Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.28 KB, 28 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Đối với mọi quốc gia trên thế giới, môn Lịch sử ln là mơn học bắt buộc
và có vai trị quan trọng trong việc hình thành nhân cách, tư tưởng và tinh thần
dân tộc ở mỗi con người. Với giáo dục Việt Nam cũng vậy, môn Lịch sử là món
ăn tinh thần của một số những học sinh, những thầy cơ giáo, những con người
góp cơng sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, với những người yêu
nước. Đáng buồn là trong thời gian gần đây, giáo dục mơn Lịch sử trong các
trường phổ thơng nói chung, các trường Tiểu học nói riêng sa sút nhiều, gây nỗi
lo âu trong xã hội. Học sinh chán môn Lịch sử, khơng thích học lịch sử biểu hiện
trên nhiều phương diện. 
Ở trường Tiểu học tôi đang công tác cũng rất nhiều học sinh có điểm bài
thi lịch sử cuối kì, cuối năm thấp hơn các mơn khác.Chẳng hạn Tốn và Tiếng
Việt đạt điểm cao nhưng Lịch sử điểm lại thấp. Số đơng học sinh chưa thực sự
chủ động tích cực trong giờ học Lịch sử: các em xem Lịch sử là môn phụ nên
không chú ý trong giờ học sử, lười học bài. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy các
em, tơi ln trăn trở với câu hỏi: Vì sao như vậy? Có nhiều nguyên nhân: Do
giáo viên dạy, do chương trình lịch sử mỗi tuần chỉ dạy có một tiết, bài thì dài,
chủ yếu là nghe, ghi chép, đọc sách giáo khoa nên học sinh không nhớ nổi bài
hoặc nhớ khơng đầy đủ chính xác về các nhân vật, sự kiện lịch sử dẫn đến khi
kiểm tra các em không thuộc, không nhớ nên không làm được bài.
Xuất phát từ mục đích, mục tiêu giáo dục cấp học, lớp học; từ vị trí,
nhiệm vụ và yêu cầu của phân môn; từ một số tồn tại và vướng mắc trong quá
trình dạy lịch sử của cả giáo viên và học sinh; từ các chuyên đề, thực tế dự giờ,
thăm lớp của đồng nghiệp từ kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy và nhằm góp phần
đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường
nói chung, dạy học sinh lớp 5 học tốt phân môn Lịch sử nói riêng, tơi đã chọn đề
tài: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 5 ở trường
tiểu học.”
2. Tên sáng kiến


Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 5 trường
tiểu học.

1
skkn


3. Tác giả sang kiến
- Họ tên: Nguyễn Thị Hường
- Địa chỉ: Trường Tiểu học Kim Long B – Tam Dương – Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0989178282
- Mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
- Nhà giáo Nguyễn Thị Hường
Giáo viên trường Tiểu học Kim Long B –Tam Dương – Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Môn Lịch sử lớp 5.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Ngày 01 tháng 03 năm 2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
7.1.1. Cơ sở lí luận
Bàn về vai trị của mơn Lịch sử, nhà giáo Trần Trí Dũng cho rằng: “Lịch
sử và cuộc sống là một quá trình phát triển biện chứng mà hơm nay phải là sự kế
thừa và phát triển của hôm qua và chuẩn bị cho hôm sau”. Quả đúng vậy, lịch sử
là quá khứ, là nơi chứa đựng giá trị văn hóa, là nguồn dữ liệu để tham chiếu kinh
nghiệm cha ông vào sự phát triển hơm nay. Đó là hồn cốt, truyền tải những giá
trị truyền thống, mà nếu khơng có lịch sử khơng thể hiểu được vị trí của hiện tại,
với ý nghĩa đó thì nếu lịch sử cịn thì văn hóa cịn, và văn hóa cịn thì dân tộc
cịn. Lịch sử là sự trung thực của những sự thật khách quan và khơng ai có thể

chọn lịch sử, mà nhờ lịch sử nên con người và thời đại được định hình.
Vì những lí do trên mà ta thấy mơn Lịch sử có vai trị vơ cùng quan trọng.
Học lịch sử để dạy các em biết, tổ tiên ông cha ta đã lập quốc, xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc như thế nào, đặc biệt là trong thời đại ngày nay. Do đấy, đối với chúng
ta, nếu không quan tâm đến lịch sử là có tội với tổ tiên.Theo đó, từ nhận thức
dựng lại quá khứ tiến lên nhận thức bản chất của lịch sử, để từ đó khám phá ra
những đặc điểm và quy luật phát triển của lịch sử, cung cấp những cơ sở khoa
học để hoạch định con đường phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc cũng như của
mỗi cộng đồng cư dân trên mọi lĩnh vực. 

2
skkn


7.1.2.Mục tiêu của môn Lịch sử lớp 5
*Kiến thức
- Môn Lịch sử lớp 5 cung cấp cho học sinh các sự kiện, nhân vật lịch sử
tiêu biểu, tương đối có hệ thốngtheo dòng thời gian lịch sử Việt Nam nửa thế kỉ
XIX đến nay.
- Đặc điểm môn Lịch sử lớp 5 là cung cấp cho học sinh một số kiến thức
cơ bản thiết thực về các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, sắp xếp theo thứ tự
thời gian đại diện cho các thời kì lịch sử khơng chứa đựng huyền thoại, truyền
thuyết hay phong tác, hư cấu lịch sử.
- Về mức độ chỉ giới hạn ở mức biết lịch sử, còn yêu cầu về hiểu lịch sử
chỉ ở mức rất sơ đẳng, chủ yếu xem xét ý nghĩa của các sự kiện, các nhân vật
lịch sử đối với xã hội.
*Kĩ năng
- Quan sát các sự vật hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử sách
giáokhoa và các nguồn khác.
- Nêu thắc mắc đặt câu hỏi trong q trình học tập và chọn thơng tin để

giải đáp.
- Nhận biết các sự kiện, bảng thống kê.
- Trình bày kết quả nhận thức của mình bằng lời nói, bài viết, hình vẽ,
sơ đồ…
- Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
*Thái độ
- Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về mơi trường xung quanh các em.
- Yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất nước.
- Tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và di tích lịch sử, văn hóa của
q hương đất nước.
- Từ những giờ học trên lớp các em biết - hiểu - yêu mến - tự hào về đất
nước, con người Việt Nam.Từ đó các em thấy được trách nhiệm vinh dự của
người đội viên - những chủ nhân tương lai đối với quê hương đất nước, với tổ
quốc thân yêu.

