Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

chính sách thuế trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.03 KB, 20 trang )

Sinh viên: Phạm Thị Thu Hà
Lớp: K44KTNN
Giảng viên: TS. Phan Văn Hòa
Tên đề tài:
“CHÍNH SÁCH THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”.
I. Đặt vấn đề.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đất nước ta trong thời kỳ đổi mới và phát triển, cùng với việc gia tăng thu nhập
quốc dân bình quân trên đầu người, tài sản của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế –
xã hội, và của tầng lớp dân cư không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, việc gia tăng tài
sản trong xã hội cũng đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý. Thuế là một trong
những công cụ tài chính quan trọng không chỉ đơn thuần thực hiện nhiệm vụ huy
động nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn có nhiệm vụ quan trọng điều
chỉnh quá trình vận động của nền kinh tế nói chung và tài sản nói riêng. Bên cạnh
đó, xu thế hội nhập và liên kết kinh tế luôn gắn với việc xóa bỏ hàng rào thuế quan,
cắt giảm thuế nhập khẩu, kéo theo sự thay đổi của tỷ trọng thuế gián thu trong tổng
thu ngân sách nhà nước. Để đảm bảo tỷ trọng hợp lý giữa các loại thuế, hệ thống
thuế cần tiến hành cơ cấu lại theo hướng tăng tỷ trọng thuế trực thu, giảm tỷ trọng
thuế nhập khẩu và thuế gián thu. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, việc cơ cấu
lại nguồn thu từ thuế có thể thực hiện theo hướng mở rộng các hình thức thuế trực
thu như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản và các loại
thuế đất. Trong đó, các sắc thuế về tài sản tuy đã được ban hành nhưng vẫn còn
nhiều nhược điểm và hạn chế, số thu về thuế tài sản vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong
ngân sách nhà nước.
Hơn nữa, xuất phát từ chiến lược cải cách chung của toàn bộ hệ thống thuế,
nhằm xây dựng chính sách thuế đơn giản, dễ thực hiện, căn cứ tính thuế hiện đại,
phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay, hạn chế lồng ghép nhiều chính sách
xã hội, làm hạn chế tính trung lập của thuế. Trong đó, việc xây dựng các chính sách
thuế về tài sản ở nước ta cũng không nằm ngoài những mục tiêu này.
Từ những lý do trên, việc đánh giá và hoàn thiện các chính sách thuế tài sản ở
Việt Nam hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống thuế trong quá trình


hội nhập cũng như góp phần quản lý và sử dụng tài sản là những vấn đề cơ bản mà
bài tiểu luận “Chính sách thuế trong nền kinh tế thị trường” muốn trình bày.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài.
Thông qua đề tài “Chính sách thuế trong nền kinh tế thị trường” có thể hiểu một
cách cụ thể và tổng quan hơn về chính sách thuế trong nền kinh tế thị trường, từ đó
có thể nhận định các hạn chế cũng như tận dụng triệt để các biện pháp nhằm phát
huy tối đa công cụ thuế trong việc phát triển nền kinh tế thị trường.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Đúc kết từ thực tiễn của thế giới, từ đó nghiên cứu cho nền kinh tế thị trường
Việt Nam.
II. Nội dung.
PHẦN 1 : CÁC LÝ THUYẾT CHUNG.
1. Khái niệm Chính Phủ: Chính phủ là một tổ chức được thiết lập để thực thi
những quyền lực nhất định, điều tiết hành vi của các cá nhân sống trong xã hội
nhằm phục vụ cho lợi ích chung của xã hội đó và tài trợ cho việc cung cấp những
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu mà xã hội đó có nhu cầu.
Chức năng của Chính phủ:
- Điều tiết hành vi của các cá nhân.
- Phục vụ lợi ích chung của xã hội.
- Cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng.
2. Thất bại của thị trường: là những trường hợp mà thị trường cạnh tranh không
thể sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ ở mức như xã hội mong muốn.
+ Thất bại về tính hiệu quả:
- Độc quyền
- Ngoại ứng
- Hàng hóa công cộng
- Thông tin không đối xứng
+ Thất bại do sự bất ổn định mang tính chất chu kỳ của nền kinh tế.
+ Thất bại về công bằng.
+ Hàng hóa khuyến dụng và phi khuyến dụng.

3. Thuế.
3.1 Khái niệm, bản chất của thuế.
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc, được quy định thành luật của các tổ chức kinh
tế và dân cư cho nhà nước. Thuế thể hiện mối quan hệ phân phối lại thu nhập dân
cư và các tổ chức kinh tế cho nhà nước. Tính bắt buộc của thuế thể hiện ở chỗ khi
nhà nước xác định mức thuế, người nộp thuế không có quyền thắc mắc hoặc đòi
hỏi gì cả. Thuế do nhà nước ban hành và chỉ có nhà nước mới có quyền thay đổi,
ngoài ra không có ai có quyền đó. Nộp thuế là nghĩa vụ của các tổ chức kinh tế và
dân cư.
Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời của nhà nước. Thuế là một phạm trù
kinh tế, đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử. Nhà nước ra đời và tồn tại cần phải
có nguồn tài chính để chi tiêu, chi tiêu cho bộ máy, cho quốc phòng an ninh, chi
cho cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội. Nguồn tài chính chỉ có thể lấy
từ việc động việc đóng góp một phần thu nhập xã hội do các tầng lớp nhân dân tạo
ra bằng hình thức thuế là chủ yếu. Thuế cũng là công cụ để nhà nước sử dụng để
phục vụ cho yêu cầu quản lý xã hội, quản lý phát triển kinh tế của đất nước, do vậy
thuế có chức năng phân phối và giám đốc.Nhà nước sử dụng thuế làm công cụ để
thực hiện các chức năng của mình, mỗi nhà nước mang bản chất giai cấp nhất định
nên thuế mang bản chất của nhà nước sinh ra nó.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân nên có nhiệm vụ chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc cho nhân dân. Ngân sách nhà nước trong đó
có nguồn thu thuế do dân đóng góp được sử dụng vào việc đầu tư phát triển kinh
tế, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh trật
tự và bảo vệ tổ quốc.
3.2 Vai trò của chính sách thuế.
Chính sách thuế là một nội dung của chính sách tài chính quốc gia, là tổng thể
các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng đề ra
quyết định về thu nhập và huy động nguồn thu để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu
của mình.
Chính sách thuế là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống chính sách

