Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Skkn một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác tư vấn tâm lí cho học sinh vùng nông thôn miền núi tại trường thpt nghi lộc 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.38 MB, 46 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 5

LĨNH VỰC QUẢN LÍ
Đề tài:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠNG TÁC
TƯ VẤN TÂM LÍ CHO HỌC SINH VÙNG NÔNG THÔN
MIỀN NÚI TẠI TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 5

Nhóm thực hiện:
NGUYẾN ÁNH DƯƠNG – Chức vụ: Phó hiệu trưởng
NGUYỄN THỊ HỒNG MẬN - Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THPT Nghi Lộc 5 – Nghệ An

Nghi Lộc, tháng 3 năm 2021

skkn

1


Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ thứ XXI, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước đột
phá, tạo sự chuyển biến nhanh về mọi mặt trong đời sống của người Việt Nam.
Tuy nhiên, những biến động của nền kinh tế thị trường mở cửa cũng gây ra khơng
ít tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, mà
lực lượng đơng nhất chính là học sinh trung học phổ thông. Đối diện với những
vấn đề phức tạp đó, rất nhiều em sẽ khơng biết nhìn nhận, giải quyết vấn đề như
thế nào cho hợp lý. Vì thế, khi vấp phải những vấn đề tâm lý phức tạp, các em khó


có thể vượt qua. Các em có rất nhiều khúc mắc trong tâm lý, tình cảm bức xúc của
lứa tuổi, vướng mắc trong học tập, hướng nghiệp…cần được quan tâm, chia sẻ.
Việc tư vấn đối với học sinh THPT quan trọng bao nhiêu thì tư vấn cho học
sinh vùng nông thôn miền núi lại càng cần thiết bấy nhiêu. Bởi các em không chỉ
là những học sinh ở độ tuổi vị thành niên với những diễn biến tâm lí thay đổi phức
tạp, mà cùng với đó là hiểu biết, hồn cảnh sống, các mối quan hệ xã hội đặc thù
của vùng miền đã ảnh hưởng rất lớn đến học tập cũng như định hướng nghề nghiệp
của mỗi học sinh.
Trong những năm qua công tác tư vấn cho học sinh, đặc biệt là tư vấn tâm lí
học sinh tại trường THPT Nghi Lộc 5 cũng đã mang lại hiệu quả nhất định. Song
hiệu quả công tác này chưa diễn ra đồng bộ, đứng trước các tình huống phức tạp đa
số giáo viên chủ nhiệm còn lúng túng, thiếu kĩ năng cũng như sự linh hoạt.
Từ thực tế đó, chúng tơi nhận thấy việc tìm ra những biện pháp tư vấn đặc biệt
là tư vấn tâm lí học sinh vùng nông thôn, miền núi là điều vô cùng cần thiết. Với tư
cách là cán bộ quản lí, thành viên của tổ tư vấn đồng thời là một chủ nhiệm, chúng
tôi xin đề xuất đề tài nghiên cứu:
“Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác tư vấn tâm lí cho học
sinh vùng nơng thơn miền núi tại trường THPT Nghi Lộc 5”
2. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài.
2.1. Mục tiêu
- Trên cơ sở tổng hợp các biện pháp đã thực hiện tại trường phổ thông, đề tài
nhằm hỗ trợ cho học sinh vùng nông thôn miền núi trong việc gặp phải những rào
cán khó khăn tâm lí. Từ đó nâng cao hiểu biết của học sinh, phụ huynh về việc học
cũng như định hướng nghề nghiệp trong tương lai.
- Bên cạnh đó, đề tài cịn góp phần thay đổi chính quan niệm và thái độ của
thầy, cơ giáo đối với trong việc góp phần phát triển công tác dạy học, hướng tới sự

skkn

2



phát triển tồn diện, bền vững của trường phổ thơng cũng như phát huy phẩm chất
năng lực của học sinh.
2.2. Ý nghĩa
- Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa giáo dục to lớn, đó khơng chỉ là góp
phần phát triển năng lực, phẩm chất học sinh mà đó cịn đáp ứng yêu cầu giáo dục
toàn diện .
- Thực hiện tư vấn tâm lí cho học sinh vùng nơng thơn miền núi góp phần
củng cố và phát triển phong trào nề nếp học tập nói riêng, hướng tới xây dựng mơi
trường học tập đồn kết, thân thiện, phát triển năng lực và phẩm chất của người
học nói chung.
2.3. Tính mới của đề tài
- Đề tài đã đề cập đến vấn đề cấp thiết hiện nay trong đời sống học đường,
đặc biệt đã đề xuất được một số biện pháp mang tính đặc thù dành riêng cho học
sinh vùng nơng thơn miền núi.
- Đề tài thực hiện được việc đổi mới trong phương pháp quản lí nhằm hướng
tới phát triển năng lực phẩm chất cho học sinh.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Tiến hành thu thập tài liệu qua
sách, báo, các văn bản liên quan đến đề tài. Trên cơ sở đó để phân tích, tổng hợp
và rút ra những vấn đề cần thiết của đề tài.
3.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tơi trực tiếp trao đổi làm việc với học sinh,
giáo viên bộ môn giảng dạy, gia đình học sinh và tiếp nhận các hoạt động của
đồn trường THPT Nghi Lộc 5, nghành giáo dục, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh huyện Nghi Lộc, các tổ chức đồn thể trên địa bàn.
Chúng tơi sử dụng các phương pháp như: điều tra, khảo sát, quan sát sản phẩm,
tổng kết kinh nghiệm, trao đổi, lấy ý kiến góp ý của giáo viên chủ nhiệm của một
số lớp học, lấy ý kiến điều tra học sinh.…Đó là những cơ sở cho việc triển khai

cũng như khả năng ứng dụng của đề tài.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là một số biện pháp nhằm nâng cao cơng tác tư vấn tâm
lí cho học sinh vùng nông thôn miền núi tại Trường THPT 5.
Khách thể nghiên cứu là học sinh trường THPT Nghi Lộc 5.

skkn

3


Phần II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Lí thuyết cơ bản về hoạt động tư vấn.
1.1.1.Tư vấn và tư vấn tâm lí.
Khái niệm: Tư vấn là từ chỉ một hoạt động chuyên môn hoặc chỉ một nghề
nghiệp chuyên giúp người khác có thể ra quyết định và giải quyết vấn đề, nâng cao
năng lực sống cá nhân bằng phương pháp nghiệp vụ chuyên môn.
Tư vấn cho học sinh là phương pháp tác động mang tính định hướng giáo
dục tới những học sinh đang có những khó khăn tâm lý, tình cảm, những bức xúc
của lứa tuổi cần được giải đáp, những vướng mắc trong học tập, sinh hoạt, trong
hướng nghiệp, trong tìm kiếm việc làm cần được người am hiểu và có trách nhiệm
trợ giúp, tham vấn giải quyết để chọn được cách xử lý đúng, góp phần ổn định đời
sống tâm hồn, tình cảm và giúp học sinh thực hiện được nguyện vọng của mình.
Tư vấn tâm lí học đường bao gồm các hoạt động tư vấn, sẻ chia, hỗ trợ tâm
lí cũng như các vấn đề liên quan đến tâm lí, học tập, các mối quan hệ (bạn bè, gia
đình…) cho học sinh. Từ đó, giúp cho các em lấy lại cân bằng về mặt cảm xúc, tự
định hướng cho tương lai và đồng thời giúp phát hiện sớm hoặc can thiệp những
sai lệch trong cảm xúc, hành vi hay nhận thức của các em trong cuộc sống nói
chung và nhà trường nói riêng. Tư vấn tâm lí là q trình nhà tư vấn vận dụng

những tri thức, phương pháp và kỹ thuật tâm lý học nhằm trợ giúp đối tượng được
tư vấn nhận ra chính mình, từ đó tự thay đổi hành vi, thái độ, tự tái lập lại thế cân
bằng tâm lí của bản thân ở trình độ cao hơn.
Việc tư vấn tâm lí cho học sinh trong trường phổ thông cũng giúp hỗ trợ học
sinh rèn luyện kỹ năng sống; tăng cường ý chí, niềm tin, bản lĩnh, thái độ ứng xử
phù hợp trong các mối quan hệ xã hội; rèn luyện sức khỏe thể chất và tinh thần,
góp phần xây dựng và hồn thiện nhân cách.
1.1.2 . Nguyên tắc và phương pháp tư vấn
- Nguyên tắc tư vấn tâm lí cho học sinh
Theo điều 4 Thông tư 31/2017/TT-BGDĐT về hướng dẫn thực hiện cơng tác
tư vấn tâm lí cho học sinh trong trường phổ thông do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành (có hiệu lực từ ngày 02/02/2018), cụ thể như sau:
+ Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong nhà trường và sự
tham gia của cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của học sinh (gọi chung là cha

skkn

4


mẹ của học sinh) và các lực lượng ngoài nhà trường có liên quan trong các hoạt
động tư vấn tâm lí học sinh.
+ Đảm bảo quyền được tham gia, tự nguyện, tự chủ, tự quyết định của học
sinh và bảo mật thông tin trong các hoạt động tư vấn tâm lí theo quyết định của
pháp luật.
- Nội dung tư vấn: tư vấn tâm lý lứa tuổi, giới tính, hơn nhân, gia đình, sức
khỏe sinh sản, vị thành niên; tư vấn - giáo dục kỹ năng, biện pháp ứng xử văn hóa,
phịng chống bạo lực, xâm hại; tư vấn tăng cường khả năng ứng phó, giải quyết vấn
đề phát sinh trong mối quan hệ gia đình, thầy cơ, bạn bè…; tư vấn kỹ năng, phương
pháp học tập hiệu quả, định hướng nghề nghiệp (tùy theo cấp học)…

