Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Skkn kinh nghiệm trong việc hướng dẫn học sinh lớp 7 viết đoạn văn nghị luận chứng minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.21 KB, 33 trang )

PHẦN I
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong khi nói hoặc viết ta không thể thuyết phục người khác nếu ta không
chứng minh được điều ta nói là có lí, là đúng, là xác đáng…Do vậy, chứng minh
là một thao tác nghị luận khơng thể thiếu trong bất kì hệ thống lập luận nào: dù
phát biểu cảm nghĩ hay phân tích, dù giải thích hay bình luận thì trong các kiều
bài ấy vẫn có chứng minh. Với tư cách là một kĩ năng quan trọng, kiểu bài nghị
luận chứng minh có thể coi là kiểu bài cơ sở để học sinh làm tốt các kiểu bài
nghị luận khác. Chứng minh còn là kiểu bài để rèn luyện và phát huy khả năng
trình bày rõ ràng, mạch lạc, thuyết phục một vấn đề trong cuộc sống của học
sinh. Vậy mà, cũng như các kiểu bài Tập làm văn khác, văn nghị luận chứng
minh khơng được học sinh u thích cho lắm. Tập làm văn nói chung và văn
nghị luận nói riêng đã và đang là môn học đáng ngại nhất đối với đa số học sinh.
Có thể nói một cách khách quan, kiểu bài nghị luận nói chung và kiểu bài
nghị luận chứng minh nói riêng là khó đối với học sinh THCS, nhất là đối với
học sinh lớp 7. Có rất nhiều lý do, theo tôi là lý do những năm học tiểu học, học
lớp 6 các em đang quen với kiểu văn sáng tác, kể chuyện, biểu cảm... và phải
chăng cũng có một lí do nữa là ở cách dạy của giáo viên: yêu cầu các em phải
nắm được quá nhiều khái niệm, yêu cầu, chú ý, ghi nhớ…làm cho các em thấy
kiểu bài này thật xa lạ và rắc rối. Vậy làm thế nào để học sinh có thể viết được
một bài văn chứng minh đúng và hay? Câu hỏi đó ln làm tơi trăn trở mỗi khi
giảng dạy kiểu bài nghị luận chứng minh. Để có được một bài văn chứng minh
hoàn chỉnh, học sinh được luyện từng kỹ năng với những thao tác cụ thể. Muốn
vậy cần có một hệ thống bài tập tốt vừa sức, từ đơn giản đến khó. Qua những bài
cụ thể ấy, các em sẽ hiểu rõ hơn mình cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt
yêu cầu. Tất nhiên, cái đích của các em vẫn là viết một bài văn nghị luận chứng
minh hoàn chỉnh. Song thiết nghĩ các em đã được luyện có kỹ năng viết đoạn

Trang 1

skkn




văn chứng minh đủ, đúng và hay thì con đường đi đến cái đích ấy khơng mấy
khó khăn.
Từ những suy nghĩ trăn trở đó, tơi mạnh dạn trình bày một số kinh
nghiệm nhỏ của mình trong việc dạy kiểu bài nghị luận chứng minh với đề tài
"Kinh nghiệm trong việc hướng dẫn học sinh lớp 7 viết đoạn văn nghị luận
chứng minh”. Với việc áp dụng phương pháp này tôi đã đạt được kết quả khả
quan hơn so với 2 năm trước đây. Song đề tài mang tính chất phương pháp cá
nhân nên khơng tránh khỏi sai sót, tơi rất mong nhận được sự góp ý của đồng
nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.

Trang 2

skkn


PHẦN II
PHẦN NỘI DUNG
A. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu và cơ sở để xây dựng hệ thống bài tập

I. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 7G trường THCS Thái Thịnh năm học 2014-2015.
II. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp hệ thống.
-Phương pháp đối sánh giữa thực tiễn dạy- học với lý luận dạy học.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp tích hợp, phối hợp với các phân môn, môn học khác.
- Phương pháp thuyết minh…
III. Cơ sở để xây dựng hệ thống bài tập

1. Cơ sở lí luận
- Trong các phân mơn của bộ mơn Ngữ văn, Tập làm văn có vị trí đặc biệt
trong quá trình học tập và thi cử. Dạy Văn và tiếng Việt là khó, dạy Tập làm văn
lại có những cái khó riêng. Bởi vì, hơn bất cứ phân mơn nào, ở đây giáo viên
phải đặc biệt coi trọng chủ thể trò, giữ đúng vai trò người hướng dẫn, điều chỉnh
để hoạt động tư duy và kỹ năng thực hành của học sinh đi đúng hướng nhằm
tiến tới viết (hoặc nói) được văn bản quy định trong chương trình.
Để đảm bảo tính thực hành giáo viên có nhiều hình thức tổ chức hoạt
động cho học sinh với nhiều dạng bài tập và có khơng ít những biện pháp thúc
đẩy hoạt động tích cực của học sinh. Chẳng hạn: từ quan sát, bắt chước, nhận
biết đến sáng tạo. Trong sáng tạo cũng từ sáng tạo bộ phận đến sáng tạo toàn
thể. Dù xây dựng hệ thống bài tập nào cũng luôn nắm vững nguyên tắc: từ bài
tập dẫn học sinh rút ra phương pháp làm bài tập làm văn, dùng bài tập để luyện
kỹ năng cụ thể.
Để có thể làm được một bài văn hoàn chỉnh, học sinh cần luyện cách tìm
hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn, trong đó kỹ năng viết đoạn
Trang 3

