cứu, 
Luận án chỉ tiếp cận được với các tài liệu có nội dung gần với chủ đề đặt ra. 
4.1. Tài liệu nước ngồi 
1)  Thuyết  lợi  thế  cạnh  tranh  quốc  gia  của  M.Porter  (1990).  Porter  cho  rằng, 
các lý thuyết phát  triển truyền  thống như  lợi  thế  tuyệt  đối  của  Adam  Smith  và lợi  thế  so 
sánh  của  David  Ricardo  xem nền  kinh  tế  như  là  sự  “định hướng bởi  yếu  tố nguồn  lực”. 
Tức,  lợi  thế  của  một  quốc  gia  trong  thương  mại  quốc  tế  được  xác  định  bởi  các  yếu  tố 
nguồn lực như đất đai, tài ngun thiên nhiên, lao động và qui mơ dân số địa phương vì 
chúng  tạo  ra  chi phí  thấp.  Tuy  nhiên,  theo Porter  thì  "sự  thịnh  vượng của quốc gia được 
tạo ra chứ khơng phải được thừa kế", nên cần có sự tập trung đầu tư mạnh mẽ để nâng cao 
hiệu quả thơng qua cải thiện năng suất lao động hoặc sáng tạo ra các sản phẩm với giá trị




độc đáo. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công khi vận dụng tư tưởng này của Porter 
và  các lý  thuyết  cạnh  tranh khác  vào  việc  xác  định  lợi thế  cạnh  tranh để phát triển  cụm 
chun mơn hóa và sản phẩm chủ lực [20], [21]. 
2)  Lý  thuyết  cụm  phát  triển  của  M.  Porter  (1990).  Ban  đầu,  Porter  cung  cấp  các 
ngun lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho 
các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia. Porter cho rằng, một cụm được xem là có lợi 
thế so sánh nếu sản phẩm, năng suất và tốc độ tăng trưởng cao hơn các cụm khác. Ở cấp 
vùng, các chính sách phát triển cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn 
với  các  chiến  lược  phát  triển  địa  phương.  Trong  trường  hợp  này,  sự  tiếp  cận  cụm  về 
ngun tắc được sử dụng như là cơng cụ phát triển về ngành sản phẩm và khơng gian liên 

kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. Từ năm 1990, nhiều quốc gia trên thế giới đã vận 
dụng  thành  cơng  lý  thuyết  này  vào  lựa  chọn  và  phát  triển  ngành/sản  phẩm  chủ  lực  tập 
trung theo khơng gian địa lý (Porter 1990) hoặc [48]. 
3) Sự phát triển của khái niệm cụm ­ Kinh nghiệm hiện tại và triển vọng, Christian 
H. M. Ketels (2003). Ketels đã trình bày khung khái niệm về cụm (cluster) của Michael 
M. Porter, các loại hình cụm, sự tiến hóa cuả cụm và cụm với hiệu quả kinh tế. Ngồi ra, 
Ketels cũng nói đến những phát hiện trong thực nghiệm đối với cụm, cụm dựa trên chính 
sách phát triển kinh tế và xem đây như là mơ hình phát triển kinh tế mới. Thơng qua cơng 
trình nghiên cứu này, Ketels đã mở rộng hơn về khái niệm cụm so với khái niệm ban đầu 
của Michael M. Porter và qua đó, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ hơn tầm quan trọng 
của cụm đối với phát triển kinh tế địa phương trong mơi trường cạnh tranh tồn cầu [48]. 
4) Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (1933). Lý thuyết này cho rằng, vùng 
nơng thơn chịu lực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt nhân của sự phát 
triển. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác định trên cơ sở nghiên cứu mức 
độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các 
sản phẩm của trung tâm. Trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị 
trường ngồi ngưỡng giới hạn khơng có lợi trong việc cung cấp hàng hố của trung tâm. 
Lý thuyết này được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm 
là xác định được quy luật phân bố khơng gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ đó có 
thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [45]. 
5) Một nghiên cứu về các chỉ số năng lực cạnh tranh, G. Arzu INAL (2003). Trong 
bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng và sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các




giới, đặc biệt các nhà sản xuất kinh doanh đến chiến lược cạnh tranh hiệu quả, nhiều nhà 
nghiên cứu đã cố gắng xác định khả năng cạnh tranh và phát triển các chỉ số định lượng 
thích hợp để đo lường sức mạnh cạnh tranh. Với sự nỗ lực của mình, G. Arzu INAL đã 
nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra 16 chỉ số có thể đo lường năng lực cạnh tranh của quốc 

gia, địa phương hay vùng lãnh thổ. Trong đó, có nhiều chỉ số thích hợp cho việc đo lường 
năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ làm cơ sở xây dựng tiêu chí xác định hàng hóa, 
dịch vụ chủ lực của địa phương [47]. 
Ngồi các tài tiệu trên, nhiều tài liệu khác cũng có nội dung liên quan vần đề này 
được  tác  giả  tham  khảo  như:  “Regional  innovation  systems  (RIS)  in  China  của  Jon 
Sigurdson”  đăng  trên  Working  Paper  No  195,  July  2004  [49];  “Sustaining  the  Green 
Revolution in India” của S. Nagarajan [50]; “Economic contributios of Thailand’s creative 
industries”, đăng trên tạp chí Fiscal Policy Institute 2009 [47]; “Koji – The key product in 
Japanese  alcoholic  beverages  and  fermented  foods,  Tokyo  University  of  Agriculture 
Sedagaya­ku,  Tokyo,  Japan  [54];  “Identifying  and  assessing  the  factors  that  influence 
cluster’s  competitiveness  in  Oregon, and  some  initial  suggestions”,  Luận  án  Tiến  sĩ  của 
Sam  Gi  Hong  (2007) [52]....Nhìn  chung  các  tài liệu này  đều nhấn mạnh đến  vai  trị  của 
phát triển cụm ngành sản phẩm trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia và đề 
xuất các chính sách hỗ trợ để cụm phát triển một cách bền vững. 
4.2 Tài liệu trong nước 
1) Luận án Tiến sĩ “Phát triển cơng nghiệp chế biến nơng, lâm sản trên địa bàn các 
tỉnh  vùng  Bắc  Trung  bộ”  của  Nguyễn  Hồng  Lĩnh  (2007).  Luận  án  đã  vận  dụng  các  lý 
thuyết  liên  quan,  đặc  biệt  là  mơ  hình  kim  cương  của  M. Porter  để  phân  tích  tìm  ra  các 
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành cơng nghiệp chế biến nơng, lâm sản trên địa bàn 
các tỉnh Bắc Trung bộ. Trên cơ sở xử lý các số liệu thu thập từ báo cáo thống kê và khảo 
sát thực tế; rút kinh nghiệm  phát triển ngành công nghiệp chế biến ở một số nước Đông 
Nam  Á  và  dựa  trên  tiềm  năng,  lợi  thế  của  vùng,  Luận  án  đã  xác  định  các  ngành  cơng 
nghiệp chế biến nơng, lâm sản chủ lực để phát triển trên địa bàn Bắc Trung bộ [9]. 
2) Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia dến năm 2020 của Chính phủ. Theo 
Chương  trình,  sẽ  hình  thành  và  phát  triển  hàng  hóa  mang  thương  hiệu  Việt  Nam  bằng 
cơng nghệ tiên tiến, có năng lực cạnh tranh cao về tính mới, chất lượng, giá thành dựa trên 
việc khai thác lợi thế so sánh các nguồn lực trong nước. Trong đó, giai đoạn 2010 – 2015 
phải hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm dựa trên cơng nghệ tiên tiến và do các