3
skkn


7.1.3. Nội dung chương trình mơn Lịch sử lớp 5 và mức độ cần đạt
Phân môn Lịch sử lớp 5 gồm 26 bài cung cấp kiến thức mới; 3 bài ôn tập;
4 tiết ôn tập và 2 tiết kiểm tra cuối học kì; 2 tiết dành cho giáo dục lịch sử địa
phương; được dạy trong 35 tuần.
Nội dung chương trình gồm 4 giai đoạn lịch sử:
- Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ (1858 1945) gồm 11 bài kể cả bài ôn tập.
- Bảo vệ chính quyền non trẻ, trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 - 1954) gồm 7 bài gồm cả bài ôn tập.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước
(1954 - 1975) gồm 8 bài kể cả ôn tập.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước (từ 1975 đến nay) gồm 3 bài

cả ôn tập.
Học sinh cần biết các nhân vật lịch sử và sự kiện chính sau:
- Nhân vật lịch sử: Trương Định, Nguyễn Trường Tộ, Tôn Thất Thuyết,
Phan Bội Châu, Nguyễn Tất Thành…
- Sự kiện lịch sử: Hơn 80 năm chống thực dân Pháp (1858 – 1945): Sự
kiện ngày 5 - 6 - 1911, tại bến Nhà Rồng (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay),
Nguyễn Tất Thành (tên của Bác Hồ lúc đó) ra đi tìm đường cứu nước; sự kiện
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập ngày 3 - 2 -1930. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
(Bác Hồ) là người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng. Kể lại cuộc biểu tình ngày
12 - 9 - 1930 ở Nghệ An, một số biểu hiện về xây dựng cuộc sống mới ở thôn,
xã. Kể lại sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 và Tuyên ngôn Độc lập 2 - 9
- 1945; Chín năm kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954): Các chiến dịch quân
sự lớn (Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám có những thuận lợi song có
những khó khăn chồng chất đó là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm đẩy nước
Việt Nam vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc’’. Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng
đầu là Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã có những biện pháp diệt giặc đói bằng biện
pháp cấp bách là lá lành đùm lá rách, hũ gạo tiết kiệm, ngày đồng tâm. Biện
pháp lâu dài là tăng gia sản xuất). Chiến thắng Điện Biên Phủ; Hiệp định Giơ ne - vơchấm dứt chiến tranh Đông dương; Kháng chiến chống Mỹ và xây dựng
đất nước (1954 – 1975): Sự kiện ngày 27- 1- 1973, Mĩ buộc phải kí hiệp định
Pa- ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam. Ngày 30- 4-1975,
qn ta giải phóng Sài Gịn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), kết thúc thắng lợi

4
skkn


cuộc kháng chiến chống Mỹ; Xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong cả nước (năm
1975 đến nay).
Trong chuẩn kiến thức kĩ năng và trong hướng dẫn điều chỉnh nội dung
dạy học lịch sử đã giảm đi một số yêu cầu khó (tường thuật) chỉ yêu cầu học

sinh kể một số sự kiện.
7.1.4. Thực trạng của việc dạy và học Lịch sử trong trường hiện nay
a) Thuận lợi
* Nhà trường
Công tác chỉ đạo chuyên môn của BGH luôn sát sao, nhà trường luôn coi
trọng việc dạy đúng và đủ các môn học là cần thiết trong việc phát triển toàn
diện nhân cách học sinh. Bởi vậy, đã kịp thời tổ chức các chuyên đề cấp tổ, cấp
trường về các môn học nói chung và phân mơn Lịch sử nói riêng để giáo viên
trao đổi học tập kinh nghiệm cũng như phương pháp của đồng nghiệp.
Trong mọi hoạt động của nhà trường Ban giám hiệu luôn coi việc đổi mới
phương pháp dạy học là nhiệm vụ trọng tâm.Coi trọng việc dạy cho học sinh có
phương pháp học tập đúng, rèn kĩ năng thực hành ứng dụng trong cuộc sống.
Trong hoạt động dạy học, nhà trường luôn lấy học sinh làm trung tâm, áp
dụng các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Bên cạnh đó, Chi bộ Đảng và Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm
đến công tác hoạt động phong trào và đặc biệt là các giờ hoạt động tập thể nội,
ngoại khoá vào dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc.Chính những buổi tham
quan thực tế đã bồi dưỡng thêm vốn kiến thức lịch sử cho các em rất nhiều.
* Giáo viên
Đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, vững vàng về chuyên môn lại
được trang bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy học giúp giáo viên có thể tìm kiếm
nhiều thơng tin bổ ích hỗ trợ cho các bài giảng của mình sinh động hơn, hấp dẫn
hơn.
Giáo viên trong trường ln nhận thức được vai trò của việc dạy và học
Lịch sử trong việc giáo dục toàn diện học sinh đặc biệt là giúp các em hiểu hơn
về lịch sử dân tộc, tự hào về truyền thống quê hương đất nước anh hùng. Bởi
vậy giờ dạy Lịch sử luôn là mối quan tâm của giáo viên trong trường.
Hiện nay nguồn thông tin, sách báo, truyền hình, mạng Internet… khá phong
phú. Tơi cũng thường hay đọc tìm hiểu về tư liệu, tài liệu, xem phim lịch sử, nhân
chứng sống trong sách, báo, chương trình trên ti vi nên cũng giúp cho tơi tự học hỏi


5
skkn


nâng cao tay nghề, mở mang thêm kiến thức về lịch sử để dạy học sinh. Hơn nữa,
học các lớp chính trị, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh giúp
cho bản thân càng có ý thức trách nhiệm hơn trong nhiệm vụ của mình.
* Học sinh
Học sinh trong trường chủ yếu là con em nông thơn, ngoan, chăm chỉ.
Học sinh có đầy đủ về sách vở, dụng cụ học tập.Nhiều gia đình cịn mua
thêm các tài liệu khác cho con, em mình.
Học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp, các em luôn ý thức được vai trị trách
nhiệm của mình nên các em có rất nhiều cố gắng trong học tập.Bên cạnh đó, các
em cũng rất hiếu động, thích được tìm tịi, khám phá; có khả năng trực quan
nhạy bén.
Xét về mặt tâm lí, học sinh lớp 5 ln muốn được khẳng định mình trước
bạn bè, thầy cơ, thích được khen do vậy đa phần các em chăm học, ham tìm tịi
khám phá kiến thức.
Học Lịch sử là tìm về quá khứ hào hùng của dân tộc. Đặc biệt, trong giờ
Lịch sử các em còn được nghe, được thấy những sử liệu có thể giải thích được
sự tị mị, băn khoăn của các em nên các em rất chú ý lắng nghe, ham tìm kiếm
thơng tin về lịch sử. Hơn nữa nhờ sự quan tâm của Chi bộ Đảng, Ban giám hiệu
nhà trường các em được tham quan thực tế nhiều nơi càng làm cho các em u
thích lịch sử hơn.
b) Khó khăn
* Nhà trường
Do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cịn thiếu thốn, kinh phí
hạn hẹp nên việc mua sắm sử liệu còn hạn chế.
Do các cấp lãnh đạo, giáo viên và xã hội coi trọng chất lượng Toán và