- Phương pháp tư vấn
+ Tư vấn trực tiếp
Cách thức trị liệu và tư vấn phổ biến nhất là khi thân chủ và nhà tư vấn ngồi
trong cùng một phịng, do đó cả hai bên có thể nghe và nhìn nhau (với điều kiện là
họ khơng bị khuyết tật về nhìn hoặc nghe). Cách thức truyền thống này có nhiều
ưu điểm và tạo cơ hội cho những phản hồi tức thì, với cả ngơn ngữ nói và ngơn
ngữ cử chỉ. Đây là hình thức có tính truyền thống và ln được các nhà tư vấn
khuyến khích, vì qua việc trao đổi trực tiếp, nhà tư vấn khơng chỉ nhận được các
thơng tin bằng lời nói, mà cịn đánh giá và nhận biết được các thơng tin phi ngôn
ngữ ( cử chỉ, nét mặt…) mà đây lại là những thơng tin có tính trung thực cao.
+ Tư vấn gián tiếp
Hình thức tư vấn thơng qua trực tuyến - qua mạng nội bộ, trang thông tin
điện tử của nhà trường, email, mạng xã hội, điện thoại và các phương tiện thông
tin, truyền thông các hoạt động khác nhau...
1.2. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trung học phổ thông.
Học sinh THPT bắt đầu từ 15 – 16 tuổi đến 17 – 18 tuổi. Đó là giai đoạn đầu của
tuổi thanh niên hay còn gọi là thời kỳ thanh niên mới lớn. Vị trí trung học phổ
thơng – giai đoạn của cả một thời kỳ bồi dưỡng kiến thức văn hóa chung đã khiến
thanh niên phải nghĩ đến tiền đồ của mình, nghĩ đến việc chuẩn bị bước vào đời và
lo lựa chọn nghề nghiệp mai sau. Ở lứa tuổi này các em đã có sự trưởng thành về
tư tưởng, tâm lí, là thời kỳ tự xác định về mặt xã hội, tích cực tham gia vào cuộc
sống lao động, học tập để chuẩn bị cho tương lai. Đây chính là thời kỳ nhân cách
đang trưởng thành tiến tới ổn định.
Về thể chất: Ở các em đã có một cơ thể phát triển gần ngang bằng với cơ thể
trưởng thành, các chức năng sinh lí cũng đạt được độ phát triển cao. Cơ thể đã dần
được hoàn thiện. Thể lực của các em phát triển mạnh giúp cho việc thực hiện các
công việc nặng nhọc, các công việc có kỹ thuật tốt hơn. Sự phát triển của não, hệ

skkn


5


thần kinh trung ương và các giác quan giúp các em tiếp thu những kiến thức văn
hóa, khoa học kỹ thuật và thông tin mới của xã hội rất nhanh.
Về tâm lí: Tự ý thức của học sinh THPT đã phát triển ở mức cao, có liên
quan đến nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những thuộc tính tâm lí, đạo đức theo quan
điểm sống, ước mơ và hoài bão. Các em quan tâm sâu sắc đến đời sống tâm lí
riêng, đến những phẩm chất nhân cách và năng lực của mình. Các em thường đặt
mình vào tương lai vì vậy các em thường quan tâm đến cuộc sống sau này, tình
yêu, gia đình, và sự lựa chọn bạn đời trong tương lai. Lứa tuổi này có hai loại ý
thức nổi bật đó là: Tự ý thức về hình ảnh bản thân sẽ làm cho các em tự hào hay
khổ tâm về diện mạo. Còn tự ý thức về thế giới nội tâm làm cho đời sống của
thanh niên trở nên sâu sắc, tăng cường khả năng tự giáo dục, tự hồn thiện nhân
cách của mình. Học sinh THPT có thể tự ý thức được mặt mạnh mặt yếu của mình,
ln khao khát tự hồn thiện mình. Ngược lại, nếu sự tự ý thức có sai lầm họ sẽ
khăng khăng bảo vệ quan điểm đó. Do đó với đặc điểm này giáo dục phải tác động
đến yếu tố tự ý thức, tự giác ngộ, tự điều chỉnh bản thân. Ở lứa tuổi này, yếu tố
đạo đức, tình cảm cũng hình thành mạnh mẽ. Thế giới tình cảm của các em đa
dạng, nổi bật là quan hệ tình cảm gia đình, tình bạn và tình u nam nữ: Gia đình
có ảnh hưởng đến sự phấn đấu và sự phát triển nhân cách của các em học sinh
THPT. Do ảnh hưởng giáo dục và sự trợ giúp của gia đình về các mặt, cuộc sống
tình cảm của các em phát triển đến mức độ cao. Quan hệ bạn bè giữ vai trò quan
trọng trong đời sống tình cảm của các em. Đối với các em, bạn bè trở thành chỗ
dựa tinh thần, là chỗ tâm tình thổ lộ những vướng mắc thầm kín. Lời khun của
bạn nhiều khi có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết những vấn đề quan
trọng của các em. Quan hệ với bạn khác giới tình yêu nam nữ xuất hiện, phát triển
từ quan hệ thân thiết trong tình bạn. Tình cảm lúc này thường lãng mạn, thơ mộng.
Đa số các em cũng đã nhận thức đúng đắn về tình yêu “yêu là quan trọng phải tìm
hiểu cẩn thận”. Trong giáo dục nhà trường cần quan tâm cung cấp cho các em

những kiến thức giới tính, gia đình, tình bạn và tình yêu.
Những đặc điểm tâm lí của học sinh THPT nêu trên chứng tỏ thanh niên mới
lớn là những người đã đạt tới trình độ có thể tự quyết định mọi cơng việc của mình
và nhất là có thể trực tiếp tham gia lao động. Lao động và học tập là hai hoạt động
chủ yếu của học sinh THPT. Song vui chơi vẫn có tác dụng rất lớn đối với các em
khi cần thư giãn tâm hồn và rèn luyện các phẩm chất cần thiết. Tuy nhiên cũng cần
phải nói thêm rằng, do thể lực và trí lực dồi dào, do đã có được một số kinh
nghiệm xác đáng, do trình độ hiểu biết đã được nâng cao… học sinh THPT có thể
đi đến chỗ chủ quan, tự mãn, tự đánh giá quá cao bản thân mình. Các em giàu ước
mơ, giàu lịng quả cảm nhưng nhiều khi vì nơn nóng đối với cơng việc, muốn đốt
cháy giai đoạn rồi do hấp tấp, thiếu suy tính cặn kẽ mà có thể vấp váp, bị thực tế
khách quan dội nước lạnh vào nhiệt tình của mình sinh ra bi quan, dễ chán nản. Do
vậy trong quá trình giáo dục các nhà giáo dục và các bậc cha mẹ học sinh phải kiên
trì bền bỉ giáo dục bằng phương pháp cơ bản là thuyết phục và rèn luyện thực tế.
Và nếu trong tâm lí của các em có vấn đề thì phải tính đến vai trị của chuyên gia

skkn

6


tâm lí một cách kịp thời để giúp đỡ các em để không xảy ra những suy nghĩ và
hành động tiêu cực ở các em.
2. Cơ sở thực tiễn