doanh nghiệp khoa học và cơng nghệ sản xuất; giai đoạn tiếp theo sẽ mở rộng qui mơ sản 
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm được xây dựng ở giai đoạn 2010 – 2015, mở rộng 
thị trường, tăng cường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên trường 
quốc tế [24]. 
3) Chương trình khoa học và cơng nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 – 
2005 của Bộ Khoa học­Cơng nghệ và Mơi trường (nay là Bộ Khoa học và Cơng nghệ) với 
chủ đề “ứng dụng cơng nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm 
chủ lực”. Mục đích của Chương trình là nhằm gia tăng kim ngạch và chuyển dịch cơ cấu 
xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng 
cơng nghệ cao cũng như thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.  Nội dung chủ yếu của Chương trình 
là nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển cơng nghệ về giống cây trồng và vật ni có 
năng  suất, chất  lượng  cao,  chống  chịu  sâu bệnh…;  xây  dựng  các mơ hình  thâm  canh  và 
sản  xuất  cơng nghiệp  trong ni trồng nơng, lâm,  thủy  hải  sản  theo hướng bền  vững  và 
bảo vệ mơi trường sinh thái...[1] 
4) “Quy chế đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản phẩm cơng nghiệp chủ lực 
Thành phố Hà Nội”.  Theo Qui chế này, cơ sở xác định sản phẩm cơng nghiệp chủ lực của 
Thành phố là các  tiêu chí gồm  sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngồi nước; được 
tạo ra trên các dây chuyền thiết bị có trình độ cơng nghệ ngang tầm khu vực, phù hợp với 
trình độ sản xuất trong từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của 
Thành phố, đảm bảo năng lực sản xuất và mơi trường bền vững; tạo ra mức tăng trưởng 
cao,  ổn định;  hoặc  thuộc nhóm  sản phẩm  xuất  khẩu  chủ  lực, đóng  góp tỷ  trọng  lớn vào 
tổng  GDP  cơng  nghiệp.  Qui  trình  xét  chọn  có  4  bước:  đề  xuất  doanh  nghiệp  tham  gia 
Chương trình; khảo sát sản phẩm cơng nghiệp; tổ chức đánh giá, xét chọn và cơng nhận 
sản phẩm chủ lực...[17]. 
5) Chương trình phát triển các sản phẩm cơng nghiệp chủ lực của thành phố Hồ Chí 
Minh  giai  đoạn  2002  –  2005”.  Theo  Chương  trình  này,  Hệ  thống  tiêu  chí  lựa  chọn  sản 
phẩm chủ lực và xây dựng bảng tự đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi sản phẩm đăng 
ký tham gia chương trình đã ra đời cùng với việc triển khai hỗ trợ các doanh nghiệp tham 

gia chương trình trên năm lĩnh vực: thiết kế sản phẩm và lựa chọn cơng nghệ, nâng cao 
trình độ quản lý của doanh nghiệp, tiếp thị, đào tạo nhân lực, tài chính thơng qua các hoạt 
động hướng dẫn, tư vấn hay mơi giới doanh nghiệp với nhà tư vấn có năng lực và uy tín, 
giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn lực về khoa học và tài chính của thành phố [2].




Ngồi ra,  Luận án  cịn  tham khảo nhiều  tài liệu chương trình phát triển sản phẩm 
chủ  lực  tương  tự  của  các địa phương  khác  cũng như  hội  thảo, hội nghị,...  liên quan đến 
vấn đề phát triển sản phẩm chủ lực nói chung, như: “Xác định hàng hóa,  dịch vụ chủ lực 
Tp Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2010, tầm nhìn 2020”; “Đánh giá thực trạng và định hướng 
phát triển cơng nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp, nơng nghiệp và làng nghề quận Bình Thủy 
(Tp  Cần Thơ) giai đoạn 2011  –  2015, tầm nhìn  đến năm 2020” và các bài viết khác của 
các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang web  trong nước và quốc tế có liên quan. Tuy 
nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện, sâu sắc cả về lý luận cũng 
như thực tiễn việc xác định và phát triển các sản phẩm cơng, nơng, nghiệp và thủy sản chủ 
lực thuộc vùng ĐBSCL. Với Luận án này, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu  và giải quyết vấn 
đề bức xúc đó nhằm góp phần phát triển nền kinh tế ĐBSCL một cách bền vững. 
5. Tính mới của Luận án 
So với các cơng trình nghiên cứu cũng như  chương trình phát triển sản phẩm chủ 
lực của các địa phương đã nêu trên, Luận án này có những điểm mới cơ bản sau: 
1) Hồn thiện hơn về mặt cơ sở lý luận đối với sản phẩm chủ lực cũng như phương 
pháp  xác  định  sản phẩm  chủ  lực  để  vận dụng  vào  giải quyết  các  vấn  đề  có  tính  lý luận 
cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sơng Cửu Long 
đến năm 2020. 
2) Từ cơ sở lý thuyết đã xây dựng, Luận án đưa ra bộ tiêu chí xác định sản phẩm 
chủ lực của đồng bằng sơng Cửu Long từ nay đến năm 2020 với 2 hệ thống đánh giá, xét 
chọn sản phẩm hàng hóa chủ lực và sản phẩm dịch vụ chủ lực. Các hệ thống này vừa bảo 
đảm các điều kiện cần, vừa bảo đảm đảm điều kiện đủ; vừa có tiêu chí định lượng và vừa 

có tiêu chí định tính; đầy đủ hơn, thực tế hơn nhưng đơn giản, dễ thực hiện hơn. 
3) Cũng với cơ sở lý thuyết đã hồn thiện, Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho 
việc cơng nhận sản phẩm chủ lực ĐBSCL đối với các sản phẩm đã từ lâu giữ vị trí chủ lực 
một cách tự nhiên do lợi thế đặc thù của vùng như lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thơng qua 
đó, Luận án cũng chứng minh tính chủ lực khơng thể chối cải của các sản phẩm này bằng 
một số chỉ tiêu định lượng quan trọng. 
4) Dựa trên Bộ tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực đã xây dựng, Luận án thực hiện 
việc xem xét, tính tốn và cân nhắc đối với từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có triển 
vọng  trong  vùng  để  từ  đó  lập  ra  bảng  Danh mục  những  sản  phẩm  chủ  lực  ĐBSCL  đến 
năm 2020.




5) Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xác định và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL 
thời gian qua cũng như quan điểm, định hướng mục tiêu phát triển  sản phẩm chủ lực của 
vùng thời gian tới, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp chủ yếu, khả thi và đồng bộ 
nhằm hỗ trợ các sản phẩm chủ lực phát triển một cách bền vững đến năm 2020. 

6.  Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu của đề tài 
6.1 Phương pháp tiếp cận vấn đề 
Để tiếp cận vấn đề, tác giả thực hiện thơng qua các phương pháp chủ yếu như: 
+  Tiếp  cận hệ  thống:  Trong q  trình nghiên cứu  xác định  sản phẩm  chủ  lực  của 
Đồng bằng sơng Cửu Long, những loại hàng hóa, dịch vụ khơng có tính đặc thù hoặc tính 
đặt thù khơng cao, tác giả đặt chúng trong mối quan hệ hỗ tương với hàng hóa, dịch vụ 
cùng  loại  trong  cả  nước.  Nghĩa  là  xem  hàng  hóa,  dịch  vụ  đó  của  Đồng  bằng  sơng  Cửu 
Long như là một bộ phận hữu cơ trong mối quan hệ tổng thể của cả nước. 
+ Tiếp cận logic: Từ việc nghiên cứu, thu thập các dữ liệu, thơng tin thơng qua tài 
liệu, sách báo hoặc các phương tiện thơng tin đại chúng để xây dựng các mơ hình lý thuyết 
về sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sơng Cửu Long, xem đây là giả thuyết để làm cơ sở 

chứng minh cho tính đúng đắn của nó hoặc loại trừ nó. 
+  Các  phương  pháp hỗ  trợ  khác:  Sử  dụng  các  phương  pháp  mơ  hình  hóa,  sơ  đồ 
hóa, phương pháp  thống  kê, phương pháp hồi qui  tuyến  tính…, đặc biệt  trong phân  tích 
cạnh tranh sẽ áp dụng mơ hình kim cương (diamond model) của Michael M. Porter để xác 
định lợi thế cạnh tranh ngành hàng. 
6.2 Phương pháp nghiên cứu định tính 
Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính để thu 
thập phân tích và diễn giải dữ liệu nhằm mục đích khám phá các nhân tố và mối quan hệ 
đến tính chủ lực của hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu này chủ yếu là để xây 
dựng  cơ  sở  lý  thuyết  một  cách  khoa  học  và  khách  quan  về  sản phẩm  chủ  lực.  Cơng  cụ 
được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này là: Khảo sát thực tế tại các địa phương, thảo 
luận nhóm; Thảo luận tay đơi; Quan sát  ... 
6.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng 
Các chỉ tiêu định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực như: 
Hệ số lợi thế hiển thị ngành (RCA); Hệ số thương mại rịng (NTR); Hệ số địa phương hóa 
(LQ); Hệ số bảo hộ hiệu dụng (EPR); Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)...




