Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Skkn một số biện pháp tạo hứng thú học tập trong phân môn tập làm văn lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.61 KB, 35 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM TRỰC
TRƯỜNG TIỂU HỌC NAM LONG

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
(DỰ THI CẤP TỈNH )
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP
TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 4

Tác giả: BÙI THỊ THU THỦY
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm
Chức vụ: Giáo viên
Nơi công tác: Trường Tiểu học Nam Long
Xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định

Nam Thanh, tháng 5 năm 2019
1

skkn


MỤC LỤC
I. Mơ tả hồn cảnh tạo ra sáng kiến

4

II. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến

5

III. Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến


9

1. Vai trò của hứng thú học tập

9

2. Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh

10

khi học Tập làm văn
Biện pháp 1: Làm cho học sinh biết được mục tiêu, lợi ích của bài

10

học
Biện pháp 2: Tạo ra hệ thống bài tập viết câu sinh động, giàu

12

cảm xúc
Biện pháp 3: Cung cấp kiến thức để giúp các em thấy được vẻ

15

đẹp và khả năng kì diệu của Tiếng việt
Biện pháp 4: Đổi mới cách ra đề Tập làm văn

18


Biện pháp 5: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức

20

tổ chức dạy học
1.

Phương pháp quan sát

20

2.

Phương pháp trị chơi học tập

22

3.

Vận dụng một số hình thức dạy học tích cực

24

3.1. Tổ chức dạy học theo nhóm

24

3.2.

Tổ chức dạy học ngồi khơng gian lớp học


26

3.3.

Tổ chức dạy học thông qua các hoạt động trải nghiệm

30

Biện pháp 6: Tích hợp các nội dung học tập từ các mơn học khác

31

IV. Hiệu quả do sáng kiến đem lại

32

1. Hiệu quả về mặt kinh tế

32

2. Hiệu quả về mặt xã hội

32

V. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền
2

skkn


35


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Tên sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số biện pháp tạo hứng thú học tập trong phân môn Tập làm
văn lớp 4 ”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Đề tài nghiên cứu về “Một số biện pháp tạo hứng thú học tập trong
phân môn Tập làm văn lớp 4 ” nhằm mang lại hiệu quả cao trong dạy học
Tập làm văn lớp 4
3. Thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Từ tháng 11 năm 2017 đến tháng 5 năm 2019
4. Tác giả:
Họ và tên: Bùi Thị Thu Thủy
Năm sinh: 26/3/1996
Nơi thường trú: Nam Thanh - Nam Trực - Nam Định
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Tiểu học Nam Long
Địa chỉ liên hệ: Trường Tiểu học Nam Long
Xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 0333581113
Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Nam Long
Địa chỉ: Xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định
3

skkn



Điện thoại: 0872582555

I. Mơ tả hồn cảnh tạo ra sáng kiến
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng việt là một trong những bộ mơn giữ
vai trị đặc biệt quan trọng, cung cấp cho học sinh kiến thức phổ thông về
ngôn ngữ - phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Đồng thời
ngơn ngữ cũng chính là phương tiện hữu hiệu nhất giúp học sinh học tập,
khám phá, tích lũy kiến thức, hình thành các kĩ năng cần thiết cho cuộc sống.
Có thể nói, Tiếng việt là cơng cụ số một, là chìa khóa mở đường cho học sinh
học tập các mơn học khác. Bên cạnh đó, mơn Tiếng việt trong bậc Tiểu học
còn giúp cho học sinh bước đầu hiểu được giá trị đặc sắc của nghệ thuật, biết
thưởng thức cái hay, cái đẹp và hình thành, phát triển cho học sinh những
phẩm chất tốt đẹp. Trong học tập Tiếng việt thì phân mơn Tập làm văn là
phân mơn nối tiếp một cách tự nhiên các bài học, mang tính chất thực hành
tồn diện, tổng hợp và sáng tạo nhằm giúp học sinh vận dụng vốn từ đã tích
lũy được để viết văn.
Vậy muốn học tốt phân môn Tập làm văn, trước hết mỗi học sinh cần phải
say mê, hứng thú với môn học. Thật vậy, hứng thú làm tăng hiệu quả của quá
trình nhận thức, phát triển sự sáng tạo nhờ đó mà kiến thức tiếp thu được vừa
mang tính tự nhiên lại được khắc sâu. Do vậy mỗi giáo viên phải không
ngừng học hỏi, suy nghĩ để tìm ra các phương thức, những con đường thuận
lợi để đạt được mục đích đó. Nhưng làm thế nào để tạo được hứng thú học tập
cho học sinh, đối với giáo viên Tiểu học điều đó khá khó khăn vì học sinh
tiểu học có nhiều đặc điểm về tâm sinh lí cũng như nhận thức của các em rất
khác nhau. Đặc biệt đối với học sinh lớp 4, hứng thú của các em mang tính
bền vững hơn thì bồi dưỡng hứng thú học tập nói chung và hứng thú trong
học Tập làm văn nói riêng là điều vơ cùng quan trọng.
4


skkn


Qua thực tế trực tiếp giảng dạy và dự giờ thăm lớp của bạn bè đồng nghiệp
bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm khi dạy học Tập làm văn cho học
sinh lớp 4 nên tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số biện
pháp tạo hứng thú học tập trong phân môn Tập làm văn lớp 4”
II.

Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Theo yêu cầu của chương trình, để giúp các em thực hành rèn luyện kĩ

năng nói, viết nhằm phục vụ tích cực cho việc học tập, giao tiếp, ứng xử thì
nội dung các bài học Tập làm văn ở lớp 4 sẽ hướng dẫn các em viết bài văn kể
chuyện, bài văn miêu tả hay giới thiệu địa phương hoặc điền vào giấy tờ in
sẵn. Trong phân môn Tập làm văn thì viết văn là yêu cầu cốt lõi. Nhờ viết bài
mà học sinh hiểu sâu sắc hơn bản chất của các tri thức được học từ phân môn
Tập làm văn đồng thời học sinh sẽ vận dụng vốn từ ngữ được học từ phân
môn Luyện từ và câu, vận dụng vốn sống thực tế, vốn kiến thức từ các mơn
học khác của mình để viết bài. Bài văn đó chính là sản phẩm phản ánh rõ nét
nhất kiến thức học sinh nắm được và các kĩ năng khi sử dụng Tiếng việt của
học sinh.
Mục đích của viê ̣c dạy Tập làm văn ở lớp 4 là giúp học sinh có thói quen
quan sát, biết phát hiê ̣n những điều mới mẻ, thú vị về thế giới xung quanh;
biết truyền những rung cảm của mình vào đối tượng miêu tả; biết sử dụng
những từ ngữ có giá trị biểu cảm, những câu văn sáng rõ về nô ̣i dung, chân
thực về tình cảm. Mô ̣t bài văn hay là mô ̣t bài văn mà khi đọc, người đọc thấy
hiê ̣n ra trước mắt mình: con người, cảnh vâ ̣t, đồ vâ ̣t,…cụ thể, sống đô ̣ng như
nó vẫn tồn tại trong thực tế cuô ̣c sống. Như vâ ̣y, có thể xem văn miêu tả là

mô ̣t bức tranh về sự vâ ̣t bằng ngôn từ. Và để làm tốt mô ̣t bài văn miêu tả, đòi
hỏi học sinh phải vâ ̣n dụng kiến thức tổng hợp của các môn học. Kiến thức
của các môn học này cô ̣ng với vốn sống thực tế sẽ giúp học sinh trình bày suy
nghĩ của mình mô ̣t cách mạch lạc và sống đô ̣ng. Qua đó, bồi dưỡng cho các
em tình yêu quê hương đất nước, vốn sống, vốn ngôn ngữ và khả năng giao
tiếp.
5

skkn


Trên thực tế, viê ̣c dạy và học phân môn Tập làm văn ở tiểu học hiê ̣n nay
còn rất nhiều vấn đề bất câ ̣p. Đây quả là mô ̣t phân môn khó, đòi hỏi học sinh
phải tổng hợp được kiến thức, phải thể hiê ̣n sự rung cảm cá nhân, phải biết
thể hiê ̣n Tiếng việt mô ̣t cách trong sáng.
Về phía Giáo viên
- Khi dạy học phân môn Tập làm văn, giáo viên thường chỉ hướng dẫn học
sinh một cách chung chung và để học sinh tự mày mò, các hoạt động học
chưa được tổ chức linh hoạt, tạo được sự hấp dẫn với học sinh.
- Trong kiểm tra, đánh giá học sinh nhiều giáo viên còn quá khắt khe hay
thường nhắc đi nhắc lại sai lầm của học sinh làm cho các em trở nên rụt rè,
thiếu tự tin và mất đi hứng thú, thậm chí là ngại học mơn Tiếng việt.
Về phía học sinh
- Khả năng diễn đạt thành lời của học sinh chưa tốt, vốn từ cịn hạn chế và
đặc biệt các em khơng được tiếp xúc nhiều với các sự vật, hiện tượng trong
cuộc sống.
- Tính thụ động của học sinh cịn cao, ở lớp 3 học sinh mới được thực hành
viết đoạn văn nhưng đến lớp 4 học sinh sẽ phải viết bài văn là chủ yếu. Chính
vì thế, nhiều em cịn ngại viết.
- Nhiều học sinh bị ảnh hưởng của thiết bị cơng nghệ đến thói quen đọc