Tiếng Việt ở cấp Tiểu học hơn Lịch sử.
* Giáo viên:
Đồ dùng dạy học tuy được trang bị nhưng chưa đầy đủ và phong phú. Đặc
biệt trang thiết bị phục vụ phân mơn Lịch sử cịn ít.
Mặc dù nhận thức đúng vị trí vai trị của phân mơn Lịch sử nhưng do lo
ngại chất lượng nên nhiều giáo viên có phần xem nhẹ mơn học này so với Tốn
và Tiếng Việt; cịn dành ít thời gian vào việc nghiên cứu phương pháp giảng
dạy lịch sử, thậm chí giờ học Lịch sử chỉ mang tính hình thức. Giáo viên đã có
nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại

6
skkn


khơng dám thốt li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng dẫn vì sợ sai. Các
hình thức dạy học cịn đơn điệu, khơ cứng. Chính vì vậy học sinh không hứng
thú trong các giờ học lịch sử và đặc biệt khơng hình dung được sinh động về các
sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa. Từ đó dễ tạo cho các em có thói
quen ỷ lại, thụ động, dễ quên và trì trệ trong tư duy.
* Học sinh
Các em sinh ra trong thời bình nên dường như các em chưa quan tâm
nhiều đến lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha ta.Các em chưa
biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu về các nguồn sử liệu.
Do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của phân mơn Lịch sử trong
đời sống xã hội, một số học sinh cho rằng học lịch sử có quá nhiều sự kiện, q
nhiều mốc thời gian nên khó nhớ vì vậy các em thường không chú ý đến học
lịch sử. Một số có thái độ xem thường bộ mơn Lịch sử, coi đó là mơn học phụ,
dẫn đến hậu quả học sinh không hiểu được những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ
sai, nhớ nhầm kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến ở trường, ở lớp.
Do ảnh hưởng của thời kì hội nhập, của phim truyện nước ngồi, của

mạng Internet, của trị chơi điện tử,… đã tác động khơng nhỏ đến những học
sinh thiếu động cơ, thái độ học tập dẫn đến việc các em sao nhãng học hành, ít
đọc sách, ít học bài, nhất là phân môn Lịch sử. Qua nghiên cứu thực trạng, tôi
tiến hành khảo sát chất lượng học sinh.
7.1.5 Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử lớp 5
Xuất phát từ nghiên cứu lí luận dạy và học lịch sử và căn cứ vào thực
trạng của trường, tôi đã tiến hành một số biện pháp sau.
a) Biện pháp 1: Phân loại từng dạng bài
*Qua giảng dạy, nghiên cứu, tôi chia thành các dạng bài sau:
- Dạng bài cung cấp kiến thức mới: Dạng bài này thường đề cập tới các
nội dung:
+ Tình hình kinh tế - chính trị, văn hố - xã hội.
+Hoạt động của một số nhân vật lịch sửđiển hình.
+ Các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng, chiến dịch, tiến cơng.
+ Các thành tựu về văn hố, nghệ thuật, khoa học, giáo dục.
- Dạng bài ôn tập, tổng kết: Bài ôn tập tổng kết là loại bài nhằm hệ thống
hóa và củng cố lại những kiến thức đã học cho học sinh sau mỗi thời kì (giai

7
skkn


đoạn lịch sử, giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, nhận thức lịch sử một
cách sâu sắc, toàn diện hơn).
* Tổ chức dạy học theo từng dạng bài.
- Bài học có nội dung về tình hình chính trị- kinh tế, văn hóa - xã hội
Dạng bài này có nhiều ở trong chương trình Lịch sử lớp 5, nhằm cung cấp
cho học sinh những hiểu biết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước ta sau
mỗi thời kì nhất định. Khi dạy dạng bài này, tơi thực hiện theo các bước sau:
+Mơ tả tình hình nước ta thời kì đó (Tình cảnh đất nước, chính quyền;

cuộc sống nhân dân).
+ Trong tình cảnh đó chính quyền hay nhân dân, nhân vật lịch sử đã làm
gì? Làm như thế nào?
+ Kết quả của những việc làm đó.
Ví dụ, đối với bài 12 “Vượt qua tình thế hiểm nghèo”, cần cho học sinh
biết được :
Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám như thế nào? (Khó khăn
chồng chất: đế quốc và các thế lực phản động bao vây; nạn đói, nạn dốt…).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gì để giải quyết nạn đói, khó khăn tài chính,
nạn dốt và giặc ngoại xâm ? (Lập “hũ gạo cứu đói”, tổ chức “ngày đồng tâm”,
kêu gọi tăng gia sản xuất; phát động “ Tuần lễ vàng” ; phát động phong trào xóa
nạn mù chữ ; ngoại giao mền dẻo, khôn khéo)… Khi kết luận kiến thức này cho
học sinh, tôi luôn khai thác triệt để tranh trong sách giáo khoa kết hợp với các
tư liệu mình thu thập phục vụ bài dạy để bài học thêm sinh động và giúp học
sinh dễ nhớ, nhớ lâu hơn.
Kết quả của những biện pháp đó là gì? (Từng bước đẩy lùi giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm).
- Dạng bàicó nội dung về các nhân vật lịch sử:
Trong chương trình Lịch sử lớp 5 khơng giới thiệu tiểu sử của các nhân
vật lịch sử mà thông qua những sự kiện cơ bản trong sự nghiệp của các nhân vật
để làm sáng tỏ lịch sử dân tộc. Bởi vậy, giáo viên phải biết khai thác tốt các sự
kiện để làm nổi bật nhưng hoạt động và công lao to lớn của nhân vật. Khi dạy
những bài về nhân vật lịch sử, tơi ln ghi nhớ:
+ Mỗi bài đều có hình ảnh (tranh vẽ hoặc chân dung), thông tin về thân
thế sự nghiệp của nhân vật lịch sử để giúp học sinh biết được diện mạo cũng
như đặc điểm, tính cách nổi bật… của nhân vật vì thế tơi u cầu học sinh sưu