tài chính quốc gia, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng trong việc
thực hiện đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò của chính sách
thuế thể hiện qua chức năng cơ bản tự thân của nó:
- Chức năng định hướng: Chính sách thuế góp phần định hướng cho nhà quản lý
thu và nộp thuế một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và hợp lý. Chính sách thuế
còn giúp các nhà sản xuất kinh doanh định hướng, xác định ngành nghề, lĩnh vực
sản xuất kinh doanh để mang lại hiệu quả phù hợp với khả năng và năng lực của
mình.
- Chức năng điều tiết: Chính sách thuế giúp phân phối, điều tiết thu nhập giữa các
cá nhân, các tổ chức và góp phần phân phối lại các nguồn của cải xã hội và năng
lực sản xuất của toàn xã hội trong lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân theo những
định hướng phát triển của nhà nước.
Như vậy chính sách thuế góp phần chủ động tích cực trong việc khuyến khích
hay kiềm chế đối với các hoạt động kinh tế - xã hội của tất cả các ngành, lĩnh vực,
lãnh thổ, tổ chức và cá nhân theo những mục tiêu định hướng và hoạch định của
nhà nước.
3.3 Các sắc thuế tại Việt Nam hiện nay.
3.3.1. Thuế môn bài.
Thu hàng năm vào các cơ sở kinh doanh có địa điểm cố định. Mỗi năm thu 01
lần vào đầu năm (bậc 1).
3.3.2. Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Thuế thu vào các tổ chức và cá nhân có sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp.
3.3.3. Tiền thuê đất.
Tiền thuê đất thu vào các doanh nghiệp được cơ quan có thẩm quyền cho thuê
đất. Nộp hàng năm và hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
3.3.4. Thuế nhà, đất (Pháp lệnh thuế Nhà, đất).
Thuế đất thu vào các tổ chức và cá nhân có sử dụng đất ở, đất xây dựng công
trình.
3.3.5. Thuế chuyển quyền sử dụng đất.

Là thuế đánh vào thu nhập của người có quyền sử dụng đất khi chuyển quyền đó
cho người khác.
3.3.6. Lệ phí trước bạ.
Là khoản thu vào việc chuyển nhượng một số tài sản thuộc diện phải đăng ký
với cơ quan quản lý Nhà nước về chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.
3.3.7. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Là thuế thu vào thu nhập hàng năm của các cá nhân.
Doanh nghiệp là ủy nhiệm thu của Nhà nước có nghĩa vụ khấu trừ tiền thuế của
cá nhân trước khi trả thu nhập, hưởng thù lao 0,5% trên số thuế thu nhập thường
xuyên.
Hàng tháng, doanh nghiệp tạm nộp cho cá nhân, cuối năm phải kê khai, quyết
toán chính thức số thuế phải nộp.
3.3.8. Thuế tài nguyên.
Là thuế thu vào các tổ chức và cá nhân khai thác tài nguyên (khoáng sản, than,
dầu mỏ, đất, cát, đá, sỏi, rừng, biển …).
Kê khai và nộp hàng tháng căn cứ sản lượng khai thác, không căn cứ sản lượng
tiêu thụ.
3.3.9. Thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân là: khoản tiền mà người có thu nhập phải trích nộp một
phần tiền lương hoặc từ các nguồn thu nhập khác vào ngân sách nhà nước.
3.3.10. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Thuế thu vào hàng hóa tính trên trị giá xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên
giới Việt Nam.
Mục tiêu: - Bảo hộ hàng hóa trong nước
- Kiểm soát hoạt động ngoại thương
3.3.11. Thuế giá trị gia tăng.
Là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong
quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Viết tắt: VAT (Value Added Tax) hoặc TVA (Tax sur la Valeur Ajoutée).
3.3.12. Thuế tiêu thụ đặc biệt Các văn bản hiện hành.

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt được thông qua ngày 20/05/1998.
Nghị định số 84/1998/NĐ-CP ngày 12/10/1998 hướng dẫn thi hành Luật.
Thông tư 168/1998/TT-BTC ngày 21/12/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định 84.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế đánh trên các loại hàng hóa đặc biệt theo quy
định của nhà nước. Bao gồm 8 nhóm hàng hóa và 5 loại dịch vụ:
- Thuốc lá điếu, bia, rượu, xe ô tô dưới 24 chỗ ngồi, điều hòa nhiệt đồ công suất
dưới 90.000 BTU, xăng, bài lá, vàng mã, hàng mã.
- Kinh doanh karaoke, mát xa; kinh doanh giải trí có đặt cược; kinh doanh casino;
kinh doanh sân golf; xổ số
Thuế suất từ 10% - 75% tùy từng loại hàng hóa và dịch vụ.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuê tiêu dùng 1 giai đoạn, chỉ đánh vào khâu sản
xuất hàng hóa, kinh doanh dịch vụ và nhập khẩu hàng hóa chịu thuế.
4. Chính sách thuế là một phần quan trọng.
Thứ nhất, sớm điều chỉnh mức độ động viên thuế và phí trên GDP theo Chiến
lược cải cách thuế 2011-2012; Kế hoạch cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-
2015 nhằm tạo điều kiện tăng nguồn lực cho doanh nghiệp và cá nhân tăng tích
lũy, tích tụ vốn cho đầu tư. Theo chương trình, sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ được trình Quốc hội thông qua vào năm 2013,
từ năm 2014 trở đi theo hướng giảm mức thuế suất chung từ 25% xuống 22-23%,
đồng thời minh bạch các chi phí được trừ khi tính thuế và có thể thay đổi một số
biện pháp ưu đãi thuế.
Thứ hai, đổi mới toàn diện cơ cấu và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện giải pháp
này sẽ diễn ra các hoạt động thoái vốn tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa ở
những ngành, lĩnh vực nhà nước không cần nắm giữ; hoạt động thoái vốn, chuyển
nhượng… tại các tập đoàn, tổng công ty có hoạt động đầu tư ra ngoài ngành…
Những hoạt động này đòi hỏi phải có những quy định hướng dẫn cụ thể về nghĩa
vụ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh ngiệp, thủ tục về chứng từ hóa đơn
trong khuôn khổ pháp luật, bảo đảm phù hợp với từng loại hoạt động theo nguyên
tắc, tạo thuận lợi cho giao dịch nhưng phải kiểm soát chặt chẽ, tránh thất thoát vốn