của mình. Viê ̣c đọc sách của các em hiê ̣n nay cũng đang bị xem nhẹ. Phần lớn
học sinh tiểu học ít quan tâm đến viê ̣c đọc và có đọc thường là truyê ̣n tranh,
thâ ̣m chí có những truyê ̣n tranh không mang tính giáo dục. Viê ̣c giao tiếp với
bố mẹ, với những người thân trong gia đình và cô ̣ng đồng cũng rất hạn chế.
Cho nên vốn liếng về cuô ̣c sống, về Tiếng việt của các em tiểu cịn ít. Chính
điều này đã tác đơ ̣ng khơng nhỏ đến hứng thú học văn của học sinh.
- Khi viết bài văn học sinh thường mắc những lỗi cơ bản như sau:
1. Bài văn có lối mở bài và kết bài khuân mẫu
Ví dụ: Với đề bài “ Em hãy tả lại cây bàng trên sân trường.”
6

skkn


Học sinh thường mở bài và kết bài như sau:
Mở bài: “Trên sân trường có rất nhiều lồi cây nhưng em thích nhất là cây
bàng.”
Kết bài: “Em rất thích cây bàng này. Em hứa sẽ chăm sóc nó thật cẩn
thận.”
Và nếu đề bài có thay đổi đối tượng miêu tả như cây ăn quả, hay một lồi
hoa thì cây cam, cây bưởi hay cây hoa hồng hoặc hoa cúc,… sẽ trở thành lồi
cây, lồi hoa các em u thích nhất. Cách mở bài, kết bài này không chỉ được
áp dụng với bài văn miêu tả cây cối mà còn áp dụng cả với bài văn miêu tả đồ
vật, con vật.
Điều này cho thấy một lối mịn, một hình thức khn mẫu trong cách viết
văn của học sinh. Cách mở bài, kết bài này có thể áp dụng đại trà và dễ dàng
cho học sinh tuy nhiên tính sáng tạo của học sinh là chưa có.
2. Bài văn của học sinh cịn mang tính chất liệt kê
Khi viết văn học sinh có thói quen quan sát sự vật và viết lại theo cách liệt
kê, kể lại các bộ phận, hay các sự việc chưa thể hiện rõ nét nổi bật riêng của

vật, chưa thể hiện được xúc cảm của mình.
Ví dụ: Khi tả lại quyển sách của mình học sinh viết:
“ Quyển sách của em hình chữ nhật. Chiều dài 30cm, chiều rộng 18cm.
Bên ngồi có bìa màu vàng. Dày 180 trang.”
Hay khi tả cây bàng học sinh viết:
“ Cây bàng cao đến tầng hai. Thân cây to, nhiều cành. Tán lá xum xuê. Lá
cây màu xanh.”
Các câu văn trên rõ nghĩa, diễn đạt đúng ý. Nhưng nếu học sinh viết cả
một bài văn miêu tả với hình thức liệt kê các bộ phận của vật thì bài văn sẽ
khơ khan, khơng hề có yếu tố miêu tả, khơng có cảm xúc của người viết. Như
vậy, người đọc cảm thấy bài văn có gì đó khơng ổn và cũng khơng cảm nhận
hết được nét riêng biệt, nét đẹp nổi bật của vật.
3. Lỗi đặt câu, cách dùng từ, diễn đạt câu học sinh
7

skkn


Trước khi có một bài văn hay thì trước hết bài văn đó phải trơi chảy,
khơng mắc lỗi diễn đạt câu hay lỗi hình ảnh nhưng trên thực tế thì khơng phải
học sinh nào cũng có thể diễn đạt hết ý của mình thành lời.
4. Lỗi ngữ pháp
Câu khơng có đủ thành phần:
- Những bông hoa trong vườn.
- Trên cánh đồng làng, chạy dọc theo con sông.
- Khi mùa xuân đến.
Câu thừa thành phần lặp lại thành phần không cần thiết:
- Nhà em nuôi rất nhiều con vật nhưng em vẫn thích chú mèo nhà em.
- Quyển sách Tiếng việt đối với em là một người bạn thân thiết của em.
Câu khơng phân định thành phần:

- Em phải giữ gìn chiếc bút thật cẩn thận đặt vào trong hộp.
- Em thấy rất có ích đọc câu chuyện này.
- Kỉ niệm về chú gấu bông bố đã tặng sinh nhật.
5. Lỗi về nghĩa
Câu sai về nghĩa:
- Con mèo nhà em to bằng chai coca gần 1 tạ.
Câu khơng có sự tương hợp về nghĩa:
- Chú chó có bốn chân cao, chắc khỏe nhưng nó chạy rất nhanh
- Từ nhà em đến trường khơng xa nhưng đó là một con đường xa đầy thơ
mộng.
6. Lỗi dùng từ:
- Mặt mẹ ướt đẫm mồ hôi.
- Chú Tư có một vầng trán rộng, lồi lên.

8

skkn


- Đầu của nó giống chiếc yên xe đạp. Hai tai của nó như hai chiếc lá. Đơi
mắt của nó màu đen. Râu của nó dài.
- Chú mèo nhà em bắt chuột rất giỏi. Nó bắt chuột để nhà em khơng cịn
con chuột nào.
7. Lỗi hình ảnh:
- Chú chó hàm răng trắng muốt và có những chiếc răng nanh sắc nhọn
giống với một chiếc răng của em”
Từ thực trạng trên thì việc đưa ra “Một số biện pháp tạo hứng thú học
tập trong phân môn Tập làm văn lớp 4” là một việc làm vô cùng cần thiết
giúp các em hứng thú hơn trong học tập mơn Tiếng việt nói chung và phân
mơn Tập làm văn nói riêng.