7. Khung nghiên cứu 

Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN 
PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC 

Cơ sở  lý  luận xác định  SP chủ  lực 
và phát triển sản phẩm chủ lực 
­  Lý luận chung về SP chủ lực 
­  Thuyết  lợi  thế  tuyệt đối  (A.Smith) 
và lợi thế so sánh của (D.Ricardo) 

­ Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia 
và Cụm phát triển của M. Porter 

Phương pháp xác định và phát 
triển SP chủ lực 
­ Các tiêu chí đánh giá và thang 
điểm đánh giá xét chọn SP chủ lực 
­ Qui trình xác định SP chủ lực 
­ Các nội dung và ngun tắc cơ 
bản hỗ trợ phát triển SP chủ lực 

Chương 2. THỰC TRẠNG  XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ 
PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL THỜI GIAN QUA 

Đánh  giá  tiềm  năng 
phát  triển  sản  phẩm 
chủ lực ĐBSCL 
­ Vận dụng mơ hình 
kim cương (M.Porter) 
và các lý thuyết đã 
khác trình bày 

Thực  trạng  phát  triển 
sản phẩm chủ lực 
­ Lĩnh vực nông nghiệp 
và thủy sản 
­ Lĩnh vực công nghiệp 
­ Lĩnh vực thương mại 
và dịch vụ 


Thực  trạng  xác  định 
sản phẩm chủ lực 
­  Xây  dựng  tiêu  chí  và 
qui trình xác định 
­  Danh  mục  sản  phẩm 
chủ  lực 
­ Nhận xét, đánh giá 

Chương 3. XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT 
TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL ĐẾN NĂM 2020 

Xây  dựng  Hệ  thống 
tiêu  chí  xác  định  sản 
phẩm chủ lực ĐBSCL 
­Hệ thống tiêu chí 
­Thang điểm và phương 
pháp tính tốn 

Xây  dựng  Danh  mục 
SP chủ lực ĐBSCL 
­ Sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL 2006­2010 
­  Sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL đến năm 2020 

Giải  pháp  triển  sản 
phẩm chủ lực  ĐBSCL 
­ Giải pháp phát triển 
sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL đến 2020



10 

8. Kết cấu chung của luận án 
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo..., Luận án 
được kết cấu thành ba chương: 
Chương 1: Cơ sở khoa học cho  việc xác định sản phẩm chủ lực và phát triển 
sản phẩm chủ lực 
Chương này chủ yếu trình bày các quan điểm, khái niệm, định nghĩa về sản phẩm 
chủ lực; phương pháp xác định hàng sản phẩm chủ lực; và vai trị ý nghĩa của sản phẩm 
chủ  lực  trong  phát  triển  kinh  tế  vùng,  địa  phương;  các  lý  thuyết  có  liên  quan  và  kinh 
nghiêm phát triển sản phẩm chủ lực ở một số quốc gia và địa phương trong nước. 
Chương  2:  Thực  trạng  xác  định  và  phát  triển  sản  phẩm  chủ  lực  Đồng  bằng 
sông Cửu Long thời gian qua 
Chương  này  chủ  yếu  thực  hiện  việc  phân  tích,  đánh  giá  thực  trạng  xác  định  sản 
phẩm và phát triển sản phẩm chủ lực ở ĐBSCL thời gian qua. Đưa ra nhận xét ưu, nhược 
điểm trong việc xác định  sản phẩm chủ lực của các địa phương trong vùng để làm cơ sở 
cho việc tiến hành xác định sản phẩm chủ lực cấp vùng đến năm 2020. 
Chương 3: Xác định sản phẩm chủ lực  và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng 
bằng sơng Cửu Long đến năm 2020 
Chương ba chủ yếu giải quyết 3 vấn đề cơ bản là: xây dựng Hệ thống tiêu chí xác 
định  sản phẩm  chủ lực  ĐBSCL;  đề  xuất  Danh mục  sản phẩm  chủ  lực  ĐBSCL  đến năm 
2020 và đề xuất một số giải pháp chủ  yếu phát triển  sản phẩm  chủ lực của ĐBSCL một 
cách bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 

Chương 1 
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM 
CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC 
1.1. Tổng quan về sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực 

1.1.1. Định nghĩa về sản phẩm chủ lực 
1.1.1.1. Một số quan điểm khác nhau về sản phẩm vụ chủ lực


11 

Q trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới ln gắn liền với sự trỗi dậy 
của những ngành hàng hoặc sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Những ngành hoặc sản phẩm 
này đã trở thành yếu tố dẫn đạo tăng tưởng và phát triển kinh tế của quốc gia hoặc vùng 
lãnh  thổ.  Điển  hình nhất  là Nhật bản,  20 năm  sau  thế  chiến  thứ  2  (1951  –  1973) đã  trở 
thành nền kinh tế lớn của thế giới với GDP tăng trưởng gấp 20 lần. Các sản phẩm được 
xem là thế mạnh cạnh tranh của Nhật giai đoạn này là tàu biển, xe máy, máy khâu, máy 
ảnh, ti vi, thép, ơ tơ, sản phẩm hóa chất, hàng dệt,... Kế đến là Trung Quốc, trong ba thập 
kỷ (từ 1978 đến 2007) với việc chuyển đổi từ nền cơng nghiệp khơng dựa vào lợi thế sang 
nền cơng nghiệp dựa trên lợi thế nguồn nhân cơng dồi dào với các sản phẩm cấp thấp, giá 
rẻ... đã đưa nền  kinh tế Trung quốc tăng trưởng một cách thần kỳ, đạt tốc độ trung bình 
hàng năm 9,5%. Kết quả là từ một nước kém phát triển, Trung quốc đã vươn lên tốp bốn 
nền  kinh  tế  hàng  đầu  thế  giới  (WB,  2007).  Tương  tự,  thông  qua  hai  cuộc  “Cách  mạng 
xanh” với các sản phẩm nơng nghiệp (lương thực, thực phẩm), cơng nghiệp phục vụ nơng 
nghiệp,... Ấn độ đã trở thành hiện tượng đặc biệt trong phát triển kinh tế nhờ vào xác định 
và phát triển các ngành sản phẩm chủ lực phù hợp với lợi thế của mình [48], [49], [53] 
Ở Việt Nam, sản phẩm chủ lực hay sản phẩm cơng nghiệp chủ lực là khái niệm mới 
và thường xuất hiện trong một số văn bản quản lý Nhà nước vào thập niên đầu tiên thế kỷ 
XXI. Lúc đầu, đây chỉ là thuật ngữ dùng để chỉ những sản phẩm có khả năng xuất khẩu 
mạnh, chiếm tỷ trọng kim ngạch cao hoặc có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế của 
đất nước. Gần đây, khái niệm này được sử dụng khá phổ biến và đã trở thành thuật ngữ 
kinh tế quen thuộc khơng những với các nhà quản lý mà cịn với cả các doanh nghiệp và 
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu về sản phẩm chủ lực của mỗi người, mỗi địa phương 
lại có những điểm khác nhau khá rõ rệt. Dưới đây là những điểm khác nhau điển hình khi 
nói về sản phẩm chủ lực. 

v  Thể hiện trong các chủ trương, chính sách nhà nước 
+ Trước hết là khái niệm “sản phẩm chủ lực” của Bộ Khoa học, Cơng nghệ và Mơi 
trường  (nay  là  Bộ  Khoa  học  và  Công  nghệ)  là  sản  phẩm  giúp  gia  tăng  kim  ngạch  và 
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm  chế biến, sản 
phẩm  có hàm  lượng  cơng nghệ  cao,  thúc đẩy  xuất  khẩu dịch  vụ  cũng  như  tạo điều  kiện 
đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất theo phương châm lấy tiết kiệm 
năng lượng, giảm giá thành và nâng cao  chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Quyết định