8
skkn



tầm tranh ảnh hoặc tư liệu về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử đó.
Kết hợp với đọc sách giáo khoa trước ở nhà để nắm được nội dung của bài mới
về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử trước khi đến lớp để học sinh có
thể tự trình bày về nhân vật lịch sử đó trên cơ sở hiểu biết đã có của mình.
+Bằng cách dẫn chuyện, trước khi nhắc đến nhân vật lịch sử nào đó, tơi
ln chú ý cung cấp các thông tin để học sinh biết được những nét sơ lược về
bối cảnh lịch sử (không gian, thời gian) mà nhân vật hoạt động. Thường là kết
bằng một số câu hỏi gợi sự hứng thú, trí tị mị ở học sinh : Nhân vật đó là ai ?
Đã cống hiến gì cho đất nước? Những việc ơng làm có ảnh hưởng gì đến cơng
cuộc giải phóng đất nước?...
+ Những bài học lịch sử trong đó các nhân vật có những lời đối thoại đắt giá
thể hiện phẩm chất cao quí của nhân vật, học sinh có thể tự đóng vai để diễn lại.
Ví dụ về bài “ Bình tây Đại ngun sối” Trương Định , trước hết tơi sẽ
phân ra các ý chính của bài, trên cơ sở đó tổ chức cho học sinh tìm hiểu. Cụ thể,
cho học sinh thấy được các ý cơ bản sau:
Trương Định là người như thế nào? (Tôi dựa vào đoạn thông tin tham
khảo trong sách giáo viên trang 11 để giới thiệu, khắc họa hình ảnh của nhân
vật)
Khi nhận được lệnh bãi binh của triều đình, nghĩa qn và dân chúng đã làm
gì ? (tơi miêu tả lại cuộc đấu tranh trong nội tâm của nhân vật để học thấy rõ).
Trương Định đã làm gì để đáp lại lòng tin yêu của nhân dân? (đàm thoại
với học sinh để học sinh nêu).
Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, tơi tiến hành giáo dục tư tưởng,
tình cảm, thái độ cho học sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với
nhân vật lịch sử một cách tự nhiên, hiệu quả.
- Bài có nội dung đề cập tới các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến
thắng, chiến dịch, phản công, tiến công…:
Dạng bài này chúng ta cần làm rõ:
+ Nguyên nhân (hoặc hoàn cảnh) dẫn đến cuộc khởi nghĩa / cuộc kháng

chiến/ chiến dịch đó.
+ Diễn biến cuộc khởi nghĩa / kháng chiến / chiến dịch đó.
+ Kết quả và ý nghĩa.
Hầu hết các bài đều có lược đồ, bản đồ nên việc sưu tầm tranh ảnh tư liệu
là rất quan trọng để các em dễ hình dung, dễ nhớ, nhớ lâu các sự kiện đó. Chính

9
skkn


vì vậy tơi u cầu học sinh sưu tầm tranh ảnh từ ở nhà, đọc trước sách giáo khoa
kết hợp với những tư liệu sưu tầm được hoặc do giáo viên cung cấp để nắm
vững được nội dung bài. Học sinh được trình bày trên cơ sở hiểu biết đã có của
mình.Với dạng bài này, một trong những phương pháp dạy học không thể thiếu
được là phương pháp trực quan. Những phương tiện trực quan được sử dụng
nhiều để dạy môn lịch sử là: Tranh ảnh ; Bản đồ lịch sử ; Các phương tiện nghe
nhìn; Di tích lịch sử; Nhà bảo tàng lịch sử và một số nhà bảo tàng khác. Do đó
trước bài dạy, tơi đối chiếu với những phương tiện mà nhà trường đã trang bị để
chủ động trong bài dạy, cùng phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong việc
sưu tầm, đóng góp cho nhà trường. Chủ động đề nghị với Ban giám hiệu cho
học sinh khối lớp 5 được đi tham quan di tích lịch sử hoặc bảo tàng lịch sử ở địa
phương hoặc yêu cầu phụ huynh học sinh tạo điều kiện tự đưa con em mình đi
tham quan những nơi đó.
- Dạng bài ơn tập, tổng kết
Giáo viên cần nêu được nhiệm vụ phải giải quyết của bài rồi tiến hành tổ
chức cho học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong tiến trình
bài học giáo viên cần thu hút tất cả học sinh vào cơng việc, phát huy cao nhất
tính tích cực của học sinh trong việc trao đổi những câu hỏi mà giáo viên đặt ra,
thực hiện các công việc như vẽ sơ đồ, lập bảng niên biểu, thống kê, tìm các dẫn
chứng… Vì vậy tơi ln lựa chọn các phương pháp và hình thức sinh động tạo

hứng thú cho học sinh ví dụ trị chơi học tập…
b) Biện pháp 2: Sử dụng linh hoạt các phương pháp tạo hứng thú học
Lịch sử cho học sinh
* Phương pháp kể chuyện
Đặc trưng nổi bật nhất của nhận thức lịch sử là con người khơng thể tri
giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc đã
diễn ra, là hiện thực trong qua khứ, là tồn tại khách quan khơng thể phán đốn,
suy luận,… để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của bộ môn Lịch
sử là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp nhận thông tin từ các tư liệu, tiếp
xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở họ những
hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về sự kiện, hiện tượng lịch sử; tạo ra ở học
sinh những biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời
gian, không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Vậy tái tạo bằng
những phương thức nào? Trước hết, phải kể đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh
của giáo viên. Đó là tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật

10
skkn


lịch sử. Miêu tả thường được sử dụng khi dạy các nội dung về: địa danh lịch sử,
quang cảnh, không khí của buổi lễ...Tường thuật miêu tả cịn được sử dụng khi
dạy diễn biến của một chiến dịch, khởi nghĩa...
Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Quyết chí ra đi tìm đương cứu nước” giáo viên có
thể dùng phương pháp kể chuyện để tìm hiểu về thời niên thiếu của Bác. Thông
qua câu chuyện “Nguyến Tất Thành 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế” Nội dung
câu chuyện là sự nghèo khó trong tuổi thơ của Bác ở vùng quê nghèo và truyền
thống hiếu học của gia đình Bác.
Ví dụ 2: Bài “ Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ”
Hoạt động kể về tấm gương anh dũng trong chiến đấu. Giáo viên dùng

phương pháp kể chuyện kể cho học sinh nghe câu chuyện về anh Tơ Vĩnh Diện
lấy thân mình chèn pháo, Phan Đình Giót lấp lỗ châu mai, Bế Văn Đàn lấy
thân mình làm giá súng…
Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng : Bế Văn Đàn là người dân tộc
Tày, quê ở Cao Bằng, xuất thân trong một gia đình nghèo có truyền thống cách
mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm, lớn lên đồng chí tham gia hoạt động du
kích. Trong chiến dịch Đơng Xn (1953- 1954) làm liên lạc tiểu đoàn. Mặc cho
bom rơi, đạn nổ, đồng chí đã dũng cảm vượt qua lưới đạn dày đặc của quân
địch, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính xác. Trong khi đó,
trận chiến diễn ra ngày càng ác liệt, đồng chí được lệnh ở lại đại đội chiến đấu.
Địch phản kích lần thứ ba, chúng điên cuồng tiến, đại đội bị thương vong nhiều,
bản thân đồng chí cũng bị thương, nhưng đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu. Một
khẩu trung liên của đại đội khơng bắn được vì xạ thủ hy sinh, khẩu trung liên
của Chu Văn Pù cũng khơng bắn được vì khơng có chỗ đặt súng. Trong tình thế
khẩn trương, khơng ngần ngại Bế Văn Đàn chạy lại cầm hai khẩu trung liên kê
lên vai mình và hơ đồng đội bắn. Đồng chí Pù cịn do dự, Bế Văn Đàn hơ lớn :
“Kẻ thù trước mặt, bắn chết chúng nó đi”. Trong lúc lấy thân mình làm giá
súng, đồng chí cịn bị hai vết thương nữa và đã hy sinh nhưng trên vai vẫn ghì
chặt giá súng. Tấm gương dũng cảm của đồng chí đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên
tồn mặt trận hăng hái thi đua giết giặc lập công. Sau đó cho học sinh quan sát
ảnh.
Học sinh Tiểu học rất thích nghe kể chuyện, khi vận dung phương pháp
này học sinh thấy nhẹ nhàng, dễ nhớ nhưng cũng cần lưu ý thời gian kể chuyện
chỉ khoảng vài phút còn lại để thời gian cho các em tiếp xúc với các nguồn sử
liệu để hình thành các biểu tượng lịch sử.