skkn


là cơ bản nhất. Bởi một bài văn nghị luận chứng minh gồm nhiều đoạn văn,
những đoạn văn ấy cùng hướng vào làm sáng tỏ vấn đề cần chứng minh. Và
điều quan trọng là không phải cách viết đoạn văn nào cũng giống nhau mà phụ
thuộc vào yêu cầu, chức năng, vai trị của đoạn văn để có cách viết phù hợp. Qua
đoạn văn chứng minh cụ thể, làm cho học sinh có được thao tác chứng minh:
nêu luận điểm (câu chốt), cách đưa và sắp xếp dẫn chứng, cách phân tích dẫn
chứng... một cách rõ ràng, mạch lạc, có sức hấp dẫn và thuyết phục. Đó chính là
những yếu tố cơ bản của kiểu bài nghị luận chứng minh.
Nói tóm lại, khơng thể có một bài văn chứng minh đúng và hay nếu như

không dạy các em kỹ năng viết đoạn văn chứng minh.
2. Cơ sở thực tiễn.
- Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 7 đã thể hiện được u cầu tích
hợp ba phân mơn Văn - Tiếng việt - Tập làm văn, tuy nhiên vẫn phải luôn tạo
điều kiện cho việc đảm bảo yêu cầu riêng có tính chất tương đối độc lập của mỗi
phân mơn. Kiểu bài nghị luận chứng minh chương trình Ngữ văn 7 dành 4 bài
với thời lượng là 5 tiết
Tiết 87, 88

Tìm hiểu chung về phép lập luận chứng minh.

Tiết 91

Cách làm bài văn nghị luận chứng minh.

Tiết 92

Luyện tập lập luận chứng minh.

Tiết 100

Luyện tập viết đoạn văn chứng minh.

Nhìn vào chương trình và q trình thực dạy, tơi nhận thấy chương trình
có hướng đổi mới đó là chú ý đến kỹ năng thực hành luyện kỹ năng cho học sinh
để có thể viết được một bài văn chứng minh.
- Trong thực tế, việc viết đoạn văn của học sinh còn rất kém, nhất là văn
nghị luận đối với các em học sinh lớp 7 - vốn đã quen với những đoạn văn tự sự,
miêu tả, biểu cảm. Trong giờ dạy, giáo viên yêu cầu viết đoạn văn là các em rất
ngại thậm chí ngại hơn viết cả bài. Vì viết cả bài khơng được ý nọ cịn được ý


Trang 4

skkn


kia, cịn nếu viết đoạn mà khơng biết cách viết sẽ không thành một đoạn văn cụ
thể là đoạn văn chứng minh theo yêu cầu.
- Với người giáo viên, sách giáo khoa vẫn là tài liệu quan trọng. Sách giáo
khoa cung cấp cho người học những nguyên tắc, yêu cầu cần phải đạt tới của
kiểu bài, của từng kỹ năng. Cho nên, vận dụng tốt sách giáo khoa là yêu cầu mà
tất cả các giáo viên phải thực hiện. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu kỹ sách giáo khoa
và đặt ra tiêu chí khi dạy bài nghị luận chứng minh:
+ Coi từng tiết dạy mà sách giáo khoa đã chia và sắp xếp theo từng bài là
yêu cầu cần đạt của học sinh.
+ Bài tập nào của sách giáo khoa tốt thì tơi sử dụng khai thác, bài tập nào
chưa hay thì khơng bắt buộc học sinh phải làm.
+ Tơi quan niệm bài tập rèn kỹ năng viết đoạn tốt phải vừa sức với tâm lý
và nhận thức của lứa tuổi học sinh, phải thể hiện được tính chất, yêu cầu tích
hợp của bộ mơn.
Dựa trên những cơ sở đó, tôi xác lập một hệ thống bài tập cụ thể như sau
I. Bài tập nhận biết đoạn văn chứng minh.
II. Bài tập luyện viết đoạn mở bài, đoạn kết bài.
III. Bài tập luyện các kỹ năng cơ bản để viết đoạn văn chứng minh
1. Bài tập chọn dẫn chứng.
2. Bài tập sắp xếp dẫn chứng.
3. Bài tập phân tích dẫn chứng.
4. Bài tập diễn đạt.
5. Bài tập chữa lỗi sai.
Dạng bài tập chữa lỗi sai như sai về dẫn chứng, sai về diễn đạt, trình

bày..., tơi kết hợp đưa vào cùng với các dạng bài trên.
Với hệ thống bài tập như trên, tôi sử dụng để:
- Vào bài mới.
- Dạy trên lớp - củng cố lý thuyết.
Trang 5