III.

Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến

1. Vai trị của hứng thú học tập
Để thực hiện được vấn đề trên thì ngồi nhiệm vụ cung cấp và hình thành
tri thức Tiếng việt thì cần phải tạo được hứng thú, niềm vui cho các em khi
học Tiếng việt nói chung và Tập làm văn nói riêng. Học sinh chỉ có thể viết
bài văn, sáng tạo hay sử dụng những hình ảnh đặc sắc, thú vị làm người đọc
cảm thấy chân thực, sống động khi học sinh thật sự cảm thấy thích thú. Chính
vì thế, việc tạo hứng thú cho học sinh khi viết văn là hết sức quan trọng
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí - nhân cách của con người. Hứng thú có
vai trị rất quan trọng trong học tập và làm việc, khơng có việc gì người ta
khơng làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng nói: Thiên tài
nảy nở từ tình u đối với cơng việc. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính
tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi
dậy mạch nguồn của sự sáng tạo.Trong khi đó, việc khảo sát thực tế dạy học ở
trường tiểu học đã cho thấy nhiều  học sinh khơng có hứng thú trong học tập.
Điều này được xem như là một biểu hiện cũng là nguyên nhân cơ bản làm cho
bài viết của học sinh rất khơ khan và khơng có cảm xúc.
9

skkn


Khổng Tử từng nói: “Biết mà học, khơng bằng thích mà học, thích mà
học khơng bằng vui mà học.” Niềm vui và sự ham thích sẽ là một động lực
lớn giúp học sinh có lịng say mê văn học, có hứng thú với Tiếng việt, các em
yêu thích thơ ca, ham mê đọc sách, thích nghe kể chuyện và sẽ vượt qua khó
khăn để vươn lên trong học tập. Xuất phát từ những cơ sở đó, thầy cơ giáo

phải có những nỗ lực để phát huy hết khả năng của mình. Trong mỗi giờ lên
lớp, các hoạt động dạy – học phải được tổ chức linh hoạt tạo sự hấp dẫn, thích
thú với học sinh để các em yêu thích, say mê môn học.
Phân môn Tập làm văn giúp các em mở rộng thêm vốn sống, rèn luyện tư
duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ và hình thành nhân cách cho học
sinh. Vậy nên việc bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh khi học Tập làm
văn là một điều hết sức quan trọng góp phần nâng cao năng lực của học sinh.
2. Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh khi học
Tập làm văn
Biện pháp 1: Làm cho học sinh biết được mục tiêu, lợi ích của bài học
Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho học sinh ý thức
được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Mục tiêu này có thể được
trình bày một cách tường minh ngay trong tài liệu học tập (như cách trình bày
của tài liệu hướng dẫn học của dự án Mơ hình trường học mới Việt Nam) hoặc
có thể trình bày thơng qua các tình huống dạy học cụ thể.
Với mỗi bài học cụ thể, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính lợi
ích của một nội dung nào đó. Chẳng hạn, sự cần thiết của dấu phẩy sẽ được
làm rõ khi chỉ ra sự khác nhau về nghĩa của hai câu: Đêm hôm, qua cầu
gãy và Đêm hơm qua, cầu gãy. Tính lợi ích của một nội dung dạy học cũng
được thể hiện rõ khi chúng ta đặt ra sự đối lập giữa “có nó” và “khơng có nó”,
ví dụ: Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta khơng có chữ viết? Chuyện gì sẽ xảy ra

10

skkn


khi chúng ta khơng có những từ đồng nghĩa, khơng có câu ghép, khơng có các
dấu câu?...
Khi dạy bài Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả, giáo viên có

thể đi sâu vào phân tích lợi ích, tác dụng của cách mở bài gián tiếp so với
cách mở bài trực tiếp.
Ví dụ : Với đề bài: “Em hãy tả con vật mà em yêu thích nhất.”
Giáo viên đưa ra hai mở bài theo cách trực tiếp và gián tiếp để học sinh so
sánh và đánh giá:
Mở bài trực tiếp: “ Nhà em nuôi rất nhiều con vật nhưng em thích nhất là
chú gà trống.”
Mở bài gián tiếp: “ Phương đơng vừa ửng hồng, khơng gian vẫn cịn mở
ảo bởi màn sương đêm. Bỗng một tiếng gáy oai phong vang động xé tan
khơng khí tĩnh lặng của buổi sớm mai: Ị…ó…o…o…làm cho mọi vật bừng
tỉnh giấc. Đó chính là tiếng gáy của chú gà trống nhà em – một người bạn
đặc biệt đã gắn bó với em nửa năm nay.
Rõ ràng, cả hai cách mở bài đều giới thiệu chú gà trống. Tuy nhiên, với
cách mở bài thứ hai chú gà trống được giới thiệu ấn tượng hơn, tình cảm đối
với vật ni cũng được bộc lộ một cách gần gũi, thân thiết hơn. Vì thế, đoạn
văn trở nên hay hơn, và chắc chắn tạo được ấn tượng cho người đọc.
Qua ví dụ này, học sinh sẽ thấy rõ được tác dụng, lợi ích của việc mở bài
gián tiếp trong bài văn, từ đó có ý thức lựa chọn cách viết sao cho ấn tượng.
Như vậy, làm cho học sinh ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ
học tập là một việc cần thiết giúp nâng cao hứng thú học tập cho các em.