2.1. Khái quát chung về Trường THPT Nghi Lộc 5
Trường THPT Nghi Lộc 5 được thành lập theo quyết định 2834/QĐUBND.VX ngày 07/8/2006 của UBND tỉnh Nghệ An. Trường nằm ở vùng phía
tây, vùng kinh tế có nhiều khó khăn của huyện Nghi Lộc. Địa chỉ của trường
thuộc xóm 15, xã Nghi Lâm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Trải qua 15 năm
thành lập và hoạt động, tuy còn non trẻ nhưng nhà trường đã có nhiều cố gắng vượt

qua mọi khó khăn về cơ sở vật chất để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Hàng năm với sự tâm huyết và trách nhiệm của Ban giám nhiệu cũng như đội
ngũ giáo viên đã từng bước khắc phục mọi khó khăn để nâng cao chất lượng dạy
và học của nhà trường. Đội ngũ giáo viên của nhà trường đều đạt chuẩn, với tuổi
đời cịn trẻ, tuy chưa có nhiều kinh nghiệm trong cơng tác giảng dạy nhưng đầy
nhiệt huyết nghề nghiệp, luôn nêu cao tinh thần học hỏi các đồng nghiệp trong
cũng như ngoài trường.
Hiện nay, số lượng học sinh gồm 24 lớp, trong đó học sinh của trường chủ
yếu là các xã nông thôn miền núi của huyện Nghi Lộc gồm: Nghi Lâm, Nghi Văn,
Nghi Kiều và rải rác một số em thuộc Đại sơn, Trù Sơn ( Đô Lương)
2.2.Thực trạng đời sống tâm lí của học sinh hiện nay
Do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế- xã hội ngày càng sâu sắc, đa dạng
và phức tạp, đời sống tâm lý học sinh nói chung, học sinh cấp trung học nói riêng
đang có những biến động to lớn với nhiều biểu hiện đáng lo ngại. Các em thường
gặp những khúc mắc trong học tập, tâm sinh lí, trong mối quan hệ với thầy cơ, gia
đình, bạn bè…nếu khơng được điều chỉnh, giải tỏa kịp thời, thì rất dễ dẫn đến hậu
quả đáng tiếc: nhẹ thì chán học, bỏ học; nặng thì trầm cảm, bạo lực học đường,
thậm chí tự tử, gây án mạng.
2.3.Thực trạng đời sống tâm lí của học sinh vùng nông thôn miền núi tại
trường THPT Nghi Lộc 5.
2.3.1. Khảo sát về tâm lý, nhân cách
Kết hợp với trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, vào tháng 10 năm 2020,
chúng tơi đã có cuộc khảo sát về tâm lí học sinh tại các tập thể lớp 10A4, 10A5,
11A1, 11A3, 12A5 và phỏng vấn riêng một số cá nhân học sinh gồm: Em Nguyễn
Thị Thúy Hịa 11A3, Nguyễn Đình Vương 10A2 và em Nguyễn Thị Ngân Hà
12A1 trường THPT Nghi Lộc 5. Kết quả cho thấy những khó khăn tâm lý của học
sinh như sau:

skkn


7


Một số vấn đề các em còn gặp phải như: Tổn thương sức khỏe tinh thần như
lo âu, stress, một số trường hợp đặc biệt có những biểu hiện nhẹ của trầm cảm như
ít giao tiếp, thu mình…những khó khăn trong học tập như: khó khăn về cảm xúc,
khó khăn trong phương pháp học tập, khó khăn trong định hướng nghề nghiệp, khó
khăn trong mối quan hệ giữa cá nhân học sinh với bạn bè, gia đình và giáo viên.
Theo kết quả điều tra cho thấy, phần lớn các em học sinh đều gặp khó khăn
tâm lý về học tập, trong việc làm bài tập về nhà và khó khăn để tập trung học tập.
Khó khăn trong định hướng nghề nghiệp cũng là vấn đề mà nhiều em mắc phải,
các em cảm thấy khó khăn trong việc xác định lý tưởng, nghề nghiệp tương lai và
năng lực của bản thân. Học sinh gặp nhiều khó khăn về cảm xúc, trong đó có đến
36,8% có các biểu hiện stress ở mức cần can thiệp; 34,2% lo âu mức cần can thiệp
và 9% có các dấu hiệu trầm cảm ở mức cần nhẹ. Có hơn 45% tổng số khách thể
gặp khó khăn tâm lý trong các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ với bạn bè, sau
đó là khó khăn trong mối quan hệ với gia đình và giáo viên. Học sinh có nhu cầu
cao về tư vấn định hướng nghề nghiệp, phương pháp học tập và các vấn đề về cảm
xúc.
Khảo sát về mong muốn của học sinh: 70% học sinh mong muốn được tư
vấn là trực tuyến trên điện thoại thơng minh để đảm bảo tính bảo mật, 40% em khi
gặp khó khăn thường chia sẻ, bộc lộ cảm xúc với bạn bè, 25% em muốn chia sẻ với
bố mẹ, 15% em có nhu cầu chia sẻ cảm xúc với bạn khác giới; 9% em có chia sẻ
với thầy cô, 12% em không muốn chia sẻ cùng ai mà chỉ âm thầm chịu đựng.
2.3.2. Khảo sát về hoàn cảnh học sinh
Năm học 2020-2021 Trường THPT Nghi Lộc 5 có tổng học sinh tồn trường
gồm 961 em, hầu hết các em đều thuộc những gia đình thuần nơng, cịn khó khăn
về kinh tế. Trong đó có 4 học sinh thuộc hộ nghèo, 52 học sinh thuộc gia đình hộ
cận nghèo, 3 học sinh khuyết tật, 3 học sinh con thương binh, 335 học sinh cơng
giáo. Ngồi ra theo số lượng điều tra của các giáo viên chủ nhiệm lớp cho thấy một

số em cịn có khó khăn do có bố mẹ làm ăn xa sống một mình hoặc sống với ông
bà. cụ thể: Khối 10 gồm 18 em; khối 11 gồm 21 em; khối 12 gồm 17 em. Điều này
ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập, đến tâm lí cũng như chất lượng dạy và học
của nhà trường.
2.3.3. Khảo sát chất lượng đầu vào trường THPT Nghi Lộc 5 qua các khóa.
Khảo sát về khả năng học tập của học sinh qua chất lượng thi tuyển vào
trường THPT Nghi Lộc 5 qua các khóa cho thấy hầu hết các em có học lực cịn
yếu. Điều này khơng chỉ khó khăn trong q trình học tập mà cịn ảnh hưởng đến
tâm lí học tập, suy nghĩ và định hướng của các em .
Theo kết quả điều tra cho thấy điểm chuẩn đầu vào các năm đều giảm dần,
cụ thể năm học 2018-2019 điểm chuẩn vào lớp 10 là 15.8 điểm; Năm học 20192020 điểm chuẩn vào lớp 10 là 14.3 và năm học 2020-2021 điểm chuẩn 14.1.
2.4. Thực trạng cơng tác tư vấn tâm lí tại trường THPT.

skkn

8


Trong Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thơng và trường
phổ thơng có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Thông tư số: 12/2011/TTBGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), tại điều 16 mục
1 có nêu chức danh “ cán bộ làm công tác tư vấn cho học sinh”, tại điều 31 mục 6
nêu rõ : giáo viên làm công tác tư vấn cho học sinh là giáo viên trung học được đào
tạo hoặc bồi dưỡng về nghiệp vụ tư vấn; có nhiệm vụ tư vấn cho cha mẹ học sinh
và học sinh để giúp các em vượt qua những khó khăn gặp phải trong học tập và
sinh hoạt.
Thực trạng hoạt động: Một năm qua tổ tư vấn tâm lí trường đã đi vào hoạt
động và có những đóng góp nhất định. Công tác tư vấn tâm lý cho HS trong thời
gian qua đã có những chuyển biến tốt, đạt được những kết quả bước đầu, đáp ứng
được phần nào nhu cầu của HS và giúp các em tăng cường khả năng đề kháng, khả
năng tự giải quyết các vấn đề trước những tác động tiêu cực của xã hội, góp phần

hỗ trợ các em vượt qua những khó khăn trong học tập, rèn luyện cũng như trong
cuộc sống.
Tuy nhiên hoạt động tư vấn tâm lí cịn có những hạn chế sau:
Hiện tại, hầu hết các nhà trường chưa được bố trí biên chế cán bộ chun
trách cơng tác tư vấn tâm lý; thiếu kinh phí hoạt động. Đội ngũ cán bộ tư vấn tâm
lý đa số là các giáo viên kiêm nhiệm, các chế độ đãi ngộ chưa được quan tâm. Mặt
khác, việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác tư vấn tâm lý học đường cũng
chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng.
Tại những trường có tổ chức hoạt động tư vấn tâm lý học đường, các khó
khăn chủ yếu gặp phải là: Học sinh thường ngại đến phòng tư vấn tâm lý để “trút
nỗi lịng” do các em có suy nghĩ “đến phịng tư vấn tâm lí là có vấn đề” hoặc sợ bí
mật riêng tư bị tiết lộ hoặc quỹ thời gian của học sinh ở trường đã kín vì lịch học.
Mỗi khi gặp sự cố tâm lý mà không biết cách giải quyết, các em thường vào các
diễn đàn trên mạng, chia sẻ với bạn bè thân chứ khơng thổ lộ với gia đình hoặc
thầy cơ giáo.
3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác tư vấn tâm lí cho học sinh
vùng nơng thơn miền núi tại trường THPT Nghi Lộc 5