và tài sản nhà nước.
Thứ ba, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng mà trọng tâm là các ngân hàng
thương mại không chỉ liên quan đến bản thân các ngân hàng mà còn liên quan đến
khách hàng là doanh nghiệp. Yêu cầu đặt ra là cần có nghiên cứu để quy định,
hướng dẫn về các biện pháp xử lý nợ, xử lý khoản trích lập dự phòng rủi ro nghiệp
vụ có liên quan đến nghĩa vụ thuế của các tổ chức tín dụng khi đặt yêu cầu an toàn
hệ thống và lợi ích toàn cục nền kinh tế lên vị trí ưu tiên.
5. Chính sách thuế ở các nước có tác động như thế nào?
Trong các tranh luận về nguyên nhân gây ra suy thoái kinh tế, các vấn đề như
các qui định, quản trị doanh nghiệp và tiền lương của ban giám đốc đóng vai trò
trung tâm. Chính sách về thuế được xem là thứ yếu so với các vấn đề trên.
Tuy vậy, trong tháng trước Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã đưa ra một nghiên cứu
lý thú, nghiên cứu này đã đưa thuế trở thành vấn đề trung tâm. IMF cho rằng chính
chính sách thuế đã góp phần tạo ra bùng nổ tín dụng trước khi cuộc khủng hoảng
xảy ra.
Các chính sách thuế đã khuyến khích các công ty huy động vốn bằng cách phát
hành trái phiếu (vì lãi suất trái phiếu được xem là chi phí để khấu trừ thuế) hơn là
phát hành cổ phiếu (vì cổ tức không được xem là chi phí để khấu trừ thuế) và vì
vậy nó làm cho trái phiếu rẻ hơn, thúc đẩy người ta mua trái phiếu có các khoản
thế chấp lớn. Những vấn đề này kết hợp lại tạo nên những khoản tín dụng không
bền vững, và kết quả của nó chúng ta đã thấy ở hầu hết các quốc gia. IMF khẳng
định rằng chính chính sách thuế đã đẩy các công ty hướng vào việc huy động vốn
bằng các khoản nợ.
Vậy giải pháp trước mắt có thể là bỏ việc khầu trừ thuế đối với lãi suất hoặc cho
khấu trừ một khoản chi phí danh nghĩa đối với huy động vốn bằng cổ phiếu. Giải
pháp sau có thể có một lợi ích khác là khuyến khích các ngân hàng nắm giữ nhiều
hơn các khoản dự trữ vốn.
Nhưng vần đề thực sự được nhấn mạnh là tính trung lập của chính sách thuế.
Nếu một chính sách thuế khuyến khích các hoạt động kinh tế này hơn các hoạt
động khác thì sớm muộn gì nó cũng gây ra nhiều vấn đề. Các chính phủ không nên

xây dựng chính sách thuế mang lại lợi ích cho nhóm người nộp thuế này hơn nhóm
người nộp thuế khác.
Hiệp hội Kế toán Công chứng Vương quốc Anh(ACCA) vừa công bố một
nghiên cứu mang tên "Các nguyên tắc thuế: từ Adam Smith đến Barack Obama",
nghiên cứu này đưa ra 12 chủ thuyết cơ bản của một hệ thống thuế tốt. (Chúng tôi
sẽ lần lượt giới thiệu nghiên cứu này với bạn đọc trong nhiều kỳ). Tính trung lập
của hệ thống thuế là hết sức quan trọng. Tại Hội nghị Thượng đỉnh G20 vừa qua,
các nhà lãnh đạo thế giới đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc xây dựng các
qui định xuyên quốc gia, học hỏi và chia sẽlẫn nhau giữa các quốc giađểthực hiện
tốt nhất các qui định. Các nhà lãnh đạo thế giới cũng nên thể hiện quyết tâm như
vậy đối với chính sách thuế.
PHẦN 2: CHÍNH SÁCH THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Các chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay.
1.1 Thuế thu nhập cá nhân.
Luật Thuế thu nhập cá nhân lần đầu tiên mở rộng phạm vi áp dụng đối với các
khoản thu nhập chịu thuế và đối tượng nộp thuế đã ảnh hưởng lớn đến những cá
nhân có thu nhập tại Việt Nam. Kể từ năm 2009, thu nhập chịu thuế không chỉ gói
gọn trong thu nhập từ tiền lương, tiền công, mà còn bao gồm thu nhập từ đầu tư
chứng khoán, đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, thừa kế, quà tặng, chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, tiền bản quyền tác giả… Những thay đổi này không chỉ giúp
thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế, mà còn góp
phần bù đắp phần nào sự giảm về số thu ngân sách nhà nước từ thuế gián thu,
chẳng hạn như thuế nhập khẩu do thực hiện các cam kết quốc tế sau khi gia nhập
WTO.
Cho đến tận bây giờ, các nhà đầu tư cá nhân vẫn còn lo ngại về việc đánh thuế
đối với thu nhập cổ tức. Theo quy định, các cá nhân có thu nhập là cổ tức sẽ phải
chịu thuế ở mức 5%. Điều này được coi là chưa công bằng nếu so sánh với sự miễn
thuế thu nhập từ cổ tức cho các công ty trong nước theo Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp. Phần lớn nhà đầu tư bất động sản đều lưỡng lự giữa 2 lựa chọn thuế, một là
đóng thuế 25% trên thu nhập ròng hoặc đóng thuế 2% trên tổng số tiền thu được từ

giao dịch.
Hiện nay, các khoản thu nhập của nhân viên dưới dạng cổ phiếu công ty còn
không mới lạ với cơ quan thuế Việt Nam. Do vậy, trong năm 2009 cũng đã có
chính sách thuế hướng dẫn áp dụng riêng cho việc tính thuế đối với các khoản thu
nhập bằng cổ phiếu (Công văn số 14169 ngày 7/10/2009 của Bộ Tài chính).
1.2 Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Sự thay đổi quan quan trọng và nhìn chung có lợi cho doanh nghiệp trong chính
sách thuế thu nhập doanh nghiệp là việc giảm thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp từ 28% xuống 25%. Việc bãi bỏ thuế lũy tiến trên lợi nhuận từ các giao dịch
chuyển nhượng bất động sản được coi là một trong những yếu tố góp phần làm
"nóng" thị trường này. Mặc dù vậy, một số ngành nghề kinh doanh khác như khai
thác mỏ và dầu khí lại có nhiều lý do để lo ngại do thuế suất tối thiểu tăng từ 28%
lên 32%.
Từ ngày 1/1/2009, đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được phép giữ lại
tối đa 10% thu nhập chịu thuế hàng năm để lập quỹ phát triển và nghiên cứu
(R&D).
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp kể từ năm 2009 thu hẹp những ưu đãi về thuế
thu nhập doanh nghiệp, nhưng lại được xem là tích cực theo hướng đơn giản hóa
các ưu đãi thuế nhằm thực hiện dễ dàng hơn. Một điều hết sức thú vị khi thuế được
đánh giá là một trong những biện pháp của Chính phủ Việt Nam trong công tác bảo
vệ mội trường khi đưa ra chính sách thuế ưu đãi vào tháng 12/2009 cho các dự án
đầu tư liên quan đến bảo vệ môi trường.
Một trong những lo ngại lớn nhất của các doanh nghiệp là việc khấu trừ chi phí
quảng cáo khuyến mại. Việc cho phép tăng mức khống chế chi phí này từ 10% lên
15% trong một số năm đầu cho doanh nghiệp mới thành lập tuy được hoan nghênh,
nhưng nhìn chung không đáp ứng được kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp.
Một thay đổi nữa trong các quy định về Thuế thu nhập doanh nghiệp là việc yêu
cầu các cơ sở sản xuất hạch toán phụ thuộc của doanh nghiệp hoạt động tại địa bàn
tỉnh, thành phố khác đóng thuế thu nhập doanh nghiệp tại địa phương đó theo tỷ lệ
chi phí của chi nhánh phụ thuộc trên tổng chi phí của doanh nghiệp. Các quy định