11
skkn



* Phương pháp trực quan
So với lời nói của giáo viên, các phương tiện trực quan có ưu thế lớn: tạo
ra hình ảnh lịch sử cụ thể, sinh động, chính xác hơn, giúp học sinh thuận lợi hơn
trong việc tạo biểu tượng lịch sử. Vì vậy tơi ln quan tâm đến phương tiện trực
quan kết hợp với lời nói sinh động của mình.
Ví dụ1: Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”. Giới thiệu bài
tơi sử dụng máy chiếu chiếu hình ảnh bến Nhà Rồng và hỏi: Đố các em biết hình
ảnh trên là địa danh nào? Học sinh sẽ hào hứng trả lời, lôi cuốn các em vào tiết
học.Sau đó tơi dùng lời để giới thiệu bài mới.
Hoạt động tìm hiểu về Nguyễn Tất Thành (ngày sinh, quê quán)
Dựa vào sách giáo khoa tôi yêu cầu học sinh cho biết ngày sinh của
Nguyễn TấtThành? Sau khi học sinh trả lời, tơi chiếu hình ảnh Nguyễn Tất
Thành trên màn chiếu kèm theo chú thích năm sinh (lưu ý bức ảnh này được
chụp vào năm 1911, lúc Người 21 tuổi).
Về quê quán, tôi treo bản đồ yêu cầu học sinh chỉ q Bác trên bản đồ.
Tiếp đó, tơi giới thiệu cho học sinh xem một số hình ảnh về q Bác. Qua
những hình ảnh đó học sinh sẽ thấy được Bác Hồ của chúng ta sinh ra từ vùng
q của xứ Nghệ nghèo khó “ít cơm nhiều cháo xoay vần quanh năm” nhưng
cũng là vùng đất địa linh nhân kiệt đã sản sinh ra nhiều bậc danh nhân, hào kiệt.
Ví dụ 2: Dạy bài “Tiến vào Dinh Độc Lập”
Khi kể lại sự kiện xe tăng của ta tiến vào Dinh Độc Lập, giáo viên trình
bày trận đánh trên sơ đồ chiến lược cho học sinh dễ hình dung: Chiến dịch Hồ
Chí Minh bắt đầu vào lúc 17 giờ ngày 26 - 4 - 1975. Quân ta chia làm 5 cánh
qn tiến vào Sài Gịn. Tại mũi tiến cơng phía đơng, dẫn đầu là lữ đồn xe tăng
203. Bộ chỉ huy chiến dịch giao cho lữ đoàn nhiệm vụ phối hợp với đơn vị bạn
cắm lá cờ Cách mạng lên nóc Dinh Độc Lập. Chiếc xe tăng 843 của đồng chí
Bùi Quang Thận đi đầu…. Xe tăng 843 lao vào cổng phụ và bị kẹt lại, xe tăng
390 do đồng chí Vũ Đăng Tồn chỉ huy lập tức húc đổ cổng chính Dinh Độc
Lập tiến thẳng vào.
Đồng chí Bùi Quang Thận nhảy khỏi xe cầm cờ lao lên bậc thềm của tịa

nhà. Lá cờ tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tiếng hò reo của nhân dân mừng
giờ phút lịch sử đất nước được thống nhất và độc lập, Bắc Nam sum họp một

12
skkn


nhà. Qua đó các em thấy được cái hào hùng, oanh liệt trong chiến dịch này.
Những hình ảnh đó sẽ khắc sâu vào trí nhớ các em.
Đồ dùng trực quan với tôi không nhất thiết là các tranh ảnh sưu tầm, phim
tài liệu, tư liệu lịch sử từ bên ngoài mà một vấn đề quan trọng trong việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử chính là khai thác hệ thống kênh
hình trong sách giáo khoa. Kênh hình trong sách giáo khoa khơng chỉ có ý nghĩa
minh họa bài viết, góp phần tạo ra sự sinh động, hấp dẫn của bài viết mà còn là
nguồn tư liệu để chúng ta tổ chức cho HS lĩnh hội kiến thức.Để khai thác tốt
kênh hình, tơi ln xác định rõ kiến thức cơ bản của bài học và chuẩn bị một số
câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh để gợi ý các em tự khai thác kiến thức từ
kênh hình.
Khi hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình, tơi thực hiện qua các bước:
+Giới thiệu kênh hình (tranh ảnh, bản đồ, lược đồ...)
+ Giải thích các kí hiệu, quy ước (bản đồ, lược đồ) hoặc giới thiệu các
nhân vật, sự kiện, trong tranh.
+ Tổ chức cho học sinh khai thác kênh hình bằng việc yêu cầu học sinh
quan sát kênh hình theo các câu hỏi gợi ý.
+ Yêu cầu học sinh nêu nhận xét của mình, cho học sinh khác nhận xét,
bổ sung.
+ Giáo viên kết luận nội dung kênh hình.
* Phương pháp đóng vai:
Trị chơi đóng vai có ý nghĩa quan trong việc khắc họa kiến thức một cách
nhẹ nhàng, tự nhiên, phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời tạo ra một

giờ học sinh động, hấp dẫn.Tuy nhiên không phải bài học nào cũng tổ chức trị
chơi đóng vai.Thơng thường, trong nội dung bài học đề cập tới nhân vật lịch sử
thì có thể tổ chức trị chơi đóng vai.Trong chương trình Lịch sử lớp 5 có thể tổ
chức trị chơi đóng vai trong một số bài học.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, tơi sẽ cho học
sinh đóng vai để làm nổi bật quyết tâm tìm tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất
Thành bằng cách cho một học sinh dẫn chuyện, một học sinh đóng vai Nguyễn
Tất Thành, một học sinh đóng vai Tư Lê để tái hiện lại cuộc trò chuyện giữa
Nguyễn Tất Thành và Tư Lê. Khi dạy bài “Tiến vào Dinh Độc Lập”, tơi cũng tổ
chức cho một học sinh đóng vai Dương Văn Minh, một vài học sinh đóng vai
các chiến sĩ cách mạng, các thành viên Chính phủ của chính quyền Sài Gòn để