3.1. Phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình học sinh và các tổ chức
liên quan trên địa bàn để tăng cường hiệu quả cơng tác tư vấn.
3.1.1.Vai trị của sự kết hợp
Việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội sẽ tạo ra sự thống nhất
thực hiện mục tiêu giáo dục, đặc biệt là giáo dục các chuẩn mực đạo đức ở học
sinh. Việc phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục đảm bảo sự thống nhất
về nhận thức hành động cũng như cách thức để đạt mục tiêu quá trình phát triển
nhân cách, tránh mâu thuẫn, tránh sự tách rời, gây nên tình trạng nghi ngờ, vơ hiệu
hoá lẫn nhau, gây dao động, hoang mang đối với cá nhân trong việc tiếp thu, lựa

skkn


9


chọn các giá trị đạo đức tốt đẹp. Gia đình có ưu thế đối với việc hình thành chuẩn
mực về đạo đức trong quan hệ ứng xử, định hướng nghề nghiệp, … nhà trường có
ưu thế trong việc giáo dục các chuẩn mực đạo đức, các ý thức công dân, phát triển
kỹ năng sống, giáo dục con người một cách toàn diện…
Các đoàn thể xã hội giúp học sinh kiểm nghiệm những điều đã học được
trong nhà trường với thực tiễn trong đời sống xã hội, mở rộng kiến thức thực tế
làm cho kiến thức các em phong phú và đa dạng hơn.
Phối hợp giữa nhà trường với gia đình và lực lượng giáo dục trong xã hội sẽ
thống nhất được mục tiêu, kế hoạch giáo dục, chăm sóc học sinh của tập thể sư
phạm nhà trường với phụ huynh với các đồn thể, các cơ quan văn hố giáo dục
ngoài nhà trường. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình học sinh và các tổ
chức liên quan trên địa bàn sẽ tạo ra hiệu quả tối ưu nhất cho công tác tư vấn.
3.1.2. Cách kết hợp
Tăng cường kết nối, quản lí học sinh, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa
nhà trường và gia đình thơng qua vai trị của giáo viên bộ mơn, nhất là giáo viên
chủ nhiệm lớp. Nhà trường phải thường xuyên nắm bắt được tình hình gia cảnh,
hồn cảnh, diễn biến tâm lý của học sinh. Sử dụng tin nhắn Vnedu, điện thoại hoặc
gặp trực tiếp để kịp thời thông tin đến cha mẹ học sinh tình hình tu dưỡng, rèn
luyện và kết quả học tập của con em, qua đó động viên, chia sẻ và uốn nắn từng
biểu hiện hành vi của học sinh, kể cả những sai phạm, biểu hiện lệch chuẩn. Duy
trì nền nếp việc họp phụ huynh học sinh đầu năm học, kết thúc học kỳ I để phụ
huynh thấy được rõ từng quá trình học tập cũng như rèn luyện của học sinh.

Kết hợp, thống nhất giữa đoàn trường- đoàn xã trong giáo dục ý thức của
đoàn viên thanh niên thông qua các hoạt động như: Sinh hoạt tập thể thường kì tại

skkn


10


địa phương, chuyển giao sinh hoạt đoàn trong thời gian nghỉ hè, hoạt động tình
nguyện trên địa bàn xóm xã, thường xuyên tổ chức các buổi bàn giao sinh hoạt
giữa đoàn xã với đoàn trường… Những hoạt động giao lưu giúp học sinh biết chia
sẻ, đoàn kết cũng như nâng cao trách nhiệm cộng đồng.
Ảnh: Học sinh trường THPT Nghi Lộc 5 sinh hoạt thường kì chi Đồn xóm tại xã
Nghi Văn- Nghi lộc- Nghệ An
Kết hợp giữa ban giám hiệu trường, ban hành giáo, các chức sắc tôn giáo
trên các địa bàn để có sự hiểu biết phong tục, tín ngưỡng đồng thời nhằm nắm tâm
tư, tình cảm và có những góp ý định hướng kịp thời nhằm giúp học sinh tiến bộ.
Ngồi tác động mang tính giáo dục của nhà trường thì sự tác động của niềm tin tín
ngưỡng giúp các em hướng vào mục tiêu tốt đẹp, tự tin trong học tập. Việc tăng
cường mối quan hệ tốt đẹp với các chức sắc tôn giáo không những tạo động lực
học tập mà còn giúp các em nhận ra những suy nghĩ tiêu cực, những hành vi sai
lầm đồng thời có hướng sữa chữa.

Ảnh: BGH làm việc với ban hành giáo xứ Xuân Kiều (Nghi Kiều- Nghi Lộc)
Kết hợp chặt chẽ với các tổ chức lãnh đạo địa phương để có những tun truyền
trên kênh truyền thơng cũng như xử lí khi có vi phạm. Thường xun phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành, tổ chức đoàn thể xã hội ở địa phương để
quản lý và giáo dục học sinh, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể
thao, giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống. Xây dựng và thực hiện bộ
quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà trường, giáo dục quốc phòng, an ninh, giáo dục

skkn

11



pháp luật, ý thức trách nhiệm công dân, chấp hành các quy định về giao thơng,
phịng, chống ma túy, phịng chống bạo lực học đường, phòng chống tội phạm, tệ
nạn xã hội,... góp phần xây dựng mơi trường giáo dục lành mạnh, tạo điều kiện để
học sinh phát triển nhân cách tồn diện.
Ảnh: Đồng chí hiệu trưởng Đặng Đình Kỳ - hiệu trưởng, báo cáo về thành tích của
nhà trường và công tác giáo dục và rèn luyện của học sinh nhân dịp lễ Noel 2020.
3.1.3. Những lưu ý trong việc kết hợp
Nhà trường cần hỗ trợ cho phụ huynh trong việc giáo dục, giúp nắm được
phương pháp và nội dung giáo dục trong gia đình, nắm được tri thức về chính sách
giáo dục, từ đó họ thấy được nghĩa vụ và trách nhiệm hơn của các bậc phụ huynh
trong việc nuôi dạy con cái. Mặt khác các bậc phụ huynh học sinh có trách nhiệm
chủ động hợp tác trở lại với nhà trường trong việc tổ chức phối hợp giáo dục, hiểu
rõ nhiệm vụ của mình, tránh tự đề ra những yêu cầu giáo dục đi ngược lại mục
tiêu, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường và tư tưởng khoán trắng cho nhà trường.
Việc phối hợp tạo ra hiệu quả cao trong cơng tác tư vấn tâm lí cho học sinh,
nó tạo ra tính đồng bộ trong q trình giáo dục và mục tiêu của nền giáo dục nước
nhà. Bên cạnh đó cần chú ý đến sự nhất quán tư tưởng, quan điểm giáo dục đồng
thời hoạt động phải thực hiện thường xuyên mới tạo ra hiệu quả.
3.2. Phát huy việc sử dụng mạng xã hội nhằm nắm bắt tâm tư nguyện
vọng đồng thời là phương tiện để tư vấn cho học sinh.
3.2.1.Vai trò của mạng xã hội
Nhân loại đang bước vào một thời đại mới, thời đại của sự phát triển của
công nghệ thông tin. Cùng với việc bùng nổ của của khoa học thông tin là sự xuất
hiện ngày càng nhiều các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo, Viber, Wechat,
Tiktok... đang tác động rất lớn đến cuộc sống con người. Nó giúp con người dễ
dàng liên hệ và kết nối với nhau, chia sẻ và tìm kiếm thông tin, cảm xúc. Không
những vậy, mạng xã hội cịn giúp con người rất nhiều trong cơng việc, trong học
tập và giải trí. Những thuận lợi và tiện ích của nó đã cuốn hút đơng đảo mọi người

sử dụng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Đối với học sinh phổ thong, mạng xã hội đã thực sự tác động lớn đối với
mọi lối sống, sinh hoạt của các em. Mọi thơng tin, suy nghĩ tình cảm, kể cả những
bức xúc và mâu thuẫn các em đều dễ dàng đăng, chia sẻ và bình luận trên các trang
mạng. Vì thế thường xuyên làm tốt công tác nắm bắt nguyện vọng của học sinh, xử
lý mâu thuẫn việc ứng dụng công nghệ thông tin để nắm bắt nguyện vọng, xử lý
mâu thuẫn trong xã hội là một xu thế khách quan, cần thiết, góp phần tạo sự đồng
thuận và đồn kết bền chặt hơn, tăng cường hiệu quả trong công tác tư vấn. Bên
cạnh đó, học sinh có thêm một diễn đàn mới để cùng nhau trao đổi, giao lưu, chia
sẻ những bức xúc, những vấn đề tâm lý lứa tuổi.