12 

số: 21/2001/QĐ­bKHcnmt về việc “Ứng dụng cơng nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản 
phẩm xuất khẩu và sẩn phẩm chủ lực”) [1]. 
+ Kế đến là Chương trình "Phát triển các sản phẩm cơng nghiệp chủ lực của Tp Hồ 
Chí Minh giai đoạn 2002­2005" đã giới hạn sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực cơng nghiệp 
với thuật ngữ “sản phẩm cơng nghiệp chủ lực”. Theo Chương trình, những sản phẩm này 
phải có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao 
đối với người sản xuất, đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa và phát triển kinh tế 
của Thành phố. Ngồi ra, sản phẩm cơng nghiệp chủ lực của Tp  Hồ Chí Minh giai đoạn 
2002­2005 phải vừa có tính hiện đại, vừa có tính văn hóa truyền thống; vừa sử dụng nhiều 
ngun liệu trong nước vừa có thương hiệu mạnh và đặc biệt, phải bảo đảm về lao động và 
thân thiện với mơi trường (Quyết định số: 153 /2002/QĐ­UB) [2]. 
+ Một khái niệm khác có thể tham khảo là “sản phẩm cơng nghiệp chủ lực” của Tp 
Hà Nội ghi trong “Qui chế đánh giá, xét chọn sản phẩm cơng nghiệp chủ lực Thành phố 
Hà Nội”, Theo cách mơ tả của Qui chế này thì “sản phẩm chủ lực” đã được giới hạn trong 
phạm vi ngành cơng nghiệp với các đặc trưng cơ bản là: Có sức cạnh tranh trên thị trường 
trong  và ngồi nước;  Được tạo ra  trên dây  chuyền  thiết bị  có  cơng nghệ  ngang  tầm  khu 
vực, phù hợp với trình độ sản xuất và chiến lược phát triển của Thành phố trong từng thời 
kỳ; Đảm bảo năng lực sản xuất và mơi trường bền vững; Tạo ra mức tăng trưởng ổn định 
ở  mức  cao  và  thuộc nhóm sản  phẩm  xuất  khẩu  chủ  lực  với  tỷ  trọng  đóng góp vào  tổng 

GDP cơng nghiệp lớn (Quyết định số 03/2006/QĐ­UB) [17]. 
+  Cùng  một  quan  niệm  với  Tp  Hồ  Chí  Minh  và  Tp  Hà  Nội,  tỉnh  Đồng  Nai  với 
“Chương trình phát triển các sản phẩm cơng nghiệp chủ lực của tỉnh Đồng Nai giai đoạn 
2006­2010” cũng tập trung giới hạn ở “Sản phẩm cơng nghiệp chủ lực” và cho rằng, sản 
phẩm cơng nghiệp chủ lực phải là sản phẩm đóng vai trị then chốt, quyết định đối với việc 
thực  hiện các mục  tiêu, nhiệm  vụ đặt  ra  trong  một  thời kỳ  nhất định.  Đây  là  những  sản 
phẩm  công  nghiệp  chiếm  tỷ trọng  cao  trong cơ  cấu  ngành cơng nghiệp  có  nhịp  độ tăng 
trưởng và tỷ lệ giá trị gia tăng cao, có vị trí chi phối và  ảnh hưởng đến sự phát triển đối 
với  nhiều  sản  phẩm  cơng  nghiệp  khác  cũng  như  có  sức  cạnh  tranh  cao  trên  thị  trường 
trong  nước  và  xuất  khẩu  (Quyết  định  số  955/QĐ­UBND).  Nói  cách  khác,  đối  với  tỉnh 
Đồng Nai thì sản phẩm chủ lực là sản phẩm cơng nghiệp có thế mạnh về giá trị sản lượng 
và giá trị gia tăng; có sức tác động hay lan tỏa đến các sản phẩm cơng nghiệp khác, đồng 
thời có khả năng tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước cũng như ngồi nước [9].


13 

v  Thể hiện trong các bài viết, tác phẩm nghiên cứu 
+ Với GS.TS Võ Thanh Thu, Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh, 
Chun  gia  nghiên  cứu  khu  cơng  nghiệp,  trong  một  bài  viết  của  mình  cũng  đã  sử  dụng 
khái niệm “sản phẩm chủ lực” và cho rằng nó phải có các đặc trưng như: Phải có tương lai 
phát  triển  mạnh  về  cơng  nghệ,  có  khả  năng  cạnh  tranh  trên  thị  trường  quốc  tế  và  trong 
nước; Phải khai thác được lợi thế của địa phương , là đặc trưng cho địa phương; Phải có 
tính lan tỏa, kích thích các ngành khác, sản phẩm khác phát triển; Phải là những mặt hàng 
mang hàm lượng chất xám cao, cũng như có khả năng xuất khẩu cao; Có thể là hữu hình 
hoặc là vơ hình. Ở đây GS.TS Võ  Thanh Thu đã đưa ra thêm 2 điểm khác quan trọng là 
sản phẩm chủ lực phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác và lơi kéo chúng 
cùng phát triển, đồng thời sản phẩm chủ lực khơng chỉ là hữu hình mà cịn có thể là vơ 
hình nữa.
+  Với  TS  Lê Tấn  Bửu,  Trưởng  khoa  Thương  mại­Du  lịch­Marketing,  trường  Đại 

học Kinh tế TP.HCM thì sản phẩm chủ lực phải là sản phẩm trong cơng nghiệp chế biến 
nơng,  thủy  sản  vì  đây  là  thế  mạnh  của  Việt  Nam  mà  trọng  điểm  là  ĐBSCL,  đồng  thời 
chúng cịn là nguồn cung sản phẩm thiết yếu thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho tồn xã hội. 
Như vậy, trong thực tế nghiên cứu cho thấy, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi 
thời  kỳ khác  nhau  việc nhận  thức  về  sản  phẩm  chủ  lực  có  khác nhau.  Chính  từ  sự nhận 
thức khác nhau như vậy mà việc lựa chọn sản phẩm chủ lực và chính sách hỗ trợ phát triển 
sản phẩm chủ lực ở mỗi địa phương thời gian qua cũng có khác nhau. Tuy nhiên, có một 
vấn đề mà mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và mọi thời đại đều thống nhất với nhau chính là 
lợi ích của việc xét chọn sản phẩm chủ lực, đồng thời xem việc tìm ra sản phẩm chủ lực để 
tập  trung  đầu  tư  phát  triển  là  nhiệm  vụ  có  tính  chiến  lược  đối  với  mỗi  quốc  gia,  địa 
phương và vùng lãnh thổ. Chính vì điều này mà trước tiên, Luận án  cần đi đến một nhận 
thức chung, nhất qn về sản phẩm chủ lực. 
1.1.1.2. Nhận thức chung về sản phẩm chủ lực 
Trước  hết,  cần  bắt  đầu  với  thuật  ngữ  “chủ  lực”.  Theo  Từ  điển  tiếng  Việt  thơng 
dụng, Nhà xuất bản Giáo dục 2003 thì đây là lực lượng chính, giữ vị trí nịng cốt và có tác 
dụng  quyết  định. Ứng  với  tiếng  Anh là  “driving  force”  (lực lượng  có tính dẫn đạo) hay 
“main force” (lực lượng chính). Thuật ngữ này được dùng phổ biến trong qn sự để chỉ 
lực  lượng quan trọng nhất  có  ý nghĩa  quyết  định  chiến  trường  như  “quân  chủ  lực”, “bộ 
đội”  chủ lực...Lực lượng  này  được  sử  dụng  khi  cần  giải  quyết  các mục  tiêu  chiến lược,