13
skkn


thấy được thái độ của Tổng thống Dương Văn Minh và các thành viên chính
quyền Sài Gịn khi qn giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập.
* Phương pháp vấn đáp
Vấn đáp có thể giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chắc chắn.
Phương pháp này kích thích tính độc lập sáng tạo trong học tập, bồi dưỡng năng
lực diễn đạt bằng lời nói cho học sinh.
Ví dụ: Dạy bài “Vượt qua tình thế hiểm nghèo”. Giáo viên hỏi:
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gì để đẩy lùi giặc đói, giặc dốt và giặc
ngoại xâm? (Lập “hũ gạo cứu đói”, tổ chức “ngày đồng tâm”, kêu gọi tăng gia
sản xuất ; phát động “Tuần lễ vàng” ; phát động phong trào xóa nạn mù chữ ;
ngoại giao mền dẻo, khơn khéo ;…).
+ Kết quả của những biện pháp đó là gì? (Từng bước đẩy lùi giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm.)
Đặt ra câu hỏi u cầu học sinh phải tìm tịi, phải có cảm nhận riêng của

mình.Khi trả lời được học sinh sẽ cảm thấy phấn khởi vì trình độ, khả năng của
mình so với các bạn trong lớp, các em sẽ hứng thú học tập, tiếp tục chú ý nghe
giảng, trả lời các câu hỏi.Từ đó tạo khơng khí học tập sơi nổi trong lớp.Để sử
dụng phương pháp này có hiệu quả, tôi luôn đầu tư vào việc xây dựng các câu
hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, tường minh tránh những câu hỏi rườm rà, khơng có tác
dụng phát triển tư duy và luôn ghi nhớ một phần bài học, không nên đặt ra quá
nhiều câu hỏi.
* Trò chơi học tập
- Trò chơi giải mật mã
Với trị chơi này có thể sử dụng để củng cố bài hoặc cũng có thể sử dụng
trong các hoạt động làm bài tập lịch sử. Đặc biệt khi giáo viên muốn nhấn mạnh
một sự kiện lịch sử quan trọng hay nhân vật lịch sử có cơng lớn đối với đất
nước.
Ví dụ: Dạy bài “Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc Lập”, để củng cố lại bài
học, tôi sử dụng trò chơi “giải mật mã” như sau:
Chuẩn bị: giáo viên chuẩn bị các dữ kiện lịch sử, các dữ kiện có liên quan
đến một nhân vật hay một sự kiện lịch sử được coi là “mật mã”. Mỗi dữ kiện là
một câu hỏi, có thể có gợi ý để học sinh trả lời. Sau khi tìm được tất cả các dữ
kiện HS sẽ có căn cứ để xác định “mật mã”.

14
skkn


Sử dụng trò chơi: giáo viên đưa ra một một bơng hoa có số cánh tương
đương các dữ kiện lịch sử đã chuẩn bị, nhụy hoa là “mật mã”. Giáo viên đọc các
câu hỏi để học sinh tìm ra dữ kiện ẩn trong mỗi cánh hoa.
Cánh hoa 1: Ngày 5 - 6 - 1911 diễn ra sự kiện lịch sử quan trọng gì?
Cánh hoa 2: Ngày được chọn làm ngày kỉ niệm Cách mạng tháng Tám
thành công là ngày nào?

Cánh hoa 3: Ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là
ngày nào?
Cánh hoa 4: “Hỡi đồng bào cả nước.Tất cả mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm
được,…quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” là đoạn
trích trong tác phẩm nào?
Khi đã tìm được câu trả lời ở tất cả các cánh hoa, giáo viên hướng dẫn học
sinh tìm mối liên hệ giữa các sự kiện để tìm ra mật mã.
Đáp án:
Cánh hoa 1: Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Cánh hoa 2: 19 - 8
Cánh hoa 3: 2 - 9 - 1945
Cánh hoa 4: Tuyên ngôn Độc Lập
Mật mã: Bác Hồ đọc Tun ngơn Độc Lập.
- Trị chơi ô chữ kì diệu
Sau phần ôn tập, tổng kết giáo viên có thể cho học sinh chơi trị chơi ơ
chữ để củng cố kiến thức
Ví dụ, khi dạy bài “ Ôn tập” giai đoạn “ Bảo vệ chính quyền non trẻ,
trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp”, tơi sử dụng trị chơi ơ chữ.
Cách chơi: Ơ chữ kì diệu gồm 11 hàng ngang và 1 hàng dọc. Các đội chơi
có quyền chọn ơ chữ bất kì, có thể lựa chọn trả lời ô chữ hàng dọc bất cứ lúc
nào. Thời gian suy nghĩ của mỗi ô chữ là 15 giây, mỗi đáp án đúng được 1 bông
hoa. Riêng ô chữ hàng dọc được 3 bông hoa.
Hàng ngang số 1 gồm 6 chữ cái: Ngày 2-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn Độc lập tại đâu?

15
skkn



Hàng ngang số 2 gồm 7 chữ cái: Tìm từ còn thiếu vào chỗ trống trong
câu: “Sau Cách mạng tháng Tám nhân dân ta phải đương đầu với …, giặc dốt và
giặc ngoại xâm.”
Hàng ngang số 3 gồm 7 chữ cái: năm 1947 diễn ra chiến dịch nào?
Hàng ngang số 4 gồm 8 chữ cái: Quan sát hình ảnh sau và cho biết đó là
nhân vật lịch sử nào?
Hàng ngang số 5 gồm 8 chữ cái: Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ người
anh hùng nào lấy thân mình làm giá súng?
Hàng ngang số 6 gồm 10 chữ cái: Ai là một trong những người đầu tiên
xây dựng và là “Quản đốc Xưởng Quân giới ở chiến khu Việt Bắc”?
Hàng ngang số 7 gồm 8 chữ cái: Năm 1950, chiến thắng nào tạo
chuyển biến cơ bản cho cuộc kháng chiến: từ đây ta nắm quyền “Chủ động
trên chiến trường”?
Hàng ngang số 8 gồm 12 chữ cái: trong Chiến dịch Điện Biên Phủ người
anh hùng nào đã lấy thân mình lấp lỗ châu ma?
Hàng ngang số 9 gồm 8 chữ cái: Chiến dịch Việt Bắc năm 1947 được ví
như: “mồ chơn…”?
Hàng ngang số 10 gồm 10 chữ cái: đây là phân khu trung tâm do Pháp
xây dựng ở Điện Biên Phủ.
Hàng ngang số 11 gồm 8 chữ cái: Tìm từ cịn thiếu trong câu “Kháng
chiến, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh và … sự ủng hộ của quốc tế?
Tóm lại, trong dạy học Lịch sử, học sinh chỉ học tập có kết quả cao khi
chính các em tiếp cận với các nguồn sử liệu và tự rút ra bài học dưới sự tổ chức,
dẫn dắt của giáo viên.Bởi vậy, giáo viên cần kết hợp một cách nhuần nhuyễn các
phương pháp dạy học.
c)Biện pháp 3: Chú trọng dạy học trên lớp.
Trước kia chúng ta thường quan niệm học lịch sử là phải học thuộc, nạp
vào bộ nhớ của học sinh theo lối thầy đọc, trò chép, học thuộc lòng theo thầy,
theo sách giáo khoa là đạt yêu cầu. Nhưng học tập lịch sử theo quan niệm hiện
đại không phải là theo cách trên mà là: học sinh thông qua làm việc với sử liệu

mà tạo ra hình ảnh lịch sử, tự xậy dựng, tự hình dung về quá khứ lịch sử đã diễn
ra. Cơ sở nhận thức cá thể, độc lập đó, bằng các biện pháp tương tác xã hội (học
theo nhóm, học cả lớp, đối thoại thầy trị...) mà học sinh xây dựng sự nhận thức