skkn


- Dạy trong giờ rèn luyện kỹ năng.
- Giao bài về nhà để học sinh luyện viết.
B. Một số bài tập rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn chứng minh:
Trước khi luyện viết đoạn văn, học sinh đã được rèn kĩ năng tìm hiểu đề,
tìm ý, lập dàn ý cho một bài văn chứng minh cụ thể. Chính vì vậy, ở phần này,
tôi chỉ đưa ra hệ thống bài tập với mục đích rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn
chứng minh.
I. Bài tập nhận biết đoạn văn và đoạn văn chứng minh
Thực tế, học sinh đã biết một đoạn văn qua tìm hiểu các văn bản (giờ văn
học), qua các tiết học tiếng Việt với yêu cầu viết đoạn văn. Nhưng với học sinh
lớp 7, chưa có tiết học dành riêng cho việc tìm hiểu thế nào là đoạn văn. Vì vậy,
để giúp các em hiểu rõ, nắm vững thế nào là đoạn văn, tôi ra dạng bài tập này:
Bài tập 1: Những tập hợp sau đây có thể coi là đoạn văn khơng?
a. Hồ Chí Minh là một trong những tên tuổi sáng ngời nhất của dân tộc
Việt Nam. "Những trò lố hay Va ren và Phan Bội Châu" là tác phẩm viết bằng
tiếng Pháp của Người.
b. Bài thơ "Qua đèo Ngang" là bức tranh đẹp về một vùng non nước. Cụm
từ "Ta với ta" tả nỗi buồn của một con người, cảm thấy lẻ loi, cô đơn giữa một
không gian bao la trời mây nước. Đọc "Qua đèo Ngang" ta được thấy phong
cách thơ trang nhã, điêu luyện rất tiêu biểu cho thơ Đường luật của Bà Huyện
Thanh Quan.

c. Gần trưa, chúng tôi mới đến trường học, tôi dắt em đến lớp 4B, cô giáo
Tâm đang giảng bài. Chúng tôi đứng nép vào gốc cây trước cửa lớp, em cắn chặt
mơi im lặng, mắt lại đăm đăm nhìn khắp sân trường từ cột cờ đến tấm bảng tin
và những vạch than vẽ ô ăn quan trên hè gạch. Rồi em bật khóc thút thít.
(Khánh Hồi - Ngữ văn 7)

Trang 6

skkn


Hướng dẫn:
Học sinh sẽ nhận ra cả ba tập hợp trên xét về hình thức là đoạn văn. Xét
về nội dung (a), (b) chưa đảm bảo.
+ Hai câu văn tập hợp (a) chưa có sự liên kết.
+ Tập hợp (b) có vẻ mang dáng dấp của một đoạn văn khá rõ với câu đầu
tiên như là một câu có vai trò mở ra đề tài của đoạn. Nhưng những câu viết sau
khơng gắn bó gì với đề tài ấy (mặc dù cả 3 câu đề viết về bài thơ “Qua Đèo
Ngang”).
Chỉ có tập hợp (c) xét về cả nội dung và hình thức đảm bảo là một đoạn
văn (nội dung: kể việc anh em Thuỷ, Thành đến trường chia tay cô giáo).
Giáo viên chốt (cung cấp kiến thức): Vậy đoạn văn là thế nào?
“Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi
đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương
đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.”
(Ngữ văn 8- tập I)
Khi đã có khái niệm về đoạn văn, các em cần phân biệt đoạn văn chứng
minh khác với các đoạn văn khác nên tôi đưa bài tập 2
Bài tập 2: Chọn đáp án đúng nhất.
a. "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc

Việt thân mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng
Giêng. Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn cịn phong, cỏ
khơng mướt xanh như cuối đông đầu giêng nhưng trái lại, lại nức mùi hương
man mác.”
(Mùa xuân của tôi-Vũ Bằng)
A. Đoạn văn tự sự.
B. Đoạn văn miêu tả.
C. Đoạn văn biểu cảm.
D. Đoạn văn chứng minh.
Trang 7

skkn


b. “Lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu
nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời
đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Chúng ta phải
ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc vì các vị ấy là tiêu biểu của một
dân tộc anh hùng.”
(Tinh thần yêu nước củanhân dân ta-Hồ Chí Minh )
A. Đoạn văn tự sự.
B. Đoạn văn miêu tả.
C. Đoạn văn chứng minh.
D. Cả 3 A, B, C.
Hướng dẫn: Học sinh chọn đáp án C (cho cả 2 đoạn).
- Với (a) giáo viên muốn nhắc lại cho học sinh về một đoạn văn biểu cảm.
- Với (b) giáo viên giúp các em nhận rõ đây là đoạn văn chứng minh.
Đoạn văn chứng minh thường nêu lên một ý kiến và có những dẫn chứng,
lý lẽ làm rõ ý kiến đó.
II. Bài tập luyện viết đoạn văn chứng minh.