về thuế thu nhập doanh nghiệp đã hướng dẫn rõ ràng hơn về việc đánh thuế các
khoản thu nhập tại nước ngoài và thủ tục khấu trừ số thuế đã nộp tại nước ngoài.
Tuy nhiên, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp lại không quy định cụ thể vấn
đề miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập là cổ tức của doanh nghiệp
trong nước từ việc đầu tư ra nước ngoài. Do đó, nếu không quy định việc miễn
thuế đối với khoản thu nhập như vậy sẽ không khuyến khích các doanh nghiêp
trong nước đầu tư ra nước ngoài. Bởi lẽ, nếu họ đầu tư trong nước thì các khoản cổ
tức nhận được từ các hoạt động đầu tư trong nước sẽ được miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp.
1.3 Thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Luật Thuế GTGT mới bãi bỏ một số chính sách miễn thuế GTGT đối với máy
móc thiết bị nhập khẩu, ngay cả trong trường hợp các loại máy móc thiết bị này
hiện chưa sản xuất được trong nước. Việc này gây khó khăn về mặt lưu chuyển tiền
tệ cho doanh nghiệp, vì thông thường, giá trị các mặt hàng nhập khẩu này rất lớn.
Tuy nhiên, sau này, Thông tư 205/2009/TT-BTC ngày 26/10/2009 đã góp phần
giảm bớt gánh nặng này cho các doanh nghiệp nhập khẩu thông qua việc đơn giản
hóa thủ tục hoàn thuế GTGT.
Một thay đổi tích cực khác trong chính sách thuế GTGT là việc áp dụng thuế
suất thuế GTGT 0% đối với các dịch vụ xuất khẩu, mà không cần thiết là phải có
điều kiện tiêu thụ ngoài Việt Nam như trước đây. Mặc dù không phải tất cả dịch vụ
cung cấp cho các công ty nước ngoài đều được áp dụng mức thuế suất 0% (như
dịch vụ tái bảo hiểm với các công ty bảo hiểm nước ngoài, các dịch vụ tài chính
phái sinh), nhưng sự thay đổi này sẽ làm cho các nhà xuất khẩu dịch vụ của Việt
Nam có lợi thế cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế.
Liên quan đến kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào, các khoản chi trả trên 20
triệu đồng phải được thanh toán qua ngân hàng. Lý do của sự thay đổi này là nhằm
ngăn ngừa gian lận liên quan đến khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào và từng
bước đưa Việt Nam thành một xã hội không dùng tiền mặt.
1.4 Thuế nhà thầu nước ngoài.
Thuế nhà thầu nước ngoài (NTNN) được điều chỉnh theo Thông tư

134/2008/TT-BTC, ban hành vào tháng 12/2008, áp dụng từ ngày 1/1/2009. Một
trong những thay đổi quan trọng là Thông tư 134 đã bãi bỏ phương pháp nộp thuế
nhà thầu nước ngoài hỗn hợp, do vậy làm tăng chi phí và gánh nặng về mặt hành
chính cho các nhà thầu nước ngoài muốn được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối
với việc mua hàng hóa và dịch vụ trong nước. Tuy nhiên, đến tháng 10/2009,
Thông tư 197/2009/TT-BTC cho phép áp dụng lại phương pháp nộp thuế hỗn hợp
này.
Trong năm 2009 cũng đánh dấu sự ra đời của chính sách thuế nhà thầu nước
ngoài đối với những dịch vụ tài chính phái sinh. Sau khi tham khảo ý kiến của các
doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã ban hành Công văn số 13637/BTC-CST vào tháng
9/2009, quy định mức thuế suất thuế nhà thầu nước ngoài 2% đối với khoản thanh
toán ròng cho các giao dịch hoán đổi lãi suất. Công văn này chưa đáp ứng được kỳ
vọng của cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt các ngân hàng, là được miễn thuế nhà
thầu nước ngoài nhằm góp phần phát triển thị trường tài chính trong nước và
khuyến khích doanh nghiệp trong nước tăng cường sử dụng các công cụ tài chính
phái sinh như là một công cụ mới trong việc quản lý rủi ro tín dụng. Mặc dù vậy,
Công văn đã làm rõ chính sách thuế áp dụng giúp cho ngân hàng và doanh nghiệp
hoạch định chính sách giá sản phẩm và giúp họ tuân thủ quy định về thuế.
2. Vai trò của chính sách thuế trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ
nền kinh tế quốc dân.
Trong hệ thống đòn bẩy của cơ chế mới, thuế là công cụ quan trọng nhất để phân
phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn thu
từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại đã chuyển thành quan hệ “có vay
có trả”. Trước mắt, thuế phải là công cụ để góp phần quan trọng vào giảm bội chi
ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều
kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài. Thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu,
bộ phận cơ bản của một nền tài chính quốc gia lành mạnh.