16
skkn


đúng đắn về môn lịch sử. Muốn làm đuợc điều đó khi dạy học trên lớp, tơi tiến
hành qua các bước sau:
- Bước thứ nhất: Định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập.
Đầu giờ học, hoặc đầu mỗi phần của bài học, bằng nhiều phương pháp
khác nhau giáo viên nêu vấn đề (câu hỏi) để hướng học sinh vào vấn đề cần giải
quyết.
Ví dụ: Bài Thu đơng 1947, Việt Bắc “mồ chôn giặc Pháp” phần giới thiệu
bài giáo viên nói: Sau tiếng súng mở đầu ở Hà Nội ngày 19 - 12 - 1946 quân dân
ta đã phá tan kế hoạch tấn công Việt Bắc của địch trong chiến dịch Thu - đơng
1947. Vì sao lại xuất hiện chiến dịch này?Diễn biến của chiến dịch ra sao?Ý
nghĩa của chiến dịch là gì?Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu qua bài hôm nay Thu
- đông 1947, Việt Bắc “mồ chôn giặc Pháp”.
- Bước thứ hai: Tổ chức cho học sinh tiếp cận các nguồn sử liệu
Việc tổ chức cho các em tiếp cận các nguồn sử liệu (kênh hình, kênh chữ)
trong sách giáo khoa giúp các em có những hình ảnh cụ thể vế các sự kiện, hiện
tượng lịch sử.Đây là khâu cực kì quan trọng trong quá trình nhận thức lịch
sử.Bởi nếu khơng dựa trên các hình ảnh của sự kiện thì học sinh khơng thể nhận
thức và tư duy.Ở bước này, chúng ta có thể trình bày các sự kiện, sự việc, hiện
tượng bằng phương pháp tường thuật, miêu tả, kể chuyện, kết hợp với các
phương tiện trực quan. Hoặc học sinh làm việc với các sự kiện được trình bày
trong sách giáo khoa hoặc tư liệu bổ sung qua các phiếu học tập.
- Bước thứ ba: Tổ chức cho học sinh làm việc, tự giải quyết các nhiệm vụ

học tập đã nêu ra.
Ở bước này, học sinh có thể trình bày ý kiến cá nhân (viết hoặc nói), cũng
có thể trao đổi, thảo luận trong nhóm để rút ra những ý kiến chung.
Ví dụ1: Với bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” Khi tìm hiểu một
vài nét về thời thơ ấu của Nguyễn Tất Thành. Học sinh đọc sách giáo khoa từ
đầu ....người dân Việt Nam thời ấy”, kết hợp với những mẩu chuyện, câu chuyện
đã sưu tầm để nói lên được thời thơ ấu của Nguyễn Tất Thành (làm cá nhân).
Khi tìm hiểu về sự kiện Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước:
Học sinh đóng vai: người dẫn chuyện, Nguyễn Tất Thành và anh Lê theo đoạn 3
của bài. Từ đó học sinh sẽ trả lời được một loạt câu hỏi theo định hướng của
giáo viên. Nguyễn Tất Thành dự định đi đâu? Người sang đó để làm gì? Người
ra đi gặp hồn cảnh như thế nào? Thơng qua hai bức ảnh “Bến nhà Rồng” và
“Tàu La-tu-sơ Tờ-rê-vin” học sinh dễ dàng hình dung được sự kiện lịch sử quan
17
skkn


trọng này. Từ đó các em sẽ thảo luận rồi cử đại diện nhóm lên trình bày để rút ra
bài học.
Ví dụ 2: Bài Thu - đơng 1947, Việt Bắc “mồ chôn giặc Pháp” để giảng
nguyên nhân xuất hiện chiến dịch, tơi treo bản đồ hành chính Việt Nam, để học
sinh chỉ được 6 tỉnh thuộc căn cứ địa Việt Bắc từ đó nắm vững được vị trí của
căn cứ địa Việt Bắc trên bản đồ Việt Nam. Sau đó học sinh thảo luận trong
nhóm để tìm ra được ngun nhân xuất hiện chiến dịch từ những cơ sở gợi ý của
phiếu học tập và nội dung sách giáo khoa rồi viết ý kiến ra phiếu học tập để trình
bày. Để giảng về diễn biến của chiến dịch, tôi giới thiệu lược đồ của chiến dịch
để học sinh nắm được. Các em dựa vào lược đồ sách giáo khoa để trình bày ra
phiếu học tập và cử đại diện trình bày lại diễn biến theo phiếu học tập của nhóm
mình. Các nhóm khác nhận xét bổ xung nếu thiếu.Sau đó học sinh được trực tiếp
lên chỉ lược đồ để nói lại diễn biến của chiến dịch. Để tái hiện lại khơng khí hào

hùng của qn và dân ta trên trận đánh sông Lô: gây cho địch tổn thất lớn, tôi
cho để các em cùng nghe ca khúc “Sông Lô”của nhạc sĩ văn Cao. Ở phần củng
cố, tôi yêu cầu các em lên thuyết minh về những bức tranh hay những bài thơ
các em đã sưu tầm được theo nhóm có liên quan đến chiến khu Việt Bắc để các
em có thể hình dung được căn cứ địa kháng chiến nơi Bác Hồ - Đảng - Chính
phủ đã hoạt động lâu dài để chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp của ta. Chính
nhờ việc sử dụng phong phú đồ dùng dạy học giúp học sinh gần gũi với các sự
kiện, nhân vật lịch sử hơn dễ gây cho các em ấn tượng sâu sắc, hứng thú tìm tịi,
học tập. Nó tạo điều kiện cho học sinh dễ nhớ, nhớ lâu và từ đó phát triển năng
lực quan sat, óc tị mị khoa học. Đặc biệt, nó phù hợp với đặc điểm nhận thức,
đặc điểm lứa tuổi của các em.
Bước thứ 4: Kết luận vấn đề.
Việc giáo viên chốt lại kiến thức, khẳng định kiến thức hoặc liên hệ mở
rộng là việc làm rất cần thiết. Bởi vì: những thơng tin học sinh thu lượm được
còn rời rạc, kiến thức mà các em thu lượm được khác nhau, đôi khi sai lệch hoặc
chưa chuẩn. Chính vì vậy, giáo viên phải chốt lại chuẩn kiến thức, từ đó mở
rộng vừa tầm học cho học sinh, gây cho các em sự hứng thú trong giờ học. Ví
dụ: Bài “Chiến dịch Biên giới thu - đơng năm 1950” Khi tìm hiểu về diễn biến
của chiến dịch. Sau khi học sinh đọc sách giáo khoa, quan sát lược đồ, trao đổi,
thảo luận trong nhóm để trình bày lại diễn biến của chiến dịch. Giáo viên sẽ chốt
lại và mở rộng: Sáng sớm ngày 16 - 9 - 1950, quân ta nổ súng đánh chiếm cứ
điểm Đông Khê, mở màn cho chiến dịch. Đông Khê là cụm cứ điểm quan trọng