14 

quyết  định  đến  phạm  vi  toàn  cục.  Đặc  trưng  của  chủ  lực  là  tập  trung  với  số  lượng  lớn, 
được huấn luyện chính qui, chun nghiệp, trang bị hiện đại và có khả năng cơ động tác 
chiến trên diện rộng. 
Vậy sản phẩm chủ lực là gì? Có thể nói, sản phẩm trong Luận án này là khái niệm 
dùng để chỉ sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được thương mại hóa, tức  là sản phẩm hữu 
hình hoặc vơ hình được sản xuất và cung ứng nhằm mục đích thương mại. Khái niệm sản 
phẩm ở đây cịn được mở rộng đến ngành hàng hay một nhóm các sản phẩm có cùng tính 

năng, mục đích sử dụng hay qui trình cơng nghệ sản xuất. Ví dụ, ngành hàng thực phẩm 
chế  biến  có  thịt  đóng  hộp,  cá  đóng  hộp,  thịt  đơng  lạnh,  cá  đơng  lạnh...,  ngành  hóa  mỹ 
phẩm có bột giặt, nước xả, chất tẩy rửa gia dụng, mỹ phẩm....Khi tham khảo các tài liệu 
tiếng Anh, tác giả thường thấy xuất hiện các từ hoặc cụm từ có thể được xem là tương ứng 
với  sản phẩm  chủ  lực  hay  ngành hàng  chủ lực  như:  key products, main products, major 
products  hoặc key sectors, main sectors. 
­ Main products: Là sản phẩm chính, sản phẩm chủ yếu của một cơng ty, giữ vị trí 
chủ yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh doanh nghiệp. Ví dụ main 
products của Seaprodex gồm: Fresh (cá tươi), Frozen (đơng lạnh), Processed (chiến biến), 
Canned (đóng hộp)... 
­ Key products: Sản phẩm chủ yếu của cơng ty. Ví dụ sản phẩm chủ  yếu của Cơng 
ty TNHH điện tử Nam Phương gồm có: Design and install all of Distributor Board (Thiết 
kế và cài  đặt tất  cả  các bảng  phân  phối  điện),  Control  Board  (Bảng  kiểm  soát  điện), 
Electric  Box  (Hộp  điện), Capacitor  Bank  medium  and  low  Voltage  (Tụ  bù  trung  áp  và 
thấp áp)…. 
­ Major Products: Sản phẩm chính của cơng ty, doanh nghiệp hay quốc gia. Ví dụ 
sản  phẩm  chính  của  Sumikin  Bussan  Special  Steel  Co.,  Ltd  là:  Tubes  and  Pipes  (ống 
nước, ống kết  cấu cho xe ô  tô,  máy  móc  và ống  thép đặc  biệt cho  các nhà máy hóa dầu); 
Steel Sheets and Plates (thép tấm); Construction Materials (thép xây dựng); Bar and Wire 
Rods (thanh thẳng, thanh cuộn) và Raw Materials (thép ngun liệu thơ). Hay sản phẩm 
chính của Nhật: Xe máy, Xe hơi, Thiết bị điện và Máy vi tính…Trong đó, xe gắn máy với 
nhãn hiệu Honda, Suzuki, Yamha hay xe hơi với nhãn hiệu Toyota hoặc thiết bị điện tử, 
điện lạnh của Sony… là biểu tượng, là nét văn hóa của nước Nhật xưa và nay. 
­ Key sectors: Ngành hàng hoặc lĩnh vực sản xuất quan trọng, chủ yếu của một địa 
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Ví dụ, để qui hoạch phát triển Ấn Độ đã xác định có


15 

các key sectors như: Agriculture (Nơng nghiệp); Commerce & Industries (Cơng nghiệp và 

thương mại); Finance (Tài chính); Communication & IT (Cơng nghệ thơng tin và truyền 
thơng); Education (Giáo dục); Health & Family welfare (Y tế và phúc lợi gia đình).... 
Từ những  kết  quả phân tích đã  trình bày ở phần  trên,  có  thể nhận diện  sản phẩm 
chủ  lực  thơng qua định  nghĩa như  sau:  “Sản  phẩm  chủ  lực  là  sản  phẩm hàng hóa  hoặc 
dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn  và năng lực cạnh 
tranh cao; là trung tâm lan tỏa, lơi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển; đồng thời 
nó  cịn  có  thể là  sản phẩm  thể hiện  tính đặc  thù riêng,  mang  ý nghĩa  văn hóa  của  một 
quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ” 1 . 
1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm chủ lực 
Từ sự nhận thức như đã trình bày ở phần trên, có thể rút ra năm đặc trưng cơ bản 
của sản phẩm chủ lực như sau: 
1) Sản phẩm có qui mơ khối lượng lớn và tính đồng nhất cao 
Một sản phẩm muốn trở thành chủ lực trước tiên phải là sản phẩm được sản xuất ra 
để trao đổi mua bán với khối lượng lớn và đạt được độ đồng nhất cao. Nói cách khác, hàng 
hóa chủ lực phải được sản xuất theo qui mơ tập trung, cơng nghiệp với cơng nghệ tiên tiến 
nên có thể đảm bảo được khối lượng cung ứng lớn cho thị trường đồng thời chất lượng, 
mẫu mã  kiểu dáng  và  các tính năng  khác phải  giống nhau  giữa  các  cá  thể.  Rõ  ràng,  sản 
phẩm khơng thể trở thành chủ lực nếu chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún với phương pháp thủ 
cơng, mang tính cá biệt cao. Bởi, nếu như vậy khơng thể có được thị trường rộng lớn, mãi 
lực yếu, sức cạnh tranh khơng cao. 
2) Sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế 
Sản phẩm chủ lực phải là những sản phẩm đảm bảo các u cầu về mặt chất lượng, 
thiết  kế  kỹ  thuật, mẫu mã, kiểu dáng…theo  tiêu  chuẩn quốc  tế;  có  khả năng tiêu thụ  tốt 
khơng những trên thị trường trong nước mà cịn xuất khẩu, đồng thời ln chiếm được ưu 
thế cạnh tranh trước các đối thủ quốc tế khác. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng 
sâu rộng, mơi trường cạnh tranh khơng cịn đơn giản với khơng gian nhỏ hẹp trong nước 
mà cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh mang tính tồn cầu với nhiều phương thức phức tạp. 
Do vậy, một sản phẩm trở thành chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có được năng lực 
cạnh tranh tốt trên phạm vi quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững. 
3) Sản phẩm có sức lan tỏa mạnh 



Tác giả tổng hợp và chọn lọc từ các định nghĩa trong nhiều tài liệu đã có


16 

Có thể nói, sản phẩm chủ lực là những sản phẩm có sự liên hệ mật thiết với nhiều 
ngành hàng hay sản phẩm khác, ảnh hưởng trực tiếp lên các sản phẩm, ngành hàng khác 
và lơi kéo chúng cùng phát triển theo. Mặt khác, q trình phát triển của sản phẩm chủ lực 
cũng thường xun chịu sự tác động bởi các ngành hàng hoặc sản phẩm khác. Sự liên hệ 
này được thể hiện thơng qua các mối liên hệ chuỗi giá trị (sự kết nối liên tiếp về mặt cơng 
nghệ trong q trình sản xuất ra sản phẩm) hoặc các mối liên hệ bổ trợ (mối liên hệ tương 
hỗ tạo ra điều kiện thuận lợi cho q trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm). Với tính chất 
lan tỏa như vậy, thực tế cho thấy khi sản phẩm chủ lực phát triển sẽ tạo ra nhu cầu hỗ trợ, 
nhu cầu liên kết…từ đó kích thích, lơi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển theo. 
4) Sản phẩm mang tính đặc thù của quốc gia, vùng lãnh thổ 
Một  sản  phẩm  chủ  lực  cịn  là  sản  phẩm  thể  hiện  lợi  thế  đặc  trưng  của  quốc  gia, 
vùng lãnh thổ mà khơng nơi nào khác có thể sánh kịp. Người tiêu dùng bỏ tiền mua sản 
phẩm ấy chính bởi những giá trị đặc trưng mà họ thấy được từ sản phẩm, đồng thời đối thủ 
cạnh tranh khó lịng bắt chước vì thiếu những điều kiện mang tính  lợi thế cạnh tranh của 
quốc  gia hay  vùng  lãnh  thổ  (vị  trí địa  lý,  tài ngun  thiên nhiên,  lao động…).  Ngồi  ra, 
nhiều  sản phẩm chủ lực cịn là  biểu tượng văn hóa của quốc gia  hay vùng lãnh thổ, góp 
phần tạo nên thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế. 
5) Sản phẩm có tính an tồn và thân thiện với mơi trường 
Sản phẩm chủ lực nhất thiết phải là sản phẩm mà trong q trình khai thác ngun 
liệu, sản xuất, tồn tại, sử dụng và sau khi thải bỏ  khơng gây hại hoặc ít gây hại hơn cho 
mơi trường so với sản phẩm cùng loại và được các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc 
quốc tế cơng nhận. Hoặc, sản phẩm được tạo ra có khả năng thay thế cho các ngun liệu 
tự nhiên mà trong q trình tồn tại, sử dụng hoặc sau khi thải bỏ gây hại ít hơn cho mơi 

trường so với sản phẩm được thay thế. 
1.1.1.4. Điểm khác cơ bản của khái niệm sản phẩm chủ lực trong Luận án 
Có thể thấy, về cơ bản Luận án đã kế thừa có chọn lọc các khái niệm mà các tài liệu 
trước đây đưa ra. Tuy nhiên, nếu xét ở phạm vi nội dung và ý nghĩa cũng như so sánh với 
từng tài liệu riêng rẻ thì Luận án đã đưa ra nhiều điểm mới. 
Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa Luận án với các tài liệu về sản phẩm chủ lực 
Khái niệm trong Luận án 