1. Luyện viết đoạn mở bài.
Trước khi học kiểu bài nghị luận chứng minh, học sinh đã được học, được
làm bài tập làm văn hoàn chỉnh như kiểu bài tự sự, miêu tả, biểu cảm. Đến kiểu
bài chứng minh, cách viết có nhiều điểm khác và viết mở bài cũng có những yêu
cầu khác phù hợp với kiểu bài nghị luận chứng minh. Như đã trình bày ở phần
đầu: kiểu bài chứng minh là cơ sở cho các kiểu bài nghị luận khác. Vì vậy, việc
rèn kỹ năng viết đoạn văn mở bài là điều cần thiết và sẽ là điều kiện thuận lợi
cho học sinh làm các kiểu bài nghị luận sau này (giải thích, phân tích, nghị luận
tổng hợp...).
* Yêu cầu:
- Mở bài phải giới thiệu cho người đọc thấy rõ vấn đề sẽ chứng minh
trong bài.
Trang 8

skkn


- Mở bài nên gọn, tự nhiên, phù hợp với bài viết, gây được tâm thế cho cả
người viết và người đọc.
Bài "Cách làm bài văn nghị luận chứng minh" (Sách giáo khoa ngữ
văn 7) có hướng dẫn ba cách mở bài sau đây:
+ Đi thẳng vào vấn đề.
+ Suy từ cái chung đến cái riêng.
+ Suy từ tâm lý con người.
Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy các em được làm quen với ba cách
mở bài trên, nhưng khi cho đề bài khác, các em rất vất vả, khó khăn khi thực
hiện yêu cầu đầu tiên đó là viết mở bài. Các em không biết bắt đầu như thế nào?
Viết cái gì? Viết ra sao?...
Sau khi các em làm quen với những cách mở bài trên, tôi đưa ra các đoạn
văn mở bài sai để học sinh nhận ra lỗi sai. Từ đó, học sinh có thể hiểu được yêu

cầu của đoạn văn mở bài và viết đúng.
Bài tập 1: Có hai đoạn mở bài cho đề chứng minh:
“Ca dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào.”
a. Trong gia đình Việt Nam có những tình cảm ngọt ngào và đằm thắm.
Thứ tình cảm ngọt ngào, đằm thắm thiêng liêng ấy mà hầu như ai trong mỗi con
người chúng ta đều có là tình cảm gia đình. Chính vì vậy, ta có thể khẳng định
rằng: Ca dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào.
b. Chúng ta được lớn lên trong tình yêu thương của gia đình. Trong lời ru
của bà, của mẹ. Lòng nhân ái của cha. Những tình cảm đó được dân gian gửi
gắm vào ca dao.
Hãy nêu nhận xét của em về những mở bài đó.
Hướng dẫn:
a. Nêu được vấn đề chứng minh nhưng cách diễn đạt chưa đạt yêu cầu.
- Câu (1), (2) diễn đạt cịn vụng, luẩn quẩn, khơng thốt ý, lặp từ "ngọt ngào
đằm thắm".
Trang 9

skkn


- Câu (1), (2) chưa nói gì đến ca dao, vậy mà câu (3) đã khẳng định: "Ca dao
là...".
b. Nêu vấn đề chứng minh song lại cụ thể, chi tiết, chưa có sức khái quát vấn đề.
Sai ngữ pháp ở câu (2), (3).
* Giáo viên cho học sinh tham khảo các mở bài sau:
Cách 1: Để ca ngợi tình cảm của người lao động xưa, ca dao có nhiều bài
nghe tha thiết và cảm động. Lời ca ngọt ngào và đằm thắm biết bao khi ngợi ca
tình cảm gia đình.
Cách 2: Ca dao là cây đàn muôn điệu, là tiếng nói đời sống tình cảm tâm
hồn người Việt xưa. Những lời ca ấy diễn tả thật chân thành và xúc động về tình

cảm của con người. Và tiếng hát về tình cảm gia đình trong ca dao ngọt ngào và
đằm thắm biết bao.
Cách 3: Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng trong trái tim mỗi
chúng ta, là cơ sở để giáo dục nhân cách con người. Cha ông ta rất coi trọng tình
cảm con người và để lại những lời ca thật ngọt ngào đằm thắm ngợi ca tình cảm
thiêng liêng ấy.
* Giáo viên chốt lại cách viết mở bài:
Có nhiều cách mở bài:

• Mở bài trực tiếp: Đi thẳng vào vấn đề chứng minh, đề bài yêu cầu
chứng minh vấn đề gì thì viết ln vấn đề đó. Cách này ngắn gọn, đúng vấn đề
nhưng dễ khơ khan.

• Mở bài gián tiếp:
- Khơng đi thẳng vào vấn đề chứng minh mà dẫn dắt vấn đề bằng nhiều
cách:
+ Nêu xuất xứ của vấn đề chứng minh (Ví dụ: đề là câu ca dao thì dẫn từ
ca dao...).
+ Đưa ra một so sánh, một câu tục ngữ, ca dao, một câu nói hoặc trích dẫn
thơ... (có nội dung tương đương).
Trang 10

skkn


+ Nêu lý do đưa đến bài viết (vấn đề chứng minh có cần thiết, có thiết
thực với đời sống không?...)
- Sau phần dẫn dắt là phần:
+ Nêu vấn đề chứng minh.
+ Phạm vi chứng minh.