Với cơ cấu kinh tế có nhiều thành phần, hệ thống thuế mới được áp dụng thống
nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế phải bao quát hầu hết các hoạt động kinh
doanh, các nguồn thu, mọi hoạt động tiêu dùng của xã hội.
Thuế phải khai thác từ thu nhập quốc dân, nguồn tích luỹ cho ngân sách chỉ có
thể tăng nhiều ra nhanh trên cơ sở nền kinh tế được phát triển và đạt hiệu quả cao,
đồng thời với ý thức triệt để tiết kiệm của nhân dân trong cả sản xuất và tiêu dùng.
Thuế phải đóng góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng và khai thác nguồn thu ngày
càng tăng.
2.2. Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Cùng với việc đổi mới công tác kế hoạch, giá cả và các đòn bẩy kinh tế khác,
thuế phải có vị trí quan trọng trong việc kiểm kê, kiểm soát quản lý, hướng dẫn và
phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với các thành phần kinh tế theo hướng
phát triển có kế hoạch của nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các
mặt cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tiền và
hàng, giữa cung và cầu.
Thông qua việc xây dựng đúng đắn và mối quan hệ giữa các loại thuế, qua việc
xác định hợp lý đối tượng nộp thuế, đối tượng tính thuế, thuế suất, biểu thuế, chế
độ miễn giảm, phương pháp quản lý thu thuế trên cơ sở hạch toán đầy đủ, chính
xác. Ý nghĩa điều tiết của thuế bao gồm hai mặt khuyến khích, nâng đỡ những hoạt
động kinh doanh cần thiết làm ăn có hiệu quả cao. Đồng thời thu hẹp, kìm hãm
những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu dùng theo hướng
tiết kiệm, chống xa hoa, lãng phí.
Thuế được xây dựng trên quan điểm mở rộng thị trường một cách lành mạnh,
vừa khuyến khích giao lưu hàng hoá, vừa đấu tranh hạn chế mua bán lòng vòng
qua nhiều khâu trung gian, đầu cơ tích trữ. Thuế có vai trò hướng dẫn và khuyến
khích hợp tác đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu đồng thời
với việc bảo vệ sản xuất nội bộ.
2.3. Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công
bằng xã hội.
Hệ thống thuế hiện nay được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, giữa các

thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư để đảm bảo công bằng xã hội. Công bằng
xã hội không có nghĩa là bình quân chủ nghĩa, đòi hỏi mọi người trong xã hội chỉ
có thể thu nhập ngang nhau. Người có thu nhập cao phải đóng thuế cao hơn người
có thu nhập thấp nhưng phải đảm bảo người có thu cao sẽ làm ăn ngày một có hiệu
quả hơn so với người có thu nhập thấp nhằm khuyến khích cải tiến quản lý, cải
tiến kỹ thuật, đầu tư vốn, đầu tư chất xám, làm ăn có thu nhập chính đáng.
3. Chức năng, nguyên tắc và những hạn chế trong sự can thiệp của chính phủ
vào nền kinh tế thị trường thông qua chính sách thuế.
3.1. Chức năng của chính phủ không phải là thay thế thị trường, mà là cải thiện
các chức năng của nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, bất cứ quyết định nào nhằm
quy định hoặc can thiệp vào hoạt động của các lực lượng thị trường (cung và cầu)
đều phải được cân nhắc cẩn thận giữa cái hại do các quy định đó đưa ra với lợi ích
mà các can thiệp đó đem lại.
3.1.1 Phân bổ nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Mục tiêu kinh tế trọng tâm của chính phủ là hỗ trợ việc phân bổ nguồn lực nhằm
năng cao hiệu quả kinh tế đạt mức như xã hội mong muốn. Giải quyết vấn đề này
chính là chính phủ đã tập trung trả lời cho câu hỏi cái gì và như thế nào trong đời
sống kinh tế. Chính sách kinh tế ở các nước khác nhau sẽ không giống nhau, tùy
thuộc vào phong tục tập quán và tư tưởng chính trị của nước đó. Biểu hiện của việc
thực hiện chức năng này là việc chính phủ đứng ra cung cấp các loại hàng hóa
công cộng, điều tiết các luồng đầu tư vào các ngành, các vùng theo quy hoạch
chung, khắc phục các thất bại của thị trường như độc quyền, ngoại ứng hay thông
tin không chính xác.
Cải cách thuế còn phải làm tăng tính hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực vốn
có tính hữu hạn của nền kinh tế. Do một chính sách thuế bất kỳ sẽ làm thay đổi
hành vi của các thực thể trong nền kinh tế, nên việc cải cách thuế sẽ giúp điều
chỉnh lại các khuynh hướng tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế, khuyến khích khởi
nghiệp và tinh thần doanh nhân.
Thông qua các chính sách thuế, chính phủ có thể tạo ra các động cơ khuyến
khích có tính kinh tế để khu vực tư nhân phân bổ vốn và các ngành nghề và lĩnh

vực mục tiêu, hơn là các can thiệp hành chính gây méo mó các quan hệ thị trường.
Một số dạng thức thị trường mới nổi ở Việt Nam như thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản rất cần có các chính sách thuế mới của Chính phủ để điều tiết
và phân bổ lại nguồn lực thích hợp. Nguyên tắc quan trọng là cải cách thuế phải
làm giảm tổn thất phúc lợi vô ích của xã hội bằng cách tạo ra một sắc thuế có mức
thuế suất thấp nhưng có cơ sở thuế rộng hơn.
3.1.2 Phân phối lại thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội.
Ngay cả khi bàn tay vô hình của thị trường có hiệu quả thì nó vẫn có thể tạo ra
những sự phân phối lại thu nhập rất bất bình đẳng. Khi quốc gia còn ở mức phát
triển thấp, những nguồn lực sẵn có dành cho việc phân phối lại còn rất hạn chế.
Nhưng khi đã phát triển cao hơn thì cùng với sự thịnh vượng chung, chính phủ
cũng sẽ có khả năng dành nhiều nguồn lực hơn để cung cấp các dịch vụ cho người
nghèo. Đây được coi là chức năng kinh tế lớn thứ hai của chính phủ. Phân phối lại
thu nhập thường được thực hiện thông qua chính sách thuế khóa và chi tiêu. Mặc
dù vậy, đôi khi chính phủ vẫn điều tiết trực tiếp bằng các mệnh lệnh hành chính.
Động cơ của cải cách thuế còn liên quan đến các vấn đề chính trị và xã hội, đó là
khả năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo các tiến bộ và công bằng xã hội. Trong
khi kinh tế ngày càng phát triển thì xã hội cũng ngày càng có sự phân hóa thu
nhập, của cải và giàu nghèo sâu sắc hơn. Vai trò của chính phủ là giảm sự phân hóa
đó bằng cách tái phân phối lại thu nhập của xã hội, tức cũng để đảm bảo tính công
bằng hơn cho phát triển. Khi mục tiêu này không đạt được sẽ có nguy cơ dẫn đến
những bất mãn trong xã hội.
Tính chất công bằng trong một chính sách thuế liên quan đến cả công bằng dọc
và công bằng ngang. Công bằng dọc tức là người có thu nhập cao hơn phải đóng
góp nhiều hơn, trong khi công bằng ngang phải đảm bảo mức đóng góp như nhau
cho những người có thu nhập ngang bằng nhau. Thế nhưng thực tế cho thấy Luật
Thuế thu nhập cá nhân hiện nay vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu này, trong khi Dự
thảo Luật thuế nhà, đất thực chất đã thất bại nếu đánh giá trên các khía cạnh công
bằng của nó.
Quá trình đổi mới kinh tế và cải cách thể chế ở Việt Nam đã tạo cơ hội cho một