Các khái niệm trước đây


17 

Nêu  bật  mục  đích  chính  của  sản  phẩm  Chỉ  cho  biết  sản  phẩm  nói  chung  chứ  chưa 
được  tạo  ra  là  để  trao  đổi  mua  bán,  đặc  thể hiện rõ mục đích tạo ra là để trao đổi mua 
biệt là mua bán quốc tế. 

bán, nhất là mua bán quốc tế. 

Xác định rõ sản phẩm của vùng, miền dựa  Xác định sản phẩm của địa phương, dựa vào 
trên  tiềm  năng,  lợi  thế  chung  của  vùng,  điều kiện sản xuất đặc thù của địa phương và 
miền quyết định một cách khách quan. 

do doanh nghiệp quyết định theo chủ quan 

Bao  gồm  cả  sản phẩm  công nghiệp, nông  Thường  chỉ  đề  cập  chủ  yếu  đến  sản  phẩm 
nghiệp ­ thủy sản và dịch vụ 

cơng nghiệp, hoặc nơng nghiệp 


Sản phẩm vừa giữ vị trí chủ yếu tạo ra giá  Chú  trọng  đến  khía  cạnh  tạo  ra  giá  trị  sản 
trị sản lượng vừa là trung tâm lan tỏa đến  lượng,  tốc  độ  tăng  trưởng,  hiệu  quả...  riêng 
các ngành nghề khác 

của sản phẩm chủ lực mà thôi. 

Sản  phẩm  không  những  mang  giá  trị  vật  Chỉ chú trọng đến việc nhấn mạnh giá trị vật 
chất, giá trị kinh tế mà nó cịn mang cả giá  chất, giá trị kinh tế mà thơi 
trị phi vật thể: nhân văn, văn hóa… 
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng 
1.1.2. Ý nghĩa của việc xác định sản phẩm chủ lực 
Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh 
thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể: 
1)  Xác định  đúng  sản phẩm chủ  lực đồng nghĩa  với  việc  xác  định  được  năng  lực 
cạnh  tranh  cốt  lõi  của  quốc  gia,  vùng  lãnh  thổ…,  để  từ  đó  có  chính  sách  đầu  tư  đúng 
hướng, tập trung và có chiều sâu. 
Xác định đúng sản phẩm chủ lực là cơ sở để tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu 
tư  phát  triển  một  cách  có  trọng  tâm,  trọng  điểm  và  theo  chiều  sâu  trên  cơ  sở  lợi  thế  so 
sánh, khơng dàn trải làm lãng phí vốn đầu tư. Qua đó, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng 
suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh cho từng loại sản phẩm và qua 
đó  tạo mơi trường  thuận lợi cho sản xuất phát triển, đảm bảo cho những sản phẩm được 
chọn có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào q trình phát triển kinh tế ­ 
xã hội của địa phương và hội nhập kinh tế quốc tế.


18 

2) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa xác định đúng trung tâm lan tỏa, 
nguồn phát tác hấp lực từ tập trung chun mơn hóa – hiện đại hóa sản xuất và cung ứng, 
có tác động lơi  kéo các ngành nghề liên quan, dịch vụ bổ trợ phát triển. 

Xác định đúng sản phẩm chủ lực nghĩa là đã xem xét một cách đầy đủ  các ngành 
nghề có liên quan trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khi tập trung đầu tư phát triển một 
ngành hàng chủ lực nào đó sẽ đồng thời phải đầu tư cho các ngành có liên quan khác làm 
cho chúng có điều kiện phát triển theo. Ngược lại, cũng thơng qua q trình xem xét này, 
có  thể  xác  định  được  những  ngành  nào  có  khả  năng  lan  tỏa  đến  nó  để  có  chính  sách 
khuyến khích đầu tư và qui hoạch phát triển một cách tương ứng và đồng bộ. 
3) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng đồng nghĩa với việc định vị đúng nền kinh 
tế trong chiến lược cạnh tranh tồn cầu. 
Sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương thể hiện đẳng cấp, 
thực trạng và tương lai phát triển kinh tế của quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đó. 
Căn cứ vào định vị này, các quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đẩy mạnh chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp và hiệu quả nhất, nhằm góp phần giải quyết các bất ổn 
kinh tế vĩ mơ và đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững. 
4)  Xác  định  đúng  sản  phẩm  chủ  lực  cũng  có  nghĩa  là  xác  định  đúng  đối  tượng 
khách hàng và  thị  trường  tiêu  thụ để  tăng  cường áp  dụng  các hệ  thống quản  lý  và thực 
hành chất lượng phù hợp. 
Để đối mặt với sự cạnh tranh mang tính quốc tế, các doanh nghiệp phải tạo ra được 
những sản phẩm bảo đảm chất lượng, thương hiệu và uy tín, được khách hàng ưa chuộng. 
Muốn vậy, các nhà sản xuất phải đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và cơng nghệ sản xuất 
tiên tiến, hiện đại cũng như áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng một cách tồn 
diện theo chuẩn quốc tế, đáp ứng với những địi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. 
1.1.3. Một số lý thuyết liên quan đến xác định và phát triển sản phẩm chủ lực 
1.1.3.1. Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723­1790) 
Adam  Smith được  coi  là  cha đẻ  của kinh  tế học hiện đại.  Tác phẩm  lớn nhất  của 
ơng là 'The Wealth of Nations' xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ơng nhấn mạnh lợi ích của 
chun mơn hố và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản hồi qua hệ thống giá. 
Có lẽ tư tưởng gắn liền với ơng là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage). Trong 
mơ hình kinh tế cổ điển, các nhà học giả cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi 
nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, khơng đảm



19 

bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ khơng sản xuất nữa. Trong điều kiện đó, 
A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngồi với giá 
rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi 
thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương. 
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí 
nguồn lực để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Khi một nước sản xuất sản phảm có chi 
phí cao hơn (do hạn chế về nguồn lực) có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí 
sản xuất thấp hơn (do có ưu thế về nguồn lực). Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối 
với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi 
bán trên thị trường quốc tế. Cịn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao 
sẽ có được sản phẩm mà trong nước khơng có khả năng sản xuất hoặc sản xuất khơng đem 
lại hiệu quả. Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước. 
Ngày  nay,  đối  với  các  nước  đang  phát  triển  như  Việt  Nam  việc  khai  thác  lợi  thế 
tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm, 
đặc biệt là cơng nghệ sản xuất với chi phí chấp nhận được mà phải nhập khẩu cơng nghệ. 
Khi nhập  cơng nghệ  sản  xuất,  lao động  trong  nước  sẽ học  được  cách  sử dụng máy móc 
thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này, 
vai trị đóng góp của ngoại thương giữa các nước cơng nghiệp phát triển  (có lợi thế tuyệt 
đối về cơng nghệ) và các nước đang phát triển  (có lợi thế  tuyệt đối về nguồn lực) thơng 
qua  bù đắp  sự  yếu  kém  về  khả  năng  sản  xuất tư  liệu sản  xuất  và  yếu  kém về  kiến thức 
cơng nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối [55]. 
1.1.3.2. Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1772­1823) 
Học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các 
quốc gia dựa trên nền tảng học thuyết về giá trị lao động. Theo học thuyết này thì ngoại 
thương  có  lợi  cho  mọi  quốc  gia  miễn  là  xác  định  đúng  lợi  thế  so  sánh.  Nghĩa  là  việc 
chun mơn hóa của mỗi nước phải dựa trên lợi thế khi đối chiếu so sánh hao phí lao động 
cho mỗi đơn vị sản phẩm giữa các quốc gia. Muốn xác định lợi thế so sánh ta phải xác lập 

lợi thế tuyệt đối. Tồn bộ phân tích của D. Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự 
khác  nhau  giữa  các  nước  trong cơng  nghệ sản  xuất  dẫn  đến năng  suất vật  chất  và  địi 
hỏi lao động đơn vị khác nhau. 
Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng cơng 
nghệ  như  nhau:  các  nước  phát  triển có  cung  về tư  bản nhiều  hơn các  nước  đang  phát