+ Trích dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp vấn đề chứng minh đã nêu ở đề bài.
Để có thể viết đúng, theo hướng dẫn của giáo viên, học sinh có thể thực
hiện được yêu cầu. Song từ chỗ đạt yêu cầu ấy, học sinh cần vươn tới cái đích là
viết hay. Vì vậy, giáo viên cần đưa ra các bài tập luyện diễn đạt - lựa chọn cách
diễn đạt hay để phần mở bài đúng với vai trị của nó là làm cho người đọc có
được ấn tượng ban đầu về bài viết, tạo âm hưởng chung cho toàn bài.
Bài tập 2: Để mở bài cho đề: Chứng minh: "Hình tượng Bác hồ là hình
tượng đẹp trong thơ ca", có nhiều bạn đã viết.
1. Bác Hồ là vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta. Người là đề tài
lớn trong thơ ca. Và trong thơ, ta bắt gặp hình tượng của Người.
2. Nhà thơ Bảo Định Giang có câu:
"Tháp mười đẹp nhất bơng sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ"
Con người đẹp ấy đã đi vào trong thơ và là một hình tượng đẹp.
3. Thơ với Bác là một sự kết hợp tuyệt vời. Thơ là cái đẹp của nghệ thuật,
Bác là vẻ đẹp của cuộc đời. Thơ viết về Bác thì đúng là trong cái đẹp lại có cái
đẹp. Hình tượng Bác là hình tượng đẹp trong thơ ca.
4. Xúc động trước tình cảm cao đẹp của Bác dành cho các anh bộ đội,
Minh Huệ viết:"Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm".
Hình tượng Bác Hồ là hình tượng đẹp trong thơ ca.
Theo em mở bài nào hay?
Hướng dẫn:
Trang 11

skkn


Học sinh dễ dàng nhận thấy (2) và (3) là những mở bài hay.
- Mở bài (1) đúng, không sai nhưng cách diễn đạt còn chung chung, chưa

bắt được yêu cầu của đề bài.
- Mở bài (4):
+ Dẫn câu thơ chưa có sức thuyết phục, chưa có sức khái quát so với yêu
cầu của đề bài.
+ Giữa 2 câu sự liên kết còn lỏng lẻo.
2. Luyện viết đoạn kết bài.
Trong thực tế, tơi nhận thấy học sinh rất ít chú ý đến đoạn kết bài, chỉ tóm
lược nội dung của bài hay liên hệ đôi câu công thức là xong. Đó là một thói
quen xấu, làm ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng bài viết. Vì thế, giáo viên cũng
cần dành thời gian thích đáng để học sinh được luyện viết đoạn văn kết bài.
* Kết bài phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Phần kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần trên (thân bài).
- Kết bài nêu ra ý kiến khái quát, tổng hợp, đánh giá vấn đề đã trình bày.
*Có 4 cách kết bài:
- Tóm tắt nội dung đã nêu ở thân bài.
- Phát triển: Mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong đề bài.
- Vận dụng: Nêu phương hướng, bài học áp dụng hay phát huy, khắc phục
vấn đề nêu trong bài.
- Liên tưởng: Mượn ý kiến tương tự, những ý có giá trị để thay thế cho lời
tóm tắt của người làm bài.
Yêu cầu của kết bài cũng giống như mở bài, khơng chỉ đúng mà cịn phải
hay. Muốn làm được điều đó, giáo viên phải luyện cho các em viết, phải cho các
em ý thức được rằng nếu chưa có một kết bài ưng ý thì chưa bằng lịng vì bài
viết chưa hồn chỉnh.
Trong bài "Cách làm bài văn nghị luận chứng minh" có hướng dẫn viết
đoạn kết bài tôi đưa ra một số bài tập như sau:
Trang 12

skkn



Bài tập 1: Nêu nhận xét của em về các đoạn kết bài của đề bài: Chứng
minh "Ca dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào".
Kết bài 1: Những tình cảm trên chứng tỏ một tình cảm gia đình đằm thắm và
ngọt

ngào,

thể

hiện

bằng

những

câu

ca

dao.

Kết bài 2: Tình cảm gia đình gắn bó ngọt ngào, đằm thắm được thể hiện rõ trong
ca dao như những lời ca ngọt ngào, đằm thắm nhất. Thể hiện trong cuộc sống
hàng ngày những tình cảm trong sáng.
Hướng dẫn: Cả 2 kết bài đều chưa đạt yêu cầu, chưa gây được tình cảm
ấn tượng, tạo dư âm cho người đọc về bài viết.
Kết bài 1: Nhắc lại nội dung của vấn đề chứng minh - diễn đạt vụng về.
Kết bài 2: Lỗi lặp từ, diễn đạt khơng thốt ý.
Bài tập 2: Để kết bài cho đề: Chứng minh “Ca dao là tiếng hát về tình

cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào”, em thích đoạn viết nào hơn.
1. Kính trọng, biết ơn ông bà tổ tiên, ghi nhớ công lao của cha mẹ, tình
anh em gắn bó, nghĩa vợ chồng thuỷ chung son sắt. Đó là những tình cảm gia
đình được ca dao diễn tả một cách bình dị, mộc mạc mà chân thành thấm thía.
Tình cảm gia đình là một trong những tình cảm đẹp của con người Việt Nam để
chúng ta tự hào, trân trọng và gìn giữ mãi mãi với thời gian.
2. Với lời ca nhẹ nhàng, đằm thắm, ca dao giúp ta hiểu, thấm thía hơn về
tình cảm gia đình - tình cảm thiêng liêng nhất trong mỗi con người. Chúng ta
phải sống sao cho đẹp, sống sao cho tốt để hạnh phúc gia đình mãi mãi bên ta.
3. Những bài ca dao trên tuy chưa phải là nhiều so với kho tàng ca dao
Việt Nam, song cũng phần nào nói lên được tình cảm gia đình gắn bó, u
thương. Từ lâu, những tình cảm ấy đã in đậm trong tim mỗi người dân Việt
Nam, để rồi trở thành một truyền thống quý báu, tốt đẹp như lời của một bài hát
nhẹ nhàng, tha thiết mà thấm thía: "Gia đình, gia đình vương vấn bước chân ra
đi, ấm áp trái tim quay về…”

Trang 13

skkn


Học sinh trình bày ý kiến về cảm nhận của mình. Đây là những kết bài
hay, phù hợp với yêu cầu của đề bài, tạo được ấn tượng tốt cho người đọc.
Bài tập 3: Hãy viết ít nhất hai kết bài cho đề bài sau:
Chứng minh rằng nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn sống theo đạo
lý "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây".
Sau khi đã được giáo viên hướng dẫn, học sinh viết được những đoạn kết
bài như sau:
1. Lòng biết ơn "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" - là phẩm chất đạo đức vô
cùng cao quý và cần có trong mỗi con người. Nó sẽ trở nên sâu sắc, ý nghĩa khi

được thể hiện bằng những việc làm, hành động cụ thể. Ai cũng có lịng biết ơn,
có lối sống ân nghĩa, thuỷ chung thì mọi người luôn sống gần nhau hơn, xã hội
sẽ là một gia đình chung ấm áp biết bao!
(Nguyễn Minh Thu – 7G)
2. Bằng hình ảnh ẩn dụ giản dị, mộc mạc, câu tục ngữ cho ta bài học luân
lý sâu sắc. Nó nhắc nhở chúng ta về đạo làm con, đạo thầy trị, nghĩa vụ của
người cơng dân đối với Tổ quốc. Lòng biết ơn phải được khắc sâu vào tâm hồn
mỗi chúng ta, phải được gìn giữ bền vững mãi mãi cùng với thời gian.
(Cao Thanh Túc– 7G)
III. Bài tập luyện các kỹ năng cơ bản của đoạn văn chứng minh
* Thân bài là phần trọng tâm có nhiệm vụ:
- Phát triển những ý chính đã nêu ở phần mở bài.
- Dùng lý lẽ và dẫn chứng (luận cứ) làm sáng rõ vấn đề nêu ở phần mở
bài.
* Thân bài gồm nhiều đoạn văn:
- Mỗi đoạn văn chứng minh diễn đạt một ý cơ bản (luận điểm), ý này
thường đặt ở đầu đoạn văn hoặc cuối đoạn văn. Nội dung các câu trong đoạn cần
hướng vào nội dung của câu chủ đề (ý cơ bản - luận điểm) và có nhiệm vụ làm
sáng rõ luận điểm ở câu chủ đề đó.
Trang 14

skkn


- Trong đoạn văn chứng minh cần đảm bảo sự thống nhất giữa ý cơ bản
của toàn đoạn và dẫn chứng, giữa dẫn chứng và lời văn phân tích.
* Đoạn văn phần thân bài thường có cấu tạo 2 phần: Lời lập luận thuyết minh và
dẫn chứng.
Dẫn chứng trong văn chứng minh được coi là linh hồn của bài văn. Trong phần
tập làm văn, các bài về kiểu văn nghị luận chứng minh ví dụ bài: "Cách làm bài

văn nghị luận chứng minh" không hướng dẫn cụ thể cách viết đoạn thân bài,
cũng khơng có những đoạn mẫu tham khảo. Vì vậy, tơi đưa ra một hệ thống bài
tập rèn các kỹ năng cơ bản, để học sinh có thể viết được đoạn văn chứng minh
(phần thân bài) đúng và hay.
1. Bài tập rèn kỹ năng đưa dẫn chứng.
Việc sử dụng dẫn chứng khơng theo ngun tắc bình qn mà ý nào quan
trọng thì đưa dẫn chứng nhiều, ý nào khơng quan trọng thì dùng dẫn chứng ít.
Có nhiều cách đưa dẫn chứng:
- Dẫn trực tiếp: Dẫn nguyên văn một câu, một đoạn... chính xác như
nguyên bản (khi sử dụng phải đặt trong dấu ngoặc kép và có chú thích khi cần).
- Dẫn gián tiếp: Chỉ cần đại ý, đảm bảo đúng ý, khơng cần chính xác câu
chữ như ngun tác (khi phải tóm tắt câu chuyện, tóm tắt nhiều hành động, lời
phát biểu hoặc một đoạn văn mà mình khơng thuộc...).
- Có thể đưa dẫn chứng liệt kê (khi ý đã rõ ràng, hiển nhiên hoặc không
cần chi tiết hoặc dùng dẫn chứng sau soi sáng cho dẫn chứng trước...).
- Có thể đưa dẫn chứng kèm theo phân tích thuyết minh.
Bài tập 1: Hãy nhận xét cách đưa dẫn chứng ở hai đoạn văn sau:
1. “Tiếng Việt trong cấu tạo của nó là một thứ tiếng khá đẹp. Nét đẹp ấy
được tác giả Đặng Thai Mai khẳng định: Tiếng Việt là thứ tiếng giàu chất nhạc.
Điều đó, khiến chúng ta nhớ đến các bài thơ, những áng văn sinh động, đa
thanh, giàu chất nhạc trong kho tàng văn học Việt Nam. Ta hãy lắng nghe đoạn
thơ sau:
Trang 15