skkn

12


Các hình thức mạng xã hội áp dụng khi tư vấn bao gồm các phương tiện
truyền thông qua mạng internet rất thông dụng hiện nay như thư điện tử, zalo,
viber, messenger, facebook…
3.2.2. Sử dụng mạng xã hội để tìm hiểu, nắm bắt tư tưởng, tình cảm của học
sinh.
Coi Facebook, Zalo, Messenger …như một cơng cụ giáo dục để tìm hiểu tâm
tư, tình cảm, nỗi niềm và cả những khó khăn mà học sinh đang gặp phải. Việc sử
dụng mạng xã hội đã trở nên quá phổ biến, cùng với đó là rất nhiều hiện tượng tốt,
xấu cũng ngày càng lan rộng. Giáo viên, nhà trường cần tận dụng mọi kênh thông tin
để kịp thời nắm bắt suy nghĩ, tâm lý của các em vì điều này có tác động khơng nhỏ
đến hiệu quả giáo dục, trong đó Facebook là một kênh thơng tin hiệu quả.Theo đó
khi sử dụng mạng khơng né tránh, khơng cấm đốn mà cần cởi mở. Khơng thể phủ
nhận mạng xã hội là một kênh thông tin giúp thầy trò gần gũi, thân thiện với nhau
hơn, qua đó hiệu quả giáo dục sẽ tốt hơn. Nhiều học sinh cho biết các em thấy dễ

dàng bộc bạch suy nghĩ của mình trên Facebook, Zalo, Messenger hơn so với ở
ngồi. Chính vì vậy việc quản lý, giáo dục học sinh ngoài giờ lên lớp bằng mạng
xã hội như facebook, zalo,… đã đem đến một số tiện lợi như giáo chủ nhiệm có thể
quản lý chặt chẽ được các em ngoài giờ lên lớp hơn. Việc sử dụng mạng xã hội
góp phần giáo dục, định hướng cho học sinh về mọi mặt, nhanh chóng, kịp thời
ngăn chặn những hành vi sai lệch của các em khi vừa nhen nhóm, gần gũi, hiểu
hơn về học sinh từ hồn cảnh gia đình, sở thích, thói quen, quan điểm…
Để thực hiện quản lý, giáo dục học sinh qua mạng xã hội thì ngay từ khi
nhận lớp, giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện các việc sau: lập nhóm Zalo,
Mesenge… của lớp mình và đồng thời ghi nhận facebook của lớp trưởng, lớp phó,
tổ trưởng, tổ phó và nêu mong muốn được kết bạn với tất cả học sinh của lớp. Sau
đó, giáo chủ nhiệm cho cả lớp biết mọi thông tin, thông báo cần thiết về học tập,
sinh hoạt của trường lớp sẽ được thơng tin trên nhóm một cách nhanh chóng. Đồng
thời, thầy cô cũng cho biết sẽ sẵn sàng trao đổi, trả lời mọi thắc mắc, tâm tư của
các em về mọi việc qua hộp tin nhắn của facebook để đảm bảo sự riêng tư của
cuộc trao đổi. Giáo viên sẵn sàng tham gia bình luận với các em như những người
bạn. Hoặc đăng những hình ảnh hoạt động của lớp như ghi lại một kỉ niệm đẹp
giữa thầy và trò. Làm những điều này để các em thấy thầy cô hết sức gần gũi như
một người bạn và tâm lý như người anh, người chị không quá xa cách.
Khi đã quen với sự hiện diện của giáo viên trên các trang mạng, các em sẽ
hết sức thoải mái bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng… của bản
thân. Đây là lúc để giáo viên trị chuyện tìm hiểu nắm bắt tâm lí, tích cách và hồn
cảnh gia đình cũng như mong muốn của các em. Nhờ vậy mà giáo viên nhanh
chóng và dễ dàng nắm bắt được tình hình của lớp chủ nhiệm để từ đó xây dựng kế
hoạch, định hướng những việc cần làm trong công tác chủ nhiệm, cũng như nhận
ra phần nào tích cách của từng em để có biện pháp uốn nắm và tác động phù hợp.

skkn

13



Cũng nhờ vào sự giao lưu kết bạn, giáo viên và học sinh đã gần gũi và thân
thiết. Giáo viên sẽ dễ nhận ra khi có những biểu hiện lệch lạc, sai trái từ học sinh.
Khi đó giáo viên chủ nhiệm cần khéo léo trao đổi với các em qua hộp thư của
mạng xã hội để giải tỏa những vướng mắc, bức xúc của các em. Nếu vẫn chưa có
kết quả tốt, lúc này, giáo viên chủ nhiệm có thể gặp riêng học sinh ấy để trao đổi,
giáo dục thêm. Là người giáo viên chúng ta có nhiệm vụ uốn nắm kịp thời những
sai lệch của các em. Thông qua việc giáo viên trực tiếp tham gia mạng xã hội có
thể biết được thời gian, giờ giấc online của các em mà đưa ra lời khuyên góp ý kịp
thời nếu xảy ra tình trạng học sinh ham mê quá mức mà để ảnh hưởng đến học tập.
Những lưu ý khi sử dụng mạng xã hội để để tìm hiểu, nắm bắt tư tưởng, tình
cảm của học sinh: Đối với những học sinh có khó khăn về tâm lí, giáo viên cần tìm
hiểu những vấn đề xung quanh liên quan đến học sinh qua những vấn đề học sinh
chia sẻ và kể cả những vấn đề các em đang quan tâm. Khi trao đổi, nói chuyện với
học sinh, giáo viên cần thể hiện thái độ lắng nghe, thẩu hiểu đồng thời linh hoạt và
mền dẻo. Khi được học sinh chia sẻ, giáo viên cần đảm bảo tính bảo mật cần thiết
đồng thời sẵn sàng dành thời gian để lắng nghe.
3.2.3. Sử dụng mạng xã hội làm phương tiện để tư vấn
Để giáo dục đạo đức, lối sống, định hướng văn hóa và thế giới quan cho học
sinh, giáo viên cần tận dụng mạng xã hội để làm phương tiện để tư vấn. Sử dụng
mạng xã hội không chỉ để lắng nghe, trao đổi mà quan trọng hơn là qua tin nhắn,
các cuộc đối thoại giáo viên sẽ tư vấn giáo dục đạo đức, lối sống, định hướng thế
giới quan cho học sinh. Những học sinh có hành vi chưa đúng đắn, thường xuyên
vi phạm nội quy hay những học sinh lười học, ham chơi, bỏ bê và sa sút trong học
hành thường không hợp tác với giáo viên, hay chống đối nên mối quan hệ giữa
giáo viên và học sinh khó gần gũi, các em ít bày tỏ những suy nghĩ, cảm xúc của
mình. Nhưng nhờ vào mạng xã hội người giáo viên có thể làm bạn chia sẽ niềm
vui nổi buồn cùng các em từ đó dễ dàng đưa ra những lời khuyên, góp ý để góp
phần giáo dục các em có hành vi và thái độ học tập đúng đắn hơn.


skkn

14


Ảnh: GVCN sử dụng mạng trong công tác tư vấn cho học sinh
Việc sử dụng mạng xã hội giúp giáo viên có thể chia sẻ những bài viết
ý nghĩa, những hình ảnh đẹp trong đời sống học đường, phương pháp học, kể cả
những đoạn video có tính chất giáo dục…với mục đích tác động vào nhận thức, tư
tưởng, tình cảm của học sinh. Cuộc sống ngày nay các bậc phụ huynh thường rất
bận rộn ít thời gian quan tâm đến các em nên khơng ít thiếu tình u thương và sự
chia sẽ nên khơng ít em sống thờ ờ, vơ cảm với mọi người xung quanh. Người giáo
viên nên tra cứu và lựa chọn những đoạn video có sẵn trên mạng chia sẻ với các
em để khơi dậy trong các em niềm đồng cảm và yêu thương, để dạy các em cách
sống tích cực và tốt đẹp.
Cũng từ những hình ảnh, thơng tin chia sẻ của mình của mình, giáo viên tạo
ra những phong trào từ các thông tin trên các trang mạng như giúp người nghèo

skkn

15


khó, hoạn nạn, thiên tai; giúp học sinh nghèo…, hay góp phần tạo những sân
chơi lành mạnh như giới thiệu cho học sinh những quyển sách, bộ phim, bài hát
hay, có giá trị. Từ đó, giáo viên cùng học sinh bình luận trên facebook và qua đó
thầy cơ giáo dục, định hướng chân, thiện, mỹ cho các em.
2.2.3. Những lưu ý trong quá trình ứng dụng mạng xã hội để tư vấn tâm lí
cho học sinh.