20 

triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân cơng lớn hơn. Ngược lại số nhân cơng trên 
một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy 
giá th tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá th nhân cơng; ngược lại 
ở các nước đang phát triển giá th nhân cơng lại rẻ hơn tương đối so với giá th tư bản. 
Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá th tư bản cịn các nước 
đang phát triển có lợi thế so sánh về giá th nhân cơng. 
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế 
so sánh cao một cách  tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có 
lợi  thế  so  sánh  về  những hàng  hóa này.  Điều  này  lý  giải  vì  sao Việt  Nam lại xuất 
khẩu nhiều  sản  phẩm  thô  hoặc  sơ  chế  như  dầu  thô, than  đá,  thủy  sản  đơng  lạnh...  hoặc 
hàng hóa có hàm lượng nhân cơng cao như dệt may, giày dép... cịn nhập khẩu máy móc, 
thiết bị từ các nước phát triển [3]. 
1.1.3.3. Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal E. Porter (1772­1823) 
Michael E. Porter là người đã đưa ra mơn học về chiến lược cạnh tranh và mơ hình 
phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ơng đã xuất bản ba cuốn sách nổi tiếng 
thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo MBA của các nước. Đó là 
cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và 
cuốn  ''Lợi  thế  cạnh  tranh  quốc  gia”  vào  năm  1990.  Trong  tác  phẩm  Lợi  thế  cạnh  tranh 
quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh 
vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mơ hình “Kim cương”. Theo Porter 
thì khơng một quốc gia nào có được khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết 

các ngành mà chỉ có thể thành cơng trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi 
thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Theo ơng, khả năng cạnh tranh của 
một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành 
của  quốc  gia  đó. Khi nền  tảng  của  cạnh  tranh  càng  chuyển  dịch sang  sự  sáng  tạo  và  tri 
thức mới  thì vai  trị  của quốc  gia càng  tăng lên. M.  Porter  cho  rằng  các nền  kinh  tế đều 
phải trải qua 3 giai đoạn phát triển cạnh tranh, đó là: cạnh tranh dựa vào yếu tố sản xuất, 
cạnh  tranh dựa vào đầu tư, cạnh tranh dựa vào đổi mới và sáng tạo. Các giai đoạn cạnh 
tranh phản ánh nguồn lợi thế đặc trưng, bản chất và quy mơ của những ngành phải đối mặt 
với cạnh tranh quốc tế. 
Việc phân chia các giai đoạn cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối và các quốc 
gia hay các địa phương khơng nhất thiết phải đi qua tất cả các giai đoạn, nhưng việc xác


21 

định được một nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào sẽ là cơ sở để chính quyền địa 
phương hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phù hợp để 
sử dụng hiệu quả nguồn lực, nâng cao năng suất và vị thế cạnh tranh. 
Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển cạnh tranh của Porter 
Nền kinh tế định 
hướng yếu tố 

Nền kinh tế định 
hướng đầu tư 

Nền kinh tế định 
hướng sáng tạo 

Hiệu quả nhờ 
chi phí đầu vào 


Hiệu quả nhờ 
đầu tư mạnh 

Hiệu quả nhờ 
đổi mới

Nguồn: Porter (1990) 
Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thơng qua q trình địa phương hóa cao 
độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên 
ưu  thế  quyết  định  sự  thành  cơng  trong  cạnh  tranh.  Các  quốc  gia  thành  cơng  ở  một  số 
ngành trên thị trường tồn cầu vì mơi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong 
và nhiều sức ép nhất. Các cơng ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ 
việc có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, 
nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành 
phụ trợ. Như vậy, lợi thế cạnh tranh có thể hiểu là lợi thế về nguồn lực, cơ hội hoặc điều 
kiện tự nhiên... mà một doanh nghiệp, ngành, quốc gia hay vùng lãnh thổ có thể tạo ra một 
số ưu thế vượt trội về sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc tế 
giúp  cho  các  doanh  nghiệp  có  được  “Quyền  lực  thị  trường”  để  thành  công  trong  kinh 
doanh  quốc tế.  Theo  Michael.E Porter,  lợi  thế  cạnh  tranh  của quốc  gia,  địa phương hay 
vùng lãnh thổ có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngành và sản phẩm. 
Một quốc gia, vùng lãnh thổ có lợi thế cạnh tranh  tốt sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các 
ngành và doanh nghiệp thơng qua việc sản xuất và cung ứng những sản phẩm ưu việt hơn 
so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Ơng cho rằng, bí quyết mà một quốc gia gặt hái 
được sự thành cơng quốc tế trong một ngành nhất định nằm trong bốn thuộc tính lớn của 
một  quốc  gia.  Bốn  thuộc  tính  này  định  hình  nên  mơi  trường  cạnh  tranh  của  các  doanh 
nghiệp trong nước, thúc đẩy hay kìm hãm việc tạo lập lợi thế cạnh tranh và được coi là các 
yếu tố quyết định của mơ hình, là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu, 



22 

các ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, 
Ơng  cịn  đưa ra  thêm 2  yếu  tố bổ  sung là  vai  trị  của nhà nước  và  yếu  tố thời  cơ.  (Xem 
Michael E. Porter, 2008) [21]. 
Hình 1.2  Mơ hình Kim cương trong năng lực cạnh tranh của M. Porter 
SỰ 
NGẪU 
NHIÊN 

CHIẾN LƯỢC 
CƠNG TY, CẤU 
TRÚC VÀ CẠNH 
TRANH NỘI ĐỊA 

ĐIỀU KIỆN 
YẾU TỐ SẢN 
XUẤT 

CÁC ĐIỀU 
KIỆN VỀ 
CẦU 

CÁC NGÀNH 
CƠNG NGHIỆP 
PHỤ TRỢ VÀ CĨ 
LIÊN QUAN 

CHÍNH 
PHỦ


Nguồn: Lợi thế cạng tranh quốc gia của Michael M. Porter 
Qua mơ hình  kim  cương,  Michael  M. Porter đưa ra 4  yếu  tố  quyết  định  năng  lực 
cạnh tranh và 2 yếu tố chi phối các yếu tố quyết định của một ngành bao gồm: 
v  Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành: 
+  Chiến  lược  công  ty,  cấu  trúc  và  cạnh  tranh  nội  địa.  Những  điều  kiện  kinh  tế, 
chính trị xã hội của một quốc gia ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ chức và quản lý doanh 
nghiệp cũng như đặc tính của cạnh tranh trong nước. 
+  Các  điều kiện  về  phía  cầu.  Thị  trường  trong  nước  với  số  cầu  lớn và  có những 
khách hàng địi hỏi cao và những cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ tạo ra khả năng 
cạnh tranh cao hơn cho doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 
+ Điều kiện về các yếu tố sản xuất. Bao gồm chất lượng lao động, vốn rẻ, cơ sở hạ 
tầng mạnh và cơng nghệ cao trong khu vực hay quốc gia sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh 
của ngành, của khu vực và của cả quốc gia. 
+ Các ngành cơng nghiệp hỗ trợ và liên quan. Năng lực cạnh tranh của một ngành 
phụ thuộc vào các nhà cung cấp các hàng hố và các dịch vụ hỗ trợ. 