skkn


"Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng".
Nhạc tính của Tiếng Việt đã tấu lên ở âm sắc, những thanh điệu, cú pháp
đẹp đẽ, uyển chuyển, sinh động biết bao trong đoạn thơ ấy.”
(Hoàng Gia Bách- 7G)
→ Đưa dẫn chứng trực tiếp.
2. Trong cổ tích, bao giờ cái thiện cũng thắng cái ác. Cô Tấm sau bao lần
chết đi sống lại rồi vẫn được làm hoàng hậu. Thạch Sanh qua bao lần oan khổ đã
được làm vua. Chàng Sọ Dừa cuối cùng đoàn tụ hạnh phúc cùng cô Út dịu
hiền...
(Lã Hà Quỳnh Nhi- 7G)
→ Đưa dẫn chứng gián tiếp.
Bài tập 2: Hãy chọn dẫn chứng thích hợp cho đoạn văn chứng minh:
Bác Hồ là một con người giản dị. Đức tính đáng quý, đáng trân trọng ấy
được Bác thể hiện ở mọi nơi, mọi lúc, mọi phương diện đời sống. Trong sinh
hoạt (.......). Khơng chỉ có vậy, Bác ln sống thân ái, chan hoà đời sống với mọi
người "đi thăm nhà tập thể của cơng nhân từ nơi làm việc đến phịng nghỉ, nhà
ăn...". Vì vậy, tất cả mọi người đều thấy Bác gần gũi, thân thương.
Các dẫn chứng:
(1). Bác ở nhà sàn, quần áo sang trọng nhất là bộ ka ki đã bạc; nơi Bác
nằm là giường mây, chiếu cói; thức ăn hàng ngày là vài món ăn giản đơn: rau
luộc, cà muối, cá kho...
Trang 16

skkn



(2). "Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mịn".
(3). "Bác ơi, tim Bác mênh mơng thế
Ơm cả non sơng mọi kiếp người".
(Tố Hữu)
Hướng dẫn:
Đọc đoạn văn học sinh hiểu được ý khái quát của toàn đoạn văn: Đức tính
giản dị của Bác Hồ → Vì vậy, các em dễ dàng nhận thấy cần phải lựa chọn dẫn
chứng nào?
(1) Dẫn chứng đầy đủ, toàn diện, tiêu biểu phù hợp với lý lẽ.
(2) Dẫn chứng là câu thơ có sức khái qt cao về đức tính giản dị của Bác,
song trong văn cảnh này dẫn chứng không có sức thuyết phục như dẫn chứng
(1).
(3) Dẫn chứng nói về Bác Hồ nhưng lại nói ở khía cạnh khác trong phẩm
chất đạo đức sáng ngời của Người đó là tình u thương → khơng phù hợp.
2. Bài tập sắp xếp dẫn chứng.
Việc sắp xếp dẫn chứng rất quan trọng trong văn chứng minh. Đưa dẫn
chứng nào trước, để dẫn chứng nào sau là một kỹ năng để bài viết mạch lạc,
khoa học và nhiều khi còn thể hiện sắc thái tình cảm.
Bài tập : So sánh hai đoạn văn
1. Tiếng hát ngợi ca tình cảm vợ chồng trong ca dao cũng ngọt ngào, tha
thiết biết bao. Cuộc sống cơ cực, bần hàn đến nỗi họ phải dùng những thứ mà
người khác bỏ đi, thế mà bằng cử chỉ âu yếm, chăm sóc cho nhau, những thứ đó
trong bữa cơm đạm bạc của họ trở nên tuyệt ngon với niềm vui hạnh phúc:
-

“Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.”
Dù trong nghèo túng họ vẫn thương yêu, thuỷ chung với nhau:

- “Chồng em áo rách em thương
Trang 17

skkn


Chồng người áo gấm xơng hương mặc người.”
Đó là sự thuỷ chung, son sắt, chia sẻ vất vả trong lao động cực nhọc, kiếm
sống gian nan, nhưng họ vẫn hát lên tiếng ca đầy ân nghĩa:
-