Để nâng cao hiệu quả của việc khi sử dụng mạng xã hội trong công tác tư
vấn, giáo viên cần lưu ý: Việc đăng tải các thơng tin cần có sựu chọn lọc kỹ càng,
nên đăng những thơng tin chính xác, có nguồn dẫn đáng tin cậy. Khi đăng tải chỉ
cần cân nhắc số lượng vừa phải, nội dung tóm tắt, ngắn gọn nhưng đầy đủ tránh
quá nặng nề dẫn đến sự ngại ngùng hoặc không muốn khi tiếp cận của học sinh.
Cần đa dạng hóa các hình thức thơng báo hay triển khai nhiệm vụ học tập để tránh
sự nhàm chán, tạo sự hứng thú từ học sinh. Nên để học sinh cùng tham gia hoạt
động bằng cách giao nhiệm vụ, hoặc động viên, kêu gọi từ các học sinh để học sinh
thấy được những lợi ích to lớn của mạng xã hội vào phục vụ học tập, đồng thời các
em có thêm trách nhiệm và lịng say mê. Cũng qua đó, học sinh có thể chứng tỏ
khả năng của mình.Hồn tồn có thể làm mới nội dung hay tăng cường tính đồn
kết bằng cách chia sẻ các hoạt động của lớp, nhóm, qua đó lưu giữ các kỷ niệm
đáng nhớ của tuổi học trò.
Việc sử dụng mạng xã hội rất dễ gây ra hội chứng nghiện mạng xã hội và
sống ảo. Không quá lạm dụng mạng xã hội, đó chỉ là một cơng cụ hỗ trợ cho các
hoạt động ở nhà của học sinh. Chủ yếu các hoạt động học tập phải diễn ra trên lớp.
Các hoạt động tập thể phải diễn ra nhiều, vui vẻ và thiết thực tránh sự sống ảo hay
lạm dụng mạng xã hội của học sinh. Nên có hẳn một buổi trao đổi về những hữu
ích hay mặt xấu của mạng xã hội khi sử dụng không đúng cách. Nội dung đăng tải
hằng ngày không quá nhiều, qui định giờ giấc hoạt động của các nhóm. Ngơn ngữ
sử dụng một cách có văn hóa, văn minh, lịch sự, tránh quá suồng sã hay cợt nhả
quá trớn của học sinh. Trao đổi, thống nhất với phụ huynh để giới hạn thời gian sử
dụng mạng xã hội của học sinh, chỉ sử dụng mỗi ngày một khoảng thời gian nhỏ
xác định. Đặc biệt mỗi GVCN cần trang bị kiến thức tối thiếu cho học sinh về kĩ
năng sử dụng mạng xã hội hiệu quả, an toàn.
Sự tham gia của giáo viên dưới hình thức theo dõi kín đáo, chỉ lên tiếng khi
những sự việc có dấu hiệu đi xa và có khả năng gây nên hậu quả nghiêm trọng.
Tuy nhiên khi giải quyết nên nhẹ nhàng phân tích cho học sinh thấy rõ những mặt
tốt và xấu, nên và không nên một cách kín đáo và tế nhị. Tránh trường hợp làm cho
học sinh thấy tù túng và ngột ngạt khi bị theo dõi, giám sát quá nhiều gây mất tự

do, dẫn đến thiếu hợp tác và phản tác dụng.
Trong bối cảnh xã hội của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, ứng dụng
của công nghệ vào tư vấn tâm lí đang thu hút sự quan tâm của các cá nhân, xã hội
và giới khoa học. Ứng dụng để có các thông tin ban đầu, giúp giáo viên biết được
học sinh đang gặp khó khăn tâm lí nào. Từ đó giúp giáo viên thiết lập kênh thông

skkn

16


tin trao đổi, chia sẻ những khó khăn mà học sinh đang đối mặt một cách hữu hiệu.
Với nhu cầu cao sử dụng mạng xã hội ngày càng cao của con người, việc sử dụng
các ứng dụng trên điện thoại thơng minh, máy tính bảng giúp cơng việc tư vấn diễn
ra nhanh chóng, kịp thời và đảm bảo được tính riêng tư của học sinh khi các em có
nhu cầu tư vấn tâm lí.
3.3. Giáo viên chủ nhiệm đảm nhận nhiều vai trị, tư cách khác nhau
trong q trình tư vấn.
3.3.1. Vị thế của GVCN trong công tác tư vấn tâm lí.
Mỗi GVCN phải là một “nhà tâm lý” quan tâm tìm hiểu, động viên, khích lệ
kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù là những việc nhỏ nhất. Đối với học
sinh trong thời đại 4.0, giáo viên chủ nhiệm là những nhà tư vấn tâm lý, là những
nhà giáo dục. Mỗi giáo viên chủ nhiệm phải nhận thức sâu sắc cơng việc quan
trọng của mình là làm sao tạo được những điều kiện thuận lợi nhất để mỗi học sinh
có thể “phát triển hết khả năng vốn có của bản thân, hình thành được những tính
cách thói quen” như mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông đã đề ra.
3.3.2. Mỗi GVCN là một người bạn lớn của học sinh
Thường xuyên bên cạnh, sẵn sàng chia sẻ, tâm sự, động viên và có những lời
khuyên kịp thời giúp các em tháo gỡ khó khăn, khúc mắc trong học tập và sinh
hoạt. Trong các tiết ngoài giờ lên lớp mỗi GVCN cần dành thời gian tư vấn ngành

nghề để các em lựa chọn cho tương lai, phù hợp năng lực, kết quả học tập, tính
cách của mình. Giáo viên chủ nhiệm là người thường xuyên tiếp nhận được thơng
tin từ học sinh để đảm bảo tính khách quan, tính trung thực của dư luận, ý kiến của
một tập thể học sinh.

Ảnh : GVCN với học sinh lớp chủ nhiệm K13A8
Khi tiếp nhận thông tin, người giáo viên chủ nhiệm lớp xử lý kịp thời ngay
thông tin với tư cách là nhà sư phạm, điều đó có tác dụng rất lớn. Bên cạnh đó, vai

skkn

17


trò tư vấn đối với học sinh phải quán triệt được toàn diện nội dung giáo dục, kế
hoạch hoạt động của cá nhân và tập thể lớp chủ nhiệm bao gồm từ việc học tập, rèn
luyện đạo đức, sinh hoạt tập thể, diễn ra trong nhà trường và ngoài xã hội.
Giáo viên chủ nhiệm cần tư vấn trong quan hệ ứng xử xã hội, gia đình, cộng đồng
và trong tình bạn cho học sinh. Thân thiện, nhẹ nhàng từ cử chỉ đến hành động đối
với các em, lắng nghe chăm chú và kiên nhẫn câu chuyện của HS, mềm mỏng nói
chuyện, khơi gợi những suy nghĩ tích cực cho HS.
Trong các hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp và cả hoạt động
trải nghiệm, mỗi GVCN cần thể hiện tính thân thiện, hịa đồng với các hoạt động
cùng học sinh. Mỗi GVCN cần xác định được tâm thế luôn sẵn sàng đồng hành,
giúp đỡ học sinh trong bất cứ hoàn cảnh nào.
3.3.2. GVCN là người truyền cảm hứng cho chọc sinh qua mỗi tiết sinh hoạt
lớp.
Với quan điểm lấy học sinh làm trung tâm trong nhiều hoạt động, nhiều mơ
hình đã được thực hiện. Mỗi học sinh có trình độ khác nhau nên việc đầu tiên là
phải truyền cảm hứng để các em yêu thích học tập là việc rất quan trọng. Bản thân

người giáo viên cũng là một động lực để truyền cảm hứng cho học sinh, giáo viên
cũng phải chịu khó học hỏi và cũng phải thể hiện được sự hiểu biết của mình về
mặt ngơn ngữ cũng như mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Đối với học sinh có những
khó khăn trong tâm lí, thái độ học tập, thì việc truyền cảm hứng tích cực về cuộc
sống, học tập có ý nghĩa tích cực. Thay vì nặng về các nội dung như khiển trách,
trách phạt, xử lý học sinh gây lỗi trong tuần, giờ đây, nhiều giáo viên chủ nhiệm đã
để học sinh tự chủ động trong giờ sinh hoạt lớp thông qua các hoạt động như thảo
luận nhóm, tổ; trình diễn văn nghệ; tổ chức các cuộc thi nhỏ …