23 

v  Các yếu tố chi phối các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành: 
+  Vai  trị  của  chính phủ.  Chính phủ  có  thể tác động  tới năng  lực  cạnh  tranh  của 
ngành thơng qua cả 4 nhóm nhân tố: điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về cầu; các 
ngành cơng nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của 
ngành. Các tác động của chính phủ có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
·  Đối với các yếu tố sản xuất và các ngành hỗ trợ và liên quan; chính phủ có 
thể tác động thơng qua chính sách thuế, vốn, trợ cấp, quy hoạch phát triển ngành,…
·  Đối với nhu cầu trong nước, chính phủ tác động bằng những quy định mang 
tính chất định hướng nhu cầu như quy định tiêu chuẩn đối với từng mặt hàng trong ngành, 
các biện pháp kích thích hoặc kiềm hãm nhu cầu đối với một loại sản phẩm nhất định.

·  Đối với cơ cấu và mơi trường cạnh tranh, sự tác động của chính phủ thể hiện 
thơng qua những quy định về thị trường tín dụng, chính sách thuế và các quy định về cạnh 
tranh trong sản xuất, kinh doanh của ngành hàng cụ thể. 
+ Sự ngẫu nhiên hay vai trị của cơ hội. Cơ hội là những sự kiện xảy ra ít liên quan 
đến tình trạng sản xuất, kinh doanh hiện tại của ngành hàng nào đó tại quốc gia. Những cơ 
hội có thể đến với mặt hàng có thể là: những cuộc khủng hoảng  kinh tế,  thiên tai, chiến 
tranh ở các quốc gia, khu vực trên thế giới; sự tiến bộ về cơng nghệ sinh học; sự bãi bỏ các 
hàng  rào  thuế  quan  hay  phi  thuế  quan  của  chính  phủ  các  nước  đối  với  mặt  hàng  nào 
đó…làm nhu cầu ở những nơi này tăng lên, đẩy giá cả thế giới lên cao hay ngược lại. 
Hiện nay, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang đứng trước những 
cơ hội và thách thức lớn khi hội nhập nền kinh tế tồn cầu. Làm thế nào để tận dụng tốt 
thời cơ cũng như có biện pháp ngăn chặn những tác động tiêu cực từ hội nhập là một câu 
hỏi mà các quốc gia đều quan tâm. Câu trả lời là: mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ  cần phải 
phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình trong mối tương quan với nền kinh tế thế giới. 
1.1.3.4  Thuyết cụm phát triển của Michael E. Porter 
Được  phát  triển  bởi  M.  Porter  (1990),  lý  thuyết  cụm  được  sử  dụng  một  các  phổ 
biến trong việc hoạch định các chính sách cơng cộng và kinh tế. Cụm được tạo thành khi 
các lợi thế cạnh tranh kéo theo sự gia tăng, sự bố trí lại, sự phát triển các ngành, sản phẩm 
tương  tự  vào  trong một  vùng  nhằm  tăng  khả năng  cạnh  tranh  bằng  việc  tăng năng  suất, 
khuyến khích các cơng ty mới cải tiến, thậm chí giữa các đối thủ cạnh tranh, tạo ra những 
cơ hội cho các hoạt động kinh doanh. “Cụm là sự tập trung về vị trí địa lý của các ngành 
sản xuất, dịch vụ nhằm  tận dụng các cơ hội qua liên kết địa lý” (Chritian Ketels, 2003).


24 

Các cơng ty thành viên của cụm sẽ chia sẻ các u cầu và các mối quan hệ bên trong với 
nhà cung cấp và khách hàng. Các mối quan hệ bên trong cơng ty u cầu các dịch vụ bổ 
sung từ các nhà tư vấn, đào tạo và huấn luyện, các tổ chức tài chính, các cơng ty chủ chốt. 
Cụm sẽ tạo ra lực lượng lao động, hàng hố xuất khẩu và dịch vụ chất lượng cao, kết nối 

quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu, các quỹ 
hỗ trợ và các bên hữu quan [47], [50], [51]. 
Ban  đầu,  Porter  cung  cấp  các  ngun  lý  cụm  cho  các  cụm  quốc  gia  và  quốc  tế 
nhưng  sau  đó đã  nhận  ra sự  thích  hợp  cho  các cụm  vùng  kinh  tế  trong nội bộ quốc gia. 
Một cụm giống như chuỗi giá trị trong sản xuất hàng hố, dịch vụ, trong đó các ngành sản 
xuất được liên kết với nhau bởi dịng hàng hố và dịch vụ mạnh hơn dịng liên kết chúng 
với phần cịn lại của nền kinh tế. Các quan hệ trong cụm được phân thành 3 loại: 
(1)  quan hệ  mua  ­  bán  bởi  sự  tập  trung  và  hội  nhập  dọc  giữa  q  trình  sản  xuất 
chính với các đầu vào và phân phối hàng hố và dịch vụ; 
(2) quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh và các đối tác nhằm khai thác thơng tin về 
sản phẩm và qui trình, mở rộng sự cải tiến và các liên kết chiến lược; và 
(3) quan hệ giữa thị phần và nguồn tài ngun bằng sự chia sẻ cơng nghệ, lực lượng 
lao động và thơng tin. 
Việc sử dụng khái niệm cụm như là cơng cụ để hiểu được q trình phát triển sản 
phẩm chủ lực ở cấp độ vùng và sự ảnh hưởng của nó đến việc định dạng và chuyển giao 
chính sách phát triển cụm và phát triển kinh tế vùng. Ở cấp vùng, các chính sách phát triển 
cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn với các chiến lược phát triển địa 
phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về ngun tắc được sử dụng như là cơng 
cụ phát triển về ngành sản phẩm và khơng gian liên kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. 
1.1.3.5 Phát triển bền vững sản phẩm chủ lực 
Năm 1980, lần đầu tiên trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (được Hiệp hội 
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài ngun Thiên nhiên Quốc tế ­ IUCN cơng bố), thuật ngữ "phát 
triển bền vững" xuất hiện với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại khơng 
thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã 
hội và sự tác động đến mơi trường sinh thái học". Đến năm 1987, khái niệm này được phổ 
biến  rộng  rãi thơng  qua  nội  dung  của Báo  cáo  Brundtland (cịn  gọi  là  Báo  cáo Our 
Common Future) của Ủy ban Mơi trường và Phát triển Thế giới ­ WCED (nay là Ủy ban 
Brundtland).  Theo báo  cáo này  thì  phát  triển bền  vững  là "sự phát triển  có  thể đáp  ứng



25 

được những nhu cầu hiện tại mà khơng ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng 
nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm hài 
hịa giữa phát triển kinh tế hiệu quả với xã hội cơng bằng và mơi trường được bảo vệ. Để 
đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế ­ xã hội, nhà quản lý, các tổ chức xã hội... 
phải  bắt  tay  nhau  thực  hiện  nhằm  mục  đích  dung  hịa  3  lĩnh  vực  chính:  kinh  tế ­ xã 
hội và mơi trường. 
Sản phẩm chủ lực và sự phát triển bền vững 
Q trình tồn cầu hóa đi đơi với tự do hóa thương mại phát triển nhanh chóng nhờ 
sự thúc đẩy bởi các tiến bộ của khoa học và cơng nghệ, đã làm thay đổi quan trọng diện 
mạo của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội ở tất cả các nước. Q trình này đã mang đến 
nhiều cơ hội cũng như thách thức mới với nguy cơ phát triển thiếu bền vững. Do vậy, việc 
phát triển sản phẩm chủ lực nhất thiết phải cân nhắc đến tính bền vững, lâu dài của chúng 
và đặt trong mối quan hệ tam giác “triple bottom line”, với 3 cạnh nối các đỉnh: kinh tế, xã 
hội và mơi trường. 
Hình 1.3  Quan hệ giữa Con người – Tài ngun – Lợi nhuận với Sản phẩm 

CON 
NGƯỜI 

Nguồn: Theo thiết kế sản phẩm 
1)  Liên  quan 
người: Phát triển sản 
đáp  ứng  các  yêu  cầu 

SẢN 
PHẨM 
CHỦ LỰC 


hướng tới phát triển bền vững 
TÀI 
NGUYÊN 

LỢI 
NHUẬN 

về  xã  hội  và 

đến  yếu  tố  Con 
phẩm  chủ  lực  phải 
cơng bằng. 

Phát triển sản phẩm chủ lực sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động ở


×