11

skkn


Biện pháp 2: Tạo ra hệ thống bài tập viết câu sinh động, giàu cảm xúc
Trong văn miêu tả, thường xuất hiê ̣n các lớp từ có giá trị hình tượng, có
giá trị biểu cảm như từ láy, các tính từ. Chúng là thế mạnh đă ̣c trưng của
Tiếng Viê ̣t và là phương tiê ̣n miêu tả hiê ̣u quả. Từ láy luôn có giá trị gợi tả.

Khi dạy học sinh viết văn miêu tả, giáo viên cần hướng dẫn học sinh khai
thác và sử dụng có hiê ̣u quả các từ tượng thanh như: tiếng gió vi vu, lao xao,
xào xạc,…; tiếng mưa lô ̣p bô ̣p, tí tách, long bong, …; tiếng nước chảy róc
rách, ào ào, tí tách,…và thế giới âm thanh xung quanh các em tiếng gà gáy,
tiếng chim hót, tiếng lợn ủn ỉn, tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng người
cười nói,…
Đồng thời, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận dụng tốt các từ ngữ có
giá trị tượng hình như: đỏ chon chót, đỏ mọng, sâu hun hút, xanh ngăn ngắt,
sâu thăm thẳm, rô ̣ng mênh mông,…Các tính từ chỉ màu sắc như: vàng óng,
vàng hoe, vàng xuô ̣m, vàng lịm, vàng ối,…; xanh um, xanh thẳm, xanh trong,
xanh lét,…; đỏ ối, đỏ chon chót, đỏ hoe,… tím ngắt, tím biếc, tím hoa cà,
… Các tính từ chỉ mùi vị: thơm ngát, thơm nức, thơm thoang thoảng, thơm
ngan ngát,…Thế giới âm thanh, hình tượng và màu sắc tạo cho bài văn miêu
tả của các em thâ ̣t hơn, sinh đô ̣ng hơn, đóng góp mô ̣t phần không nhỏ làm nên
vẻ đẹp bài văn.
Nội dung dạy học Tập làm văn được chia ra rất nhiều cấp độ. Để giúp học
sinh viết tốt, giáo viên phải giúp các em nắm vững các mạch kiến thức - kĩ
năng, các kiến thức về từ vựng ( từ đơn, từ ghép, từ láy hay các từ vựng liên
quan đến mỗi chủ điểm,…) cho đến câu, đoạn văn, bài văn. Vì vậy giáo viên
cần tạo ra một hệ thống bài tập viết câu giúp học sinh biết sử dụng từ ngữ
giàu hình ảnh để viết câu. Khi giáo viên tạo ra hệ thống bài tập cho học sinh
cần tăng dần mức độ từ đễ đến khó.
Bài tập 1: Chọn từ trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống sao cho thích
hợp
12

skkn


Dạo ấy là ………………. Nắng gay gắt. Cây cối thu mình,

……………..dưới sự hun đốt giận dữ của mặt trời. Thế mà Chuối con vẫn
xanh ……………… nhờ bầu sữa …………… của mẹ. Chẳng mấy chốc, nó
đã to lớn,…………..
( mơn mở, héo quắt, phông phao, ngọt lành, mùa hạ )
Bài tập 2: Trong những câu văn dưới đây có những lỗi sai, em hãy sửa lại
cho đúng.
a) Nàng xuân huy hoàng đã gõ cửa mỗi nhà.
b) Núi non tươi đẹp làm say đắm lòng người .
c) Những tia nắng xuân đầu tiên ấy như những ngón tay hồng nhanh nhẹn
gõ cửa đánh thức vạn vật, mn lồi bừng giấc.
d) Cây cối xanh mơn mởn xào xạc trước gió.
Bài tập 3: Viết tiếp từ ngữ hoặc câu văn vào chỗ trống để hoàn thành các
đoạn văn sau
a) Đàn gà trông thật……………………… Chúng kêu và chạy quanh
………………………….. Đôi mắt chúng …………………………….. Đôi
chân của những chú gà …………………………………………. Cái mỏ của
chúng giống như là ……………………………. Trơng đàn gà cịn bé bỏng,
tơi lại nghĩ ……………………………………………..
b) Nhìn từ xa, cây chuối như ………………………………….. Thân cây
cao hơn đầu người, mọc thẳng, khơng có cành, chung quanh là mấy cây con
đứng sát lại thành bụi trông như ………………………………….. Gốc cây
khá to, rễ bám chặt vào đất, thỉnh thoảng có mấy chiếc rễ con nổi lên, giống
như……………………………………………………
Bên cạnh đó, từ một ý cho trước hay từ một câu đơn (chỉ có một cụm chủ
ngữ, vị ngữ), giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập mở rộng câu bằng cách
13