skkn

18


Biến các tiết sinh hoạt chủ nhiệm trở thành khoảng thời gian mà học sinh
luôn háo hức chờ đợi. Trong đó, việc truyền cảm hứng có thể là một hướng đi

mang lại nhiều hiệu quả. Bước đầu, giáo viên cần quan sát nhu cầu nhận thức của
học sinh để lập chủ đề sinh hoạt phù hợp. Hãy tìm cách để hài hòa những điều giáo
viên cần học sinh phải nghe và những điều các em muốn nghe. Ngoài ra, giáo viên
cũng cần dung hịa giữa những nội dung mang tính cập nhật thời sự và những nội
dung mang tính truyền thống, gắn liền với công tác xây dựng nhân cách học sinh.
Kế đến, giáo viên cần nắm được thế mạnh của học sinh về các kỹ năng để
thiết kế hoạt động đúng người, đúng việc. Chẳng hạn, sắp xếp để các em có năng
khiếu hội họa thực hiện và trình bày một sản phẩm tranh vẽ theo chủ đề. Hay
khuyến khích học sinh có tài năng văn chương sáng tác các bài vè ngắn, những câu
lục bát ngắn gắn với các thông điệp theo chủ điểm sinh hoạt. Hoặc tạo điều kiện
cho các em có năng khiếu âm nhạc trình bày những nhạc phẩm gắn với nội dung
sinh hoạt…Đối với những em nhút nhát, rụt rè ngại va chạm, ngại thể hiện GVCN
nên để ý và thường xuyên cho các em trình bày. Các vấn đề trình bày nên ưu tiên

từ những vấn đề đơn giản để các em dễ dàng trả lời. Từ những lần trình bày đó
giúp các em tựu tin, cởi mở dần và cải thiện về khả năng giao tiếp.
Ảnh: Tiết sinh hoạt lớp với chủ đề “Sử dụng mạng xã hội hiệu quả an toàn”
tại lớp 11A1

skkn

19


Ảnh: Tiết sinh hoạt lớp “phỏng vấn về những vấn đề khó khăn trong đời
sống học đường”- tại lớp 11A3 trường THPT Nghi Lộc 5

Đặc biệt, để tiết sinh hoạt chủ nhiệm mang lại hiệu quả thật sự, trong quá
trình triển khai giáo viên cần tránh hai trường hợp. Một là phó mặc hồn tồn cho
học sinh như đã kể ở trên. Hai là kiểm soát quá mức, tham gia quá mức, làm triệt
tiêu sự sáng tạo của học sinh. Ngược lại, giáo viên cần có sự động viên, khích lệ,
hỗ trợ kịp thời. Mặt khác, giáo viên sẵn sàng và chân thành nêu ra những góp ý
mang tính xây dựng cho học sinh.
3.3.4. GVCN là tổ chức, định hướng trong việc hình thành kĩ năng sống và
định hướng nghề nghiệp cho học sinh
Giáo viên chủ nhiệm đóng vai trị vơ cùng quan trọng của q trình giáo dục
học sinh, được xem như là người cha người mẹ thứ hai trong cộng đồng trường
học. Họ đóng vai trị quyết định thành cơng đến sự hình thành nhân cách học sinh
kể từ khi học sinh bắt đầu đặt chân đến trường học, thông qua nhân cách của giáo
viên chủ nhiệm mà học sinh có thể xem đó là tấm gương để soi rọi mình mỗi khi
làm một việc gì sai trái. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người chịu trách nhiệm thực
hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong
lớp. GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề
theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh. GVCN lớp

phải biết phối hợp với các GV bộ môn, chỉ huy quản lý học sinh trong lớp học tập,
lao động, công tác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đồn thể
trong trường trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, chi đoàn GV, hội
CMHS để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách. Như vậy
GVCN lớp chính là người trực tiếp, thường xuyên gần gũi với HS nhất, là chỗ dựa

skkn

20


tinh thần vững vàng cho các em trong cuộc sống để các em có thể nhận được hỗ
trợ, giúp đỡ hoặc hướng dẫn, dạy dỗ cần thiết kịp thời.
Trong các tiết ngoài giờ lên lớp, GVCN kết hợp tổ chức sinh hoạt theo chủ
đề về giáo dục kĩ năng sống. Nội dung phải thật gần gũi, thiết thực, đảm bảo gắn
với thực tiễn hoạt động của trường, địa phương, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý
HS. Chuyên đề phải vừa sức, phát huy được năng lực của HS, phát huy tính tích
cực, chủ động của HS trong việc thuyết trình, trả lời câu hỏi, giải quyết tình huống,
... tổ chức các trò chơi, xem phim, đặt ra những câu hỏi và dẫn dắt các em thảo
luận nhóm để tìm ra hướng giải quyết tích cực; đưa các tình huống để các em sắm
vai và khám phá cách giải quyết vấn đề . . .Qua đó, các em được rèn luyện những
kĩ năng sống như phòng chống HIV/AIDS, phòng chống ma túy, hiểu biết về sức
khỏe sinh sản, các hành vi ứng xử có văn hóa, phịng chống tai nạn thương tích,
phịng chống các loại bệnh tật, tai nạn giao thơng và văn hóa trong trường học...

Ảnh: GVCN cùng tập thể lớp trong ngày hội tư vấn hướng nghiệp
Bên cạnh những giờ dạy trên lớp, GVCN phải biết phối hợp với GV bộ mơn
và hoạt động các tổ chức đồn thể góp phần giáo dục kĩ năng sống cho HS thông
qua hoạt động giao lưu, tham quan về nguồn; thông qua những bài học lịch sử,
những buổi đi thực tế thăm các di tích lịch sử, văn hố của địa phương. GV giúp

HS hiểu và thấm nhuần những truyền thống qúy báu của dân tộc, tinh thần yêu
nước, đấu tranh bất khuất trong dựng nước và giữ nước của ông cha, truyền thống
nhân đạo sâu sắc, tinh thần đoàn kết… Từ đó, HS thấy được trách nhiệm của mình
với đất nước, gia đình, xã hội và bản thân, biết giữ gìn và phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, hình thành cho HS những phương cách ứng xử nhân
văn, nhân ái, phẩm chất đạo đức chuẩn mực trong nhà trường.
Ngồi ra, GVCN cịn phải thiết kế cảnh quan sư phạm lành mạnh thân thiện,
khơng gian trong và ngồi phòng học, từ cổng trường đến lớp học phải xanh, sạch,
đẹp. Phịng học là nơi hoạt động chính của thầy và trò, bảng đen, bàn ghế, âm

skkn

21


thanh, ánh sáng, cách bố trí sắp xếp lớp học hợp lý, sạch đẹp thoáng mát sẽ làm
cho HS cảm thấy ấm áp thoải mải, các em xem như đây là ngơi nhà thứ hai của
mình.
Để làm được việc đó họ phải tự nhận thức vai trò của người giáo viên chủ
nhiệm. Họ phải biết thương yêu, tôn trọng, quý mến học sinh của mình mà căn cứ
vào hồn cảnh, cá tính từng học sinh mà giáo viên chủ nhiệm có cách lắng nghe,
thấu hiểu, chia sẻ, gợi mở, dẫn dắt học sinh để mỗi trị có đủ những giá trị làm
người như: Yêu thương, khoa dung, tôn trọng để chúng luôn biết sống tự chủ, tự
tin, tự chịu trách nhiệm về các hành vi của mình . GVCN phải là người có năng lực
có kinh nghiệm về cơng tác giáo dục giá trị kĩ năng sống, có bản lĩnh trung thực,
tinh thần trách nhiệm cao, nhạy bén trong công việc, người lãnh đạo phải biết khơi
dậy tiềm năng sẵn có tại nhà trường. Chính vì thế, GV phải ln trau dồi năng lực
chuyên môn và tu dưỡng đạo đức xứng đáng “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương
đạo đức, tự học và sáng tạo”, ln “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Đồng thời mỗi
GVCN cần có đủ kiến thức cơ bản về tâm lý học, về giáo dục học phù hợp lứa tuổi