bộ phận người giàu lên nhanh chóng nhưng lại tạo ra một tầng lớp người nghèo
mới. Thế nhưng, có một thực tế là không phải người nào giàu nhất cũng đang đóng
thuế nhiều nhất nhưng lại có những nhóm người nghèo lại phải gánh những khoản
thuế quá mức so với thu nhập và nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của họ. Cải cách
cơ chế tiền lương theo hướng minh bạch, chẳng hạn như giảm các khoản phụ cấp
không qua lương, cũng sẽ góp phần làm tăng tính hiệu quả cho công cuộc cải cách
thuế hướng đến mục tiêu công bằng hơn và hiệu quả hơn.
Chức năng phân phối lại thu nhập của thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập
quốc dân dưới hình thức tiền tệ vào ngân sách Nhà nước. Phần lớn thuế đánh trên
hàng hóa và thu nhập. Người có thu nhập cao và sử dụng nhiều hàng hóa, dịch vụ
là người nộp thuế nhiều hơn. Số tiền này sau đó lại được Nhà nước chi nhằm thực
hiện chính sách kinh tế-xã hội, tạo ra tính công bằng tương đối cho xã hội.
3.1.3 Ổn định hóa kinh tế vĩ mô.
Ngày nay, khi khoa học kinh tế đã phát triển mạnh, loài người đã có nhận thức
đầy đủ hơn về nguyên nhân gây ra lạm phát, thất nghiệp và các bất ổn định kinh tế
khác, cũng như khả năng can thiệp chủ động của chính phủ để khắc phục các hiện
tượng đó. Vì thế, chính phủ hiện nay có trách nhiệm không để tái diễn các cuộc suy
thoái hoặc khủng hoảng trầm trọng như những năm 30 nữa. Công cụ để chính phủ
thực hiện chức năng này là chính sách tài khóa, tiền tệ và sự giám sát chặt chẽ thị
trường tài chính. Ngoài ra chính phủ còn tập chung vào việc hoạch định các chính
sách thúc đẩy tăng trưởng dài hạn.
Việc tăng cường vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu
của Nhà nước ngày càng tăng lên và hậu qủa tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải mở
rộng quỹ tài chính Nhà nước, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. Nhu cầu về
nguồn tài chính càng lớn thì Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng của thuế
để tác động một cách có hiệu quả đến nền kinh tế quốc dân. Chính phủ sử dụng để
kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu đi sự tích
lũy tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư,
đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã thực hiện
điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong phạm vi quốc gia.

3.1.4 Đại diện cho quốc gia trên trường quốc tế.
Trong những năm gần đây, thương mại và tài chính quốc tế đã trở nên hết sức
quan trọng. Do đó, chính phủ đóng vai trò là đại diện cho quyền lợi quốc gia trên
các diễn đàn quốc tế và đàm phán các hiệp định cùng có lợi với quốc gia khác trên
thế giới. Các lĩnh vực thường xuất hiện trên các diễn đàn kinh tế quốc tế ngày nay
là:
+ Tự do hóa thương mại: Một phần trong các chính sách kinh tế là đàm phán giảm
dần các rào cản thương mại.
+ Các chương trình hỗ trợ quốc tế: Các nước giàu thường có nhiều chương trình hỗ
trợ, giúp cải thiện cuộc sống cho người nghèo ở các nước khác.
+ Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô: các nước có sự phối hợp với nhau trong
các chính sách vĩ mô để chống lại lạm phát, thất nghiệp và khủng hoảng.
+ Bảo vệ môi trường thế giới: sự phối hợp giữa các nước để bảo vệ môi trường ở
những khu vực mà nhiều nước cùng sử dụng hay cùng chịu ảnh hưởng lan tỏa của
ô nhiễm.
3.2. Nguyên tắc cơ bản cho sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế thị
trường.
3.2.1 Nguyên tắc hỗ trợ: khi can thiệp vào nền kinh tế thị trường, các chính sách
của chính phủ phải hỗ trợ cho thị trường một cách đồng đều và thuận tiện nhất.
Mặc dù số phát sinh nợ đọng thuế từ đầu năm đến nay khá lớn, nhưng với chính
sách giãn, giảm thuế hiện đã có hàng nghìn doanh nghiệp quay trở lại sản xuất.
Vừa qua, chúng ta đã thực hiện Nghị quyết 13 của Chính phủ về giảm, giãn thuế.
Ví dụ việc giãn thuế VAT 3 tháng, qua đó đã có hơn 200.000 doanh nghiệp được
thụ hưởng chính sách này, với số tiền là 11 nghìn tỷ đồng, rất là quan trọng với
doanh nghiệp.
Chính sách từ nay đến những tháng cuối năm, gồm cả nhiệm vụ thu ngân sách,
giãn, giảm thuế, đồng thời cũng như nhiệm vụ giải ngân, đảm bảo vốn cho những
doanh nghiệp quan trọng, doanh nghiệp xuất khẩu… những điểm sáng trong nền
kinh tế có những dấu hiệu lan rộng, rõ hơn. Nhìn vào kê khai thuế cho thấy tháng
sau cao hơn tháng trước, số doanh nghiệp khai có lãi 3 - 4% trong một tháng.