skkn



thêm các thành phần phụ cho câu như: trạng ngữ, bổ ngữ, động từ, tính từ, từ
láy, từ tượng hình, từ tượng thanh,…Sử dụng các hình ảnh, chi tiết sinh động
biểu cảm; các biện pháp nghệ thuật như: nhân hoá, so sánh, điệp từ, điệp ngữ,
hốn dụ, phóng đại,…làm cho cách diễn đạt câu văn, đoạn văn, thêm cụ thể,
sống động giúp người đọc như cùng cảm nhận với mình.
Bài tập luyện viết câu sẽ giúp học sinh có ý thức viết văn ngày càng chặt
chẽ về hình thức, ngữ pháp đến nội dung chính xác, sinh động, giàu xúc cảm,
… Sau đây là một số bài tập viết câu văn sinh động:
Bài tập 1: Từ những câu văn đã cho, viết lại cho sinh động, gợi cảm xúc
bằng cách thêm biện pháp nghệ thuật:
a) Gà mẹ xịe rộng đơi cánh ra
b) Chiếc bảng đen xinh xắn
c) Bông hoa xinh đẹp
d) Mặt biển trong xanh
e) Những đám mây trắng xóa
f) Mùa xuân đã đến
g) Hoa cau trắng muốt
h) Hoa bưởi ngát dịu
Bài tập 2: Viết tiếp đoạn mở bài cho bài văn
a) Khi tả lại một cây ăn quả mà em yêu thích nhất, một bạn học sinh đã
viết đoạn mở bài như sau:
Khu vườn nhà em không rộng lắm nhưng cũng hội tụ khá nhiều loại cây.
Cây nhãn là cây cao lớn nhất khu vườn. Tán nó xịe rộng, che mát cả một
khoảng vườn lớn. Đứng cạnh cây nhãn là cây hồng xiêm. Hồng xiêm lá xanh
um, quả ngọt lịm, […]
14

skkn



Em hãy giúp bạn hoàn thành đoạn mở bài trên.
b) Với đề bài: Tả lại một con vật nuôi trong nhà
Quanh ta mọi vật đều có ích. Chú gà trống gáy vang báo hiệu một ngày
mới bắt đầu. Chú chó là một người lính kiên trì và dũng cảm, […]
c) Đề bài: Tả lại một loài hoa trong vườn nhà em.
Mùa xuân đến, hoa trong vườn nhà em đua nhau khoe sắc. Hoa nào cũng
đẹp […]
Biện pháp 3: Cung cấp kiến thức để giúp các em thấy được vẻ đẹp và
khả năng kì diệu của cách dùng từ trong Tiếng việt.
Ngoài việc dạy học sinh cách dùng từ, cách viết câu thì trong giảng dạy
giáo viên cần cho học sinh nhận thấy vẻ đẹp của ngôn từ, sự phong phú của
Tiếng việt.
Khơng có con đường nào tốt hơn để làm nảy sinh và duy trì hứng thú của
học sinh với Tiếng Việt và văn học ngoài cách giúp các em thấy được sự thú
vị, vẻ đẹp và khả năng kì diệu của Tiếng việt. Hứng thú của học sinh cũng
được khơi dậy từ việc chỉ ra vẻ đẹp của một từ, cái hay của một tình tiết
truyện, chẳng hạn: Tiếng hót của chim chiền chiện khơng phải “ríu rít”,
“thánh thót” mà “ngọt ngào”, “long lanh”, “chan chứa” thì mới gây ấn tượng.
Hoa sầu riêng nở “tím ngát” chứ khơng phải chỉ “tím ngắt” hay “ngan ngát”.
Như thế cả màu hoa, hương hoa đều được thể hiện chỉ qua một từ ngữ.
Trong phân mơn Tập làm văn, sự kì diệu của Tiếng việt thể hiện ở chỗ, với
cùng một nội dung thơng báo, song mỗi cách viết lại có một cách hiểu khác
nhau.
Ví dụ: Giáo viên cho học sinh so sánh cách dùng từ
- Chim họa mi hót líu lo trong vườn. ( thể hiện sự thuần túy )