“Rủ nhau lên núi đốt than

Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin đừng quên nhau”
2. Tiếng hát ngợi ca tình cảm vợ chồng trong ca dao cũng tha thiết ngọt
ngào biết bao. Đó là sự thuỷ chung chia sẻ vất vả trong lao động cực nhọc kiếm
sống gian nan nhưng họ vẫn hát lên tiếng ca ân nghĩa:
“Rủ nhau lên núi đốt than
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.”
Và dù trong nghèo túng, họ vẫn yêu thương thuỷ chung với nhau:
“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.”
Cuộc sống cơ cực, bần hàn đến nỗi họ phải dùng những thứ mà người ta
bỏ đi, bằng cử chỉ âu yếm, chăm sóc cho nhau, những thứ đó trong bữa cơm trở
nên tuyệt ngon với niềm vui hạnh phúc:
“Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.”
Hướng dẫn:
Đoạn 1: Dẫn chứng sắp xếp như vậy sẽ có cảm giác trình bày lộn xộn,
làm nhạt đi cảm xúc của người viết.
Đoạn 2: Dẫn chứng được sắp xếp theo thứ tự tăng dần (tình cảm vợ chồng
thuỷ chung, ấm áp trong lao động cực nhọc - nghèo túng - bần hàn cơ cực).
Đoạn văn sẽ hay và sâu sắc hơn.
Trang 18

skkn


3. Bài tập luyện diễn đạt, trình bày.
Như trên đã trình bày, đoạn văn chứng minh thường có 2 phần: lời lập
luận thuyết minh và dẫn chứng. Dẫn chứng đương nhiên là rất quan trọng, song
lời phân tích, thuyết minh cũng quan trọng không kém. Giáo viên cần làm cho
học sinh thấy, nếu khơng có lời phân tích, thuyết minh thì người đọc sẽ khơng
hiểu tại sao lại dùng dẫn chứng này cho lý lẽ ấy hoặc vấn đề chứng minh khó có
khả năng thuyết phục sâu sắc tới người đọc. Tôi cho học sinh tham khảo 2 đoạn
văn sau:
Đoạn 1: Đối với Hồ Chí Minh, cái đẹp là cuộc sống thực tại trên mặt đất
này
“Trong tù khoan khoái giấc ban trưa
Một giấc miên man suốt mấy giờ
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.”
Không thể hiểu đúng tinh thần bài thơ này nếu không nhận ra nụ cười mỉa mai
kín đáo và giấc mơ “cưỡi rồng” của người thi sĩ. Tất nhiên, Hồ Chí Minh khát
khao tự do hơn ai hết, nhưng không hề muốn cưỡi rồng bay lên trời. Nếu quả
thực phải bay lên trời thì chắc thà Người ở trong ngục, thà ở cõi trần đau khổ

này còn hơn. Bài thơ tự trào thật chua chát, cay đắng nhưng khơng hề có tinh
thần thốt tục…
Đoạn 2: “ Nhật kí trong tù” thể hiện một tinh thần dân chủ sâu sắc của mĩ
học Hồ Chí Minh:
“Đầy mình đỏ tím như hoa gấm
Sột soạt luôn tay tựa gẩy đàn
Mặc gấm bạn tù đều khách quí
Gảy đàn trong ngục thảy tri âm”.

Trang 19

skkn


Bài thơ có giọng đùa vui thoải mái giống như nhiều bài thơ khác của Hồ
Chí Minh. Qua tiếng cười rất đỗi hồn nhiên ấy, nhà thơ muốn nói điều này: Hồ
Chí Minh cũng chẳng phải xương thịt gì đặc biệt, da thịt cũng như da thịt mọi
người mà thôi , bẩn thì ghẻ, ghẻ thì gãi và gãi ghẻ cũng có những cái thú riêng
của nó. Cả một nhà lao cùng gãi ghẻ thì thật hiểu nhau vơ cùng, thật là “tri âm,
tri kỷ”... Có ai đó nói rất đúng rằng: Hồ Chí Minh rất vĩ đại nhưng vĩ đại nhất là
Bác khơng bao giờ tự coi mình là vĩ đại. Đó chính là trường hợp bài thơ này.
Giáo viên chỉ rõ cho học sinh thấy: nếu khơng có đoạn phân tích thì người
đọc khơng thể hiểu được tại sao người viết lại dùng dẫn chứng này cho lập luận
ấy.
Để viết hay, hấp dẫn, người viết phải biết trình bày linh hoạt giữa hai yếu
tố: dẫn chứng và phân tích. Có thể thực hiện theo các cách sau:
- Dẫn chứng - phân tích.
- Phân tích - dẫn chứng.
- Phân tích - dẫn chứng - phân tích.
Bài tập 1: Giáo viên đưa ra tình huống - Học sinh thảo luận

Có người nói: "Làm văn chứng minh cũng dễ thơi, chỉ cần nêu luận điểm
và dẫn chứng là xong". Ví dụ sau khi nêu luận điểm "Tiếng Việt ta giàu đẹp",
chỉ cần dẫn ra câu ca dao :
Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng...
Theo em, nói như vậy có đúng khơng? Để làm được văn chứng minh,
ngồi luận điểm và dẫn chứng, cịn cần phải có thể điều gì? Có cần chú ý tới
chất lượng của luận điểm và dẫn chứng không? Chúng cần phải như thế nào thì
đạt yêu cầu?
Hướng dẫn:
Giáo viên lưu ý cho học sinh thấy là qua câu trả lời, người nói tỏ ra khơng
hiểu về cách làm văn lập luận chứng minh. Chứng minh trong văn nghị luận đòi
Trang 20

skkn



×