3.2.2 Nguyên tắc tương hợp: trong các cách thức can thiệp của chính phủ, cần lựa
chọn một cách thức tương hợp với thị trường hoặc ít gây méo mó thị trường.
Ví dụ: việc chậm trễ đánh thuế nhà và đánh thuế đất quá thấp là nguyên nhân
chúng ta đang túng trong giải quyết bài toán phát triển hạ tầng và dịch vụ công
cộng, cũng là nguyên nhân của tình trạng hàng trăm biệt thự, nhà đất để không như
hiện nay, gây lãng phí và làm méo mó thị trường bất động sản. Chính sách thuế
trước hết phải góp phần điều chỉnh được thị trường bất động sản hoạt động minh
bạch, phát triển bền vững và điều chỉnh quá trình phát triển đô thị chứ không phải
chỉ tính mỗi việc là đóng góp vào ngân sách nhà nước bao nhiêu tiền mỗi năm. Để
làm được điều đó trong cơ chế thị trường, trước hết là công cụ thuế, sau đó mới
đến công cụ quy hoạch và công cụ hành chính. Đây là một điểm mà các nước khác
đã thừa kinh nghiệm. Nước ta cũng có nói tới nhưng thực tế thu của ta không
“động chạm” được vào chức năng điều tiết. Chúng ta luôn lấy lý do thu nhập của
dân còn thấp nên khó tăng tỉ suất thuế nhà đất. Thu nhập thấp chủ yếu tại khu vực
nông thôn và miền núi, vậy hãy miễn thuế nhà đất cho khu vực nông thôn (kém
phát triển) và miền núi. Khu vực đô thị nhiều tiện lợi và hấp dẫn phải thu ở mức
cao, tương xứng với giá trị nhà đất tại đó. Đó cũng là lẽ công bằng cần xác lập.
3.3. Những hạn chế của chính phủ khi can thiệp vào nền kinh tế thị trường.
Từ những năm 1970, các nhà kinh tế học trên thế giới đã nghiên cứu và đưa ra
những hạn chế gây nên thất bại trên thị trường:
- Thông tin hạn chế: Những hậu quả của nhiều hành động là rất phức tạp và khó
thấy trước. Khi chính phủ liên bang áp dụng chương trình đổi mới thành thị, chính
phủ đã không thấy trước được rằng các chương trình đó có thể dẫn đến giảm cung
nhà ở cho người nghèo. Tương tự như vậy, chính phủ không dự đoán được sự tăng
bất ngờ chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe khi thực hiện chương trình chăm sóc y tế.
- Kiểm soát hạn chế đối với những phản ứng của tư nhân: Chính phủ chỉ có sự
kiểm soát hạn chế đối với những kết quả hành động của mình, đặc biệt trong phạm
vi nền dân chủ như là nền dân chủ của chúng ta (*VF: Ở đây ý tác giả nói tới Hoa
Kỳ). Khi thành phố New York thông qua văn bản luật pháp về kiểm soát tiền thuê
nhà của thành phố mình, những người đề ra văn bản này đã bỏ qua một thực tế là

nếu lợi nhuận bị giảm thì chủ tư nhân đang cho thuê nhà có thể quay sang đầu tư
vào nơi khác. Những người ra văn bản đã không dự đoán được rằng nhà cho thuê
có thể giảm, và chất lượng dịch vụ cho thuê cũng có thể bị xuống cấp. Mặc dù
chính phủ đã nỗ lực kiểm soát sự xuống cấp này bằng cách áp đặt các tiêu chuẩn
phục vụ đối với các chủ cho thuê nhà, nhưng những áp đặt đó chỉ thành công một
phần, và còn làm giảm nghiêm trọng hơn việc cho thuê nhà. Thành phố New York
ít có khả năng chặn đứng việc này, ngoại trừ việc hủy bỏ các thể chế kiểm soát tiền
thuê nhà.
- Kiểm soát hạn chế đối với bộ máy hành chính quan liêu: Quốc hội và các cơ quan
lập pháp bang và địa phương xây dựng luật pháp, nhưng giao quyền thực hiện cho
một số cơ quan chính phủ nào đó. Cơ quan này có thẻ bỏ ra khá nhiều thời gian để
viết các văn bản chi tiết; việc những văn bản này được soạn thảo ra sao là điều
quyết định hiệu lực của các văn bản đó. Cơ quan này có thể chịu trách nhiệm về
việc thi hành các văn bản pháp luật đó.
Ví dụ quốc hội thông qua đạo luật Bảo vệ môi trường với dụng ý rất rõ ràng là
bảo đảm để các hãng không làm ô nhiễm môi trường. Song những chi tiết kỹ thuật,
ví dụ như xác định mức độ ô nhiễm có thể được chấp nhận đối với các ngành khác
nhau, lại giao cho cơ quan bảo vệ môi trường giải quyết. Trong hai năm đầu, dưới
chính quyền Reagan đã xảy ra nhiều cuộc bàn cãi về việc liệu cơ quan bảo vệ môi
trường có lỏng lẻo trong việc quy định và ban hành các quy định đó không. Do đó
mà làm hỏng ý dụng của quốc hội.
Trong nhiều trường hợp, việc không thực hiện các ý định của Quốc hội không
phải là những nỗ lực thiếu thận trọng nhằm tránh ý muốn của quốc hội. Còn có một
vấn đề nữa là việc bảo đảm để những người thi hành luật pháp làm việc một cách
công minh và có hiệu quả. Vì chủ đề chính trong điều tra về kinh tế học chuẩn là
phân tích những khuyến khích trong khu vực tư nhân, do đó một trong những chủ
đề nghiên cứu ở đây là phân tích các động cơ khuyến khích trong khu vực công
cộng: nguyên nhân gì đã khiến các công chức hành động như họ vẫn làm?
Những hạn chế do các quá trình chính trị áp đặt: Ngay cả khi chính phủ được
thông tin đầy đủ về những hậu quả của tất cả mọi hành động có thể có, thì việc lựa

chọn trong số những hành động đó qua quá trình chính trị cũng có thể gây thêm
những khó khăn. Hành động của chính phủ có ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng
lại chỉ do một nhóm ít người quyết định, đó là những người đại diện đã được bầu
ra. Những người ra quyết định phải tìm hiểu ý thích của những cử tri của mình và
phải tìm ra cách gì đó để hòa giải hoặc lựa chọn cho những ý thích trái ngược
nhau.
Người ta thường cho là chính phủ hoạt động không nhất quán. Trong quá trình
chính trị của chúng ta là một quá trình trong đó những người được bầu ra để phục
vụ công chúng đôi khi có động cơ hành động vì lợi ích của cá nhóm lợi ích đặc
biệt. Do đó, thất bại của các chính khách trong việc thực hiện công việc dường như
vì lợi ích của công chúng, không chỉ là hậu quả của lòng tham hay ác ý của một số
chính khách thất thường, mà đó là hậu quả không thể tránh khỏi của những công
trình về thể chế chính trị trong xã hội dân chủ.
Những người chỉ trích sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế cho rằng, bốn
lý do làm cho chính phủ thất bại đã đủ tầm quan trọng để chính phủ phải thận trọng
trong việc cứu chữa cái gọi là tính phi hiệu quả của thị trường. Nhưng nếu có
người không đồng ý với kết luận đó, thì việc công nhận bốn hạn chế đó trong hành
động của chính phủ vẫn là tiền đề để xây dựng các chính sách thành công của
chính phủ.
4. Những trở ngại của cải cách thuế.
Việc cải cách thuế chắc chắn sẽ gặp nhiều trở ngại do nó đụng chạm đến lợi ích
của nhiều nhóm dân cư khác nhau. Thật không dễ để lấy thêm một phần lợi ích của
ai đó mà không gây nên sự phản ứng hay chống đối. Các quyết tâm chính trị là
quan trọng nhưng điều quan trọng hơn là phải dành được sự ủng hộ về mặt xã hội
trên cơ sở những lợi ích có tính rõ ràng hơn hay có thể nhìn thấy trước mà việc cải
cách thuế mang lại. Các giới hạn về mặt nguồn lực như thông tin, con người, tài
chính hay công nghệ cũng sẽ làm ảnh hưởng đến tiến trình cải cách thuế theo
hướng kìm hãm hay thúc đẩy.
Một trở ngại quan trọng mang tính tâm lý là mặc cảm “không thể thay đổi”. Khi
khó khăn mới chỉ khởi phát thì người ta vẫn còn lạc quan, nhưng chính sự lạc quan