15

skkn



- Tiếng hót trong trẻo của chim họa mi làm rộn ràng không gian yên lặng
của khu vườn. ( thể hiện sự trong sáng, vui tươi )
Như vậy, ý của câu văn hoàn toàn phụ thuộc vào ngụ ý của người viết. Với
mỗi một cách diễn đạt khác nhau lại cho một giá trị biểu cảm khác nhau.
Trong các tiết Tập đọc, trước khi cho học sinh tìm hiểu nội dung bài giáo
viên sẽ tổ chức cho học sinh luyện đọc nhiều lần: đọc mẫu, luyện phát âm,
luyện đọc đoạn, đọc toàn bài, đọc diễn cảm qua việc tiếp xúc với tác phẩm
học sinh sẽ nhận thấy cái hay, cái đẹp trong cách dùng từ, cách miêu tả và
cảm nhận của tác giả.
Ví dụ 1: Trong bài Đường đi Sa Pa (TV4, tập 2)
Ở đoạn thứ ba nhà văn Nguyễn Phan Hách tả lại phong cảnh ở Sa Pa như
sau: Hôm sau chúng tôi đi Sa Pa. Phong cảnh ở đây thật đẹp. Thoắt cái, lá
vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa
tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với
những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý.
Tác giả sử dụng biện pháp điệp từ “ Thoắt cái” để người đọc có thể cảm
nhận được hết như thay đổi nhanh chóng của thời tiết ở Sa Pa, cùng với đó là
biện pháp đảo ngữ được sử dụng để nhấn mạnh vẻ đẹp đặc biệt một ngày có
bốn mùa ở Sa Pa.
Ví dụ 2: Trong bài Tập đọc “Sầu riêng”
Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương
cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà.
Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy li ti
giữa những cánh hoa.
Tác giả quan sát và cảm nhận hết sức tinh tế. Mùi hương của hoa sầu riêng
ngan ngát tỏa khắp một khu vườn như là sự hòa quyện giữa hương cau và
16

skkn



hương bưởi vừa có sự dịu mát, ngọt ngào vừa có sự ngào ngạt quyến rũ hết
sức đặc biệt.
Hay trong giờ Tập làm văn, giáo viên có thể cho học sinh đọc những đoạn
văn hay.
Ví dụ 1: Khi cho học sinh ơn tập về tả cây cối, giáo viên có thể cho học
sinh đọc những đoạn văn hay tả các bộ phận của cây như đoạn văn tả cây
bàng của nhà văn Đồn Giỏi:
“Có những cây mùa nào cũng đẹp như cây bàng. Mùa xuân, lá bàng mới
nảy trông như những ngọn lửa xanh. Sang hè, lá lên thật dày, ánh sáng xun
qua chỉ cịn là màu ngọc bích. Khi lá bàng ngả sang màu lục, ấy là mùa thu.
Sang đến những ngày cuối đơng, mùa của lá rụng, nó lại có vẻ đẹp riêng.
Những lá bàng mùa đơng đỏ như đồng ấy, tơi có thể nhin cả ngày khơng
chán. Năm nào tôi cũng chọn lấy mấy lá thật đẹp về phủ một lớp dầu mỏng,
bày lên bàn viết. Bạn có biết nó gợi lên chất liệu gì khơng? Chất sơn mài …”
Ví dụ 2: Đoạn văn tả quả cà chua rất sinh động của nhà văn Ngô Văn
Phú:
“ Đêm huyền diệu đã rủ hoa cà chua lặn theo vòng thời gian chuyển vần.
Hoa biến đi để cây tạo ra những chùm quả nõn chung màu với cây với lá.
Cà chua ra quả, xum xuê, chi chít, quả lớn quả bé vui mắt như đàn gà mẹ
đông con. Quả một, quả chùm, quả sinh đôi, quả chùm ba, chùm bốn. Quả ở
thân, quả leo nghich ngợm lên ngọn làm ỏe cả những nhánh to nhất.
Nắng đến tạo vị thơm mát dịu dần trong quả. Mỗi quả cà chua chín là một
mặt trời nhỏ hiền dịu. Cà chua thắp đèn lồng trong lùm cây nhỏ bé, gọi người
đến hái. Màu đỏ là màu nhận ra sớm nhất. Những quả cà chua đầu mùa gieo
sự náo nức cho mọi người.”