18
skkn


nằm trên đường số 4 ở giữa Cao Bằng và Thất Khê và cũng là một mắt xích nối
hai khu vực này. Đánh Đông Khê trước tiên mà không đánh vào các nơi khác là
chủ trương sáng suốt, tài tình của ta vì: Trên phịng tuyến này Cao Bằng, Thất

Khê lực lượng của địch rất mạnh, nếu đánh vào đây quân ta sẽ bị tổn thất nhiều.
Do đó ta đánh vào Đơng Khê là một mắt xích yếu của địch thì Cao Bằng sẽ bị cơ
lập, Thất Khê sẽ bị uy hiếp từ đó để tiêu hao nhiều sinh lực địch. Chính vì vậy, ở
Đơng Khê địch khơng giám phản kích chỉ cố thủ, máy bay địch yểm trợ bắn phá
suốt ngày đêm. Quân ta chiến đấu dũng cảm, cuộc chiến đấu diễn ra gay go
trong từng lô cốt của địch. Chính vì Đơng Khê quan trọng như vậy nên Bác Hồ
đã ra chỉ đạo trực tiếp trận đánh ở đài quan sát trên đồi cao. Nhiều tấm gương
chiến đấu dũng cảm của quân ta và dân ta đã xuất hiện. Trong đó nổi bật là tấm
gương của chiến sĩ bộc phá La Văn Cầu đã nhờ đồng đội chặt đứt cánh tay bị
thương rồi tiếp tục xông lên phá lô cốt địch, nêu cao lá cờ đầu trong phong trào
thi đua “giết giặc, lập công”. Sau 54 giờ chiến đấu, ngày 18 - 9 - 1950, bộ đội ta
đã tiêu diệt hồn tồn cụm cứ điểm Đơng Khê. Sau khi mất Đông Khê, quân
Pháp được lệnh rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4 để phối hợp với cánh qn
khác từ Thất Khê lên hịng chiếm lại Đơng Khê. Đốn được ý định đó của giặc,
qn ta mai phục trên đường số 4 khiến hai cánh quân từ Cao Bằng về và từ
Thất Khê lên không liên lạc được với nhau, địch bị tiêu diệt ở nhiều nơi, bị bao
vây chặt khơng cịn con đường thốt chúng ra hàng lũ lượt. Một lần nữa ta lại
thấy sự chỉ đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ: Chỉ cần đánh một điểm yếu mà hai
điểm khác phải dấn thân vào chỗ chết. Chiến dịch Biên giới thắng lợi rực rỡ, ta
giải phóng được một dải biên giới Việt - Trung dài 750 km từ Cao Bằng đến tận
Đình Lập, đường số 4 sạch bóng quân thù. Và như vậy chúng ta đã đạt được 3
mục tiêu đề ra: Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên
giới Việt Trung, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc.
d) Biện pháp 4:Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lich Sử
Ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao tính tích cực trong dạy học là
xu hướng tất yếu của thời đại công nghệ thông tin. Các chức năng của công nghệ
thông tin mang lại cho con người như thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt dữ
liệu. Với lịch sử, điều này càng có ý nghĩa quan trọng bởi lịch sử là hiện thực
trong q khứ chỉ có nhờ vào các cơng cụ đa phương tiện của máy tính như văn
bản, đồ họa, hình ảnh, âm thanh, hoạt cảnh giáo viên sẽ xây dựng được bài giảng

sinh động thu hút sự tập trung của các em, dễ dàng thể hiện được các phương
pháp như phương pháp dạy học tình huống, phương pháp dạy học nêu vấn đề
đồng thời cịn tăng tính tích cực chủ động tham gia học tập của các em.Việc sử
19
skkn


dụng công nghệ thông tin giúp các em được sống lại, được chứng kiến những
giây phút lịch sử hào hùng đó. Ví dụ, khi dạy bài Chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ tôi cho các em xem đoạn phim tư liệu về sự chuẩn bị của ta để các em thấy
được quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cho chiến dịch.Hay khi
dạy bài lịch sử địa phương Giải phóng Thủ đơ 10 - 10 - 1954, tôi đã dùng đoạn
phim tư liệu Quân đội Việt Minh vào tiếp quản Hà Nội năm 1954 bản quyền
thuộc Đài truyền hình Việt Nam cho các em xem. Qua đó, tôi nhận thấy các em
dễ dàng cảm nhận được một khơng khí tưng bừng, cờ hoa ngợp trời Hà Nội khi
qn giải phóng về tiếp quản Thủ đơ. Và để các em nhớ được những nơi quân
giải phóng tiến vào tơi sử dụng lược đồ qn giải phóng tiến vào tiếp quản Thủ
đơ kết hợp với thuyết trình. Khơng những cơng nghệ thơng tin có tác dụng trong
bài giảng điện tử mà nhờ công nghệ thông tin, chúng ta dễ dàng tìm kiếm được
các nguồn tài liệu, tranh ảnh trong thư viện khơng có để phục vụ cho bài giảng
làm cho bài giảng hấp dẫn hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó tơi ln cố
gắng tiếp cận và làm giàu vốn kiến thức lịch sử để các em có những bài học hấp
dẫn.
Bên cạnh đó tơi cũng dặn các em đến các ngày lễ lớn nên đón xem trên ti
vi bởi những dịp đó thường chiếu lại các đoạn phim tư liệu, tài liệu...Khuyến
khích các em xem phim lịch sử trong nước và địa phương: Lý Công Uẩn, Đừng
đốt, Trần Thủ Độ, Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông...
e) Biện pháp 5: Tích hợp kiến thức văn học vào dạy Lịch sử
Thơ văn đã đem lại sự nhẹ nhàng, giảm bớt khô cứng trong tiết dạy sử.
Việc vận dụng một cách hợp lý kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử sẽ làm cho

giờ Lịch sử hay hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, cuốn hút học sinh hơn và cuối
cùng là làm cho tiết dạy - học Lịch sử mang lại hiệu quả cao hơn. Thường là
việc người giáo viên đọc những trích đoạn thơ về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch
sử ở phần giới thiệu bài học, phần củng cố, liên hệ, cũng có khi là cả trong phần
chính của bài. Ví dụ, khi giới thiệu bài “ Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”,
tơi đọc hoặc ngâm một trong số các đoạn trích thơ như:
“Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm con sóng dưới thân tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bến dần lui, làng xóm khuất
Bốn phía nhìn khơng bóng một hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
20
skkn



×