đó lại dẫn đến chủ quan không làm gì để giải quyết sẽ dẫn đến khủng hoảng hệ
thống. Lúc này, khó khăn quá lớn, lại liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau
trong các quan hệ, khiến cho người ta có cảm giác thật khó để thay đổi để rồi chấp
nhận sống chung với nó. Vượt qua trở ngại tinh thần này cũng không dễ nhưng bài
học lịch sử nhắc lại rằng thời điểm khó khăn nhất chính là lúc dễ cải cách nhất.
Một số lời khuyên từ bên ngoài là cần thiết và có thể lắng nghe nhưng không phải
khi nào cũng thích hợp để thực hiện. Các lời khuyên theo kiểu quá tô hồng thành
tích sẽ tạo nên tâm lý tự mãn, trong khi các đánh giá thái quá có thể làm triệt tiêu
các động lực cải cách.
5. Các nguyên tắc và bài học của cải cách thuế.
Sẽ không có một hệ thống thuế nào được xem là hoàn hảo và lý tưởng duy nhất
cả. Để đánh giá một hệ thống thuế mới người ta thường đặt ra ba tiêu chí: Hệ thống
thuế có hiệu quả kinh tế hơn hay không? Hệ thống thuế có công bằng về mặt xã hội
hơn không? Hệ thống thuế có tạo nhiều nguồn thu ngân sách ròng hơn không?
Trong khi những tiêu chí đánh giá vẫn không đổi thì điều gì là tốt nhất sẽ thay đổi
theo thời gian phụ thuộc vào cấu trúc thu chi ngân sách của quốc gia, tức là một hệ
thống thuế có tính động thay vì tĩnh.
Đứng trên phương diện hiệu quả kinh tế, việc cải cách thuế phải dựa trên nguyên
tắc mức thuế suất thấp và cơ sở thuế rộng. Do mất mát xã hội vô ích tỷ lệ với bình
phương thuế suất nên một mức thuế suất thấp hơn sẽ làm giảm tổn thất phúc lợi xã
hội. Thuế suất giảm còn làm giảm các hành vi trốn, tránh thuế thông qua các hoạt
động dịch chuyển thu nhập hay chuyển giá - những hành vi làm thất thu thuế, tăng
chi phí quản lý và tuân thủ thuế. Việc giảm thuế suất phải đi đôi với định nghĩa lại
cơ sở thuế trên cơ sở rộng hơn nhằm có thể tăng doanh thu thuế ròng. Bởi vì, mục
đích chính của chiến lược cải cách thuế phải là tối đa hóa nguồn thu, trong khi vấn
đề công bằng và phúc lợi xã hội còn được giải quyết thông qua chính sách chi tiêu
của chính phủ.
Điều cũng cần lưu ý trong quá trình cải cách thuế là phải sắp xếp thứ tự ưu tiên
sao cho mục tiêu thu ngân sách phải là thứ yếu trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên,
trong dài hạn, mục tiêu cuối cùng vẫn phải là tăng doanh thu thuế ròng. Có một số

tiêu chí để đánh giá khả năng tạo nguồn thu thuế ròng. Chẳng hạn, nếu so với nền
kinh tế người ta thường sử dụng các chỉ tiêu: tỷ số thuế, độ nổi thuế, độ co giãn của
thuế, và tính ổn định của thuế; nếu so với tiềm năng: năng lực thuế, nỗ lực thuế;
nếu so với hiệu quả hành chính: tỷ lệ thu, chi phí của tỷ lệ thu, thu nợ thuế. Bên
cạnh đó, một chính sách thuế mới cũng phải trên cơ sở đơn giản hóa, từ vấn đề quy
trình thủ tục đến công tác quản lý, tuân thủ và thực thi thuế.
Một số kinh nghiệm cho thấy, chiến lược cải cách thuế cần phải tính toán, cân
nhắc một cách thận trọng và cụ thể. Các cuộc cải cách vội vã thường dẫn đến thất
bại, gây khó khăn hơn cho những đợt cải cách trong tương lai. Các thành công
bước đầu mặc dù ở một quy mô nhỏ nhưng tăng được doanh thu cũng sẽ tạo cơ sở
cho việc mở rộng phạm vi cải cách thuế và làm tăng cơ hội thành công. Tăng tối đa
khả năng thu tại nguồn, tức thiết kế một quai thuế vững chắc, sẽ đảm bảo hạn chế
tối thiểu tình trạng thất thoát nguồn thu, tăng thuyết phục cho các trách nhiệm giải
trình.
III. Kết luận.
Nói chung, trong nền kinh tế có sự điều tiết của chính phủ, thuế ngày càng trở
lên là một công cụ quan trọng nhằm thể hiện vai trò điều chỉnh kinh tế của chính
phủ. Chính sách thuế hợp lý tạo ra một nguồn thu chủ yếu cho phần ngân sách tác
động điều chỉnh mạnh mẽ các hoạt động mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nhưng
trong quá trình thực thi chính sách thuế thì chúng ta chưa đạt được những kết quả
như mong muốn nhưng cũng đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ.
Để khắc phục tình trạng khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế, thì chúng ta cần quan tâm nhiều hơn đến việc cải cách chính sách thuế cho
phù hợp với điều kiện của đất nước nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Hơn
nửa mỗi người tham gia nghĩa vụ nộp thuế và thu thuế cần hiểu rõ, hiểu đúng mục
tiêu tăng trưởng kinh tế để thực hiện nghĩa vụ của mình đảm bảo vai trò theo đúng
chức năng mà nó mang theo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. www.gdt.gov.vn/

2. vi.wikipedia.org/wiki/Tổng_cục_Thuế
3. />4. Bài giảng: Phân tích chính sách nông nghiệp ( TS. Phan Văn Hòa).

×