17


skkn


Ra hoa rồi kết quả. Đây là một sự phát triển tự nhiên của cây cối nhưng
qua cái nhìn của nhà văn thì đây là một sự chuyển vần theo vòng thời gian hết
sức huyền diệu.
Việc thường xuyên cho học sinh tiếp xúc với những đoạn văn, bài văn hay,
những mẫu hình sử dụng ngơn từ chuẩn mực như vậy sẽ làm các em cảm
nhận được vẻ đẹp, sự phong phú mn hình của Tiếng việt, sẽ học được cách
sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt, cách quan sát và miêu tả các sự vật, hiện
tượng. Ngoài ra, các em còn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và tích
lũy được kiến thức về các sự vật, hiện tượng của cuộc sống vận dụng linh
hoạt khi tả hoặc kể. Từ đó, hình thành hứng thú học tập cho các em một cách
tự nhiên và bền vững.
Biện pháp 4: Đổi mới cách ra đề tập làm văn
Với phân môn Tập làm văn, để kích thích hứng thú, sự tị mị của học
sinh, ta có thể thay đổi cách ra đề. Bỏ cách ra đề chung chung, đơn điệu giáo
viên nên ra đề rõ ràng, gần gũi với học sinh có tính ứng dụng liên hệ thực tế
cao.
Ví dụ 1:Với văn miêu tả con vật.
Giáo viên có thể ra đề như sau:
“ Mèo con cuộn trịn lăn lơng lốc rồi chạm bịch vào gốc cau. “Rì rào, rì
rào, con mèo nào mới về thế?” – Cây cau lắc lư chỏm lá tít trên cao hỏi
xuống. “ Rì rào, rì rào, chú bé leo lên đây nào!” Mèo con ôm lấy thân cau,
trèo nhanh thoăn thoắt. Nó ngứa vuốt cào cào thân cau sồn sột. “ Ấy, ấy! Chú
làm xước cả mình tôi rồi. Để vuốt sắc mà bắt chuột chứ.” Em hãy tả lại hoạt
động của chú mèo.
Ví dụ 2: Với đề bài “ Tả lại lồi hoa sen”
GV có thể ra đề:
18


skkn


Sen hồng, sen trắng, sen vàng
Chung hương thơm ngát khẽ khàng vương vương
Lắng sây về chốn ngọn nguồn
Từ miền bùn tối ủ hương dâng đời
Từ ý thơ trên, em hãy tả lại hoa sen.
Ví dụ 3: Khi kể lại câu chuyện theo vai nhân vật, Giáo viên có thể thay
cách đề bài “Em hãy kể lại câu chuyện “Ở vương quốc Tương lai” theo nhân
vật Tin-tin hoặc Mi-tin bằng cách mở bài mang tính gợi ý như sau:
“Tin – tin và Mi – tin được một bà tiên giúp đỡ, đã vượt qua nhiều thử
thách, đến nhiều xứ sở để tìm con Chim Xanh về chữa bệnh cho một bạn hàng
xóm. Hai bạn đã tới được Vương quốc Tương lai – nơi có rất nhiều điều thú
vị và được trị chuyện với những người bạn sắp ra đời.
Em hãy đặt mình trong vai Tin – tin hoặc Mi - tin để kể lại câu chuyện
trên và nói lên cảm nghĩ của mình khi được khám phá Vương quốc Tương Lai
– nơi mà những ước mơ về cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc thành hiện thực”.
Ví dụ 4: Hay khi muốn yêu cầu học sinh tả lại tấm lịch treo tường, giáo
viên có thể ra đề:
“Vào dịp năm mới, mỗi gia đình đều mua một tấm lịch vừa để trang trí
nhà cửa, vừa để xem ngày tháng. Có nhiều tấm lịch treo tường khác nhau, mỗi
tấm lịch là một tác phẩm nghệ thuật. Có tấm lịch nhiều tờ, mỗi tờ là một bức
tranh đẹp: tranh phong cảnh, tranh hoa, tranh con vật, tranh tĩnh vật,… Có
tấm lịch bìa cứng màu đỏ tươi với những chữ Hán mạ vàng và cả hình ba ông
Phúc, Lộc, Thọ…

Em hãy viết bài văn tả một tấm lịch treo tường mà em


thích nhất.”

19

skkn


Những đề Tập làm văn đã cung cấp một số thơng tin cơ bản, có u cầu rõ
ràng sẽ giúp học sinh biết phải làm gì khi viết, khơng mơ hồ khi bắt tay vào
làm bài cũng làm cho học sinh cảm thấy thú vị và tò mò hơn.
Biện pháp 5: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học
Ngồi việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của
học sinh cịn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp,
hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách
tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm
vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học
ngồi khơng gian lớp học...
1. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp trong đó giáo viên tổ chức cho học
sinh sử dụng các giác quan để quan sát đối với các đối tượng.
Học sinh tiểu học thích trực quan, sinh động. Vì vậy, Khi vận dụng
phương pháp này học sinh sẽ được tri giác các vật có thật, các tranh ảnh minh
họa,... Điều này sẽ làm cho học sinh thích thú hơn khi được mắt thấy, tay sờ.
Ví dụ: Khi dạy học sinh miêu tả đồ vật giáo viên hướng dẫn học sinh
quan sát theo các bước:
Bước 1 : Lựa chọn đối tượng quan sát.
Giáo viên hướng dẫn học sinh lựa chọn đối tượng miêu tả ( có thể là
chiếc bàn học, quyển sách, quyển truyện hoặc là chiếc bút mực hay chú gấu
bông)

Bước 2 : Xác định mục đích quan sát.
Quan sát các đặc điểm nổi bật của đồ vật để tìm ra điểm riêng biệt.
Bước 3 : Tổ chức và hướng dẫn học sinh quan sát.
Có thể tổ chức cho học sinh quan sát cá nhân hoặc quan sát theo nhóm
20

skkn



×