học sinh họ đang làm chủ nhiệm.
Điều quan trọng của mỗi nhà sư phạm, mỗi giáo viên chủ nhiệm phải biết
tạo cho học sinh của mình phát triển nhân cách trong một tập thể học sinh lành
mạnh đồng thời mỗi học sinh lại có đủ khả năng thực hiện các yêu cầu giáo dục
theo tinh thần biết “tự giáo dục”.
3.4. Tạo các diễn đàn để học sinh thể hiện năng lực bản thân, hòa nhập với
bạn bè và tăng cường mối quan hệ giao lưu học hỏi trong và ngoài nhà trường.
3.4.1. Tại sao phải tạo các diễn đàn để học sinh thể hiện năng lực bản thân
Để có hiệu quả giáo dục, nhà sư phạm không thể ngồi chờ học sinh hứng thú mới
giáo dục. Điều quan trọng nhà sư phạm phải tìm được cách tạo ra hứng thú cho
mỗi học sinh. Muốn đạt được điều đó nhà sư phạm phải mất nhiều cơng sức, mỗi
việc làm đều phải tạo được sự chú ý của học sinh, giúp học sinh đạt được kết quả
trong từng bước đi nhất định. Nhưng tất cả những việc làm như vậy mới chỉ là
những việc làm nhất thời ứng phó. Cách để tự học sinh hướng chú ý của mình vào
học tập, rèn luyện đó là phải tạo ra cho học sinh có động lực sống, động lực học
tập, rèn luyện. Để làm được điều này nhà sư phạm không chỉ nâng nhận thức, lý
tưởng sống cao cả cho học sinh mà thật sự phải thức tỉnh được hoài bão ước mơ
của mỗi học sinh. Ngày nay, ngoài việc xây dựng nền tảng kiến thức vững chắc thì
tạo nên một môi trường giúp học sinh biết thể hiện bản thân cũng là điều các bậc
phụ huynh đặc biệt quan tâm tại các trường học.
Tạo cho học sinh diễn đàn để thể hiện là tạo cho học sinh có động lực sống,
thôi thúc học sinh hành động cho những mục tiêu sống cao cả, có vậy học sinh mới
có đủ nghị lực vượt qua những cám dỗ ham muốn tầm thường hàng ngày, tích cực
rèn luyện những thói quen tốt.

skkn

22



Học sinh lứa tuổi THPT cũng dễ có thói quen tự do, coi thường lợi ích của
người khác, bất chấp chuẩn mực giá trị của xã hội. Vì thế cách để học sinh có thể
dễ dàng thích nghi và nhanh chóng hịa nhập với xã hội thì trước hết học sinh phải
hòa nhập đầu tiên là tập thể lớp học và thể hiện được bản thân mình. Giáo viên
phải có nhiều hình thức để tác động hình thành các thói quen, những yêu cầu cao
của tập thể mỗi lớp. Chỉ có con đường này chúng ta mới giải quyết được những
nhân cách rối nhiễu buộc học sinh phải điều chỉnh tính cách cho phù hợp với nhu
cầu sống chung của mọi người xung quanh.
Từ những yêu cầu giáo dục chung, giáo viên chủ nhiệm cũng như cha mẹ
học sinh còn phải biết kích thích đúng những sở trường cá nhân, những ham muốn
của nhóm học sinh và từ đó đưa ra những hình thức sinh hoạt tập thể cũng như
hướng dẫn cá nhân hoạt động. Đây là một trong những biện pháp giáo dục hữu
hiệu với nhiều học sinh. Bên cạnh việc gieo những nhu cầu mới cho học sinh, các
lực lượng giáo dục luôn luôn phải biết đứng đằng sau tổ chức, tạo ra những điều
kiện để học sinh dần dần thực hiện được các yêu cầu giáo dục.
3.4.2. Các diễn đàn để học sinh thể hiện bản thân.
Thành lập các nhóm, câu lạc bộ thể hiện tình u nghệ thuật
Hàng năm, nhà trường thường tổ chức các cuộc thi giọng hát hay, các buổi
trình diễn nghệ thuật, các tiết mục sân khấu hóa tác phẩm văn học…. Để thể hiện
đam mê, tài năng của mình, tại trường THPT Nghi Lộc 5 đã thành lập các nhóm,
câu lạc bộ ở mỗi lĩnh vực khác nhau như: Câu lạc bộ Karatedo học đường, Mussic
clup, Skill club, đội văn nghệ Đoàn trường….

Ảnh: Hoạt động của Skill club Trường THPT Nghi Lộc 5

skkn

23



Ảnh: Mussic club Trường THPT Nghi Lộc 5
Đây là diễn đàn được các em học sinh chờ đón trong năm học, nơi tất cả
được thoả sức sáng tạo, thể hiện cá tính và đam mê nghệ thuật của mình, khơi dậy
những tiềm năng trong mỗi cá thể, bộc lộ sức mạnh sáng tạo mà vẫn giữ được sự
hồn nhiên và trong sáng như chính lứa tuổi của mình. Mục tiêu chính của chương
trình chính là dùng nghệ thuật để làm phương tiện, giúp các em học sinh chuyển
hoá những ý tưởng, những câu chuyện thường ngày thành những tiết mục biểu diễn
đầy sinh động và ý nghĩa. Từ các chủ đề khác nhau, nhà trường hướng đến việc
khơi gợi và thể hiện tình yêu thương của các em học sinh dành cho những người
mình yêu thương và cả những người xung quanh. Nghệ thuật, bất cứ lĩnh vực nào
cũng là phương tiện giao tiếp hữu hiệu. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh thể
hiện bản thân qua các tác phẩm nghệ thuật. Một số học sinh cảm thấy tự tin trong
khả năng nghệ thuật và khát khao thể hiện cảm xúc theo cách của mình.
Áp dụng ý tưởng này những trải nghiệm này sẽ là những kinh nghiệm quý
báu giúp các em ngày càng tự tin và bản lĩnh hơn, biết trân trọng những giá trị
cuộc sống cũng như có thêm động lực để vượt qua những khó khăn, thử thách
trong tương lai.
Các fan page viết để thể hiện bản thân
Với những ứng dụng đa dạng về công nghệ, học sinh có thể tạo nên các bài viết,
video hay các Vlog thể hiện những điều mà chúng suy nghĩ. Những hoạt động này
cho phép học sinh thể hiện ý nghĩ của mình một cách ngẫu hứng, tự nhiên nhất.
Lập các fan page giúp học sinh để thể hiện bản thân cũng như những cảm xúc suy
nghĩ của mình. Các bài thơ, các bài viết sáng tạo, những tự truyện thường là cách
thức tuyệt vời. Khuyến khích học sinh viết bài cho tạp chí của lớp học hoặc của
trường. Giáo viên cũng có thể bắt đầu với việc hồn thành các bài viết trên lớp sau
đó cho phép học sinh được chuyển sang các bài viết tự do. Các tạp chí là cách
tuyệt vời để tạo nên cuộc đối thoại giữa giáo viên hoặc người hướng dẫn với học
sinh. Nếu học sinh khơng có khả năng thể hiện bản thân thông qua các bài viết

skkn


24


phóng sự, hãy cho phép học sinh được viết những thứ mà chúng thích. Hãy khuyến
khích học sinh viết nhật kí, viết blog thể hiện chính bản thân theo cách riêng của
chúng.

Ảnh : Những bài viết của học sinh
Những hoạt động hỗ trợ học sinh phát huy năng lực học tập
Song song với qua trình dạy và học chính khóa là việc thực hiện chuỗi hoạt động
hỗ trợ học sinh phát huy năng lực học tập. Nhận thấy những khó khăn trong tâm lí
học sinh đa số xuất phát từ khó khăn trong học tập. Với chủ trương của trường
“Khơng bỏ ai ở lại phía sau”, nhà trường đã thành lập các lớp học, nhóm học, các
phong trào ….để phát hiện những khó khăn cũng như khả năng, thể mạnh của tất
cả các học sinh trong trường. Hằng năm Trường THPT Nghi lộc 5 vẫn duy trì và
hoạt động đầy đủ các hoạt động như: Lớp học chất lượng cao - bồi dưỡng cho
những em học sinh khối 12 có khả năng đạt điểm cao trong kì thi đại học; lớp học
phụ đạo dành cho học sinh yếu kém- lớp học thành lập ở tất cả các môn ở mỗi lớp,
lớp học nhằm hỗ trợ phương pháp, cách học, phát hiện những lỗ hổng kiến thức và
kịp thời giúp đỡ cho học sinh khối 12. Ngoài ra các lớp phụ đạo học sinh yếu kém
hay bồi dưỡng học sinh giỏi đều được nhà trường chú trọng, phân hóa, thực hiện
hoạt động ngay từ lớp 10. Bên cạnh đó, nhà trường cũng duy trì và phát huy các
phong trào trong học tập như : ý tưởng sáng tạo thanh thiếu niên, hoạt động ngoại
khóa của các tổ, câu lạc bộ Tiếng Anh…

skkn

25



×