Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Skkn một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.81 KB, 24 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 2

Quảng Bình, tháng 5 năm 2020

skkn


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 2

Họ và tên: Nguyễn Thị Lê Trang
Chức vụ: giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Mỹ Thủy

Quảng Bình, tháng 5 năm 2020

skkn


1. Phần mở đầu:
1.1. Lý do chọn sáng kiến.
Giáo dục là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà


nước ta coi: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Bậc Tiểu học được coi là bậc học
“ nền tảng” của hệ thống giáo dục quốc dân. Đó là tiền đề vững chắc cho việc đào
tạo nguồn nhân lực, nhân tài đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước.
Vì vậy, mục tiêu của giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ ,thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở.
Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang
được đổi mới mạnh mã theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là
cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là : Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định
mình.
Từ năm học 2010-2011, Bộ GD-ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng
ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn.
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, các
em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà cịn phải được tơi luyện những kĩ năng
sống qua đó tạo cho các em một mơi trường lành mạnh, an tồn, tích cực, vui vẻ để
trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước vào đời tự tin hơn.
Mục tiêu giáo dục là nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản,
góp phần hình thành nhân cách đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ở bậc tiểu học là bậc tạo nền tảng cho học sinh
phát triển, vì vậy ngồi việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập,
lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, kỹ năng làm người để học sinh
có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội mới.

skkn



Năm học 2019-2020 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Xây dưng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là
một trong những nội dung của phong trào. Chính vì vậy nên các nhà trường cần chú
trọng hơn đến nội dung “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh giúp học sinh tự giải quyết được một số vấn
đề thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ mơi
trường và phịng chống các tệ nạn xã hội,… để các em chủ động, tự tin không phụ
thuộc hồn tồn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng cho học sinh, tôi đã
chọn sáng kiến về “Một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh lớp 2”
1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Ở trường tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng giáo dục kĩ năng sống có
vai trị đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhân cách học sinh. Để giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh cần hiểu vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình, từ đó đưa ra
những biện pháp cụ thể để xây dựng tập thể lớp vững mạnh toàn diện.
Đề xuất được cách tiếp cận mang ý tưởng mới trong giáo dục kĩ năng sống theo
hướng khai thác nội dung môn học để giáo dục kĩ năng sống riêng mang tính đặc thù
của học sinh Tiểu học và sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cực
để giáo dục kĩ năng sống chung.
Tìm một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học nói chung và
học sinh lớp 2 nói riêng.
Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp học
sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử
có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật…
1.3. Phạm vi áp dụng
Sáng kiến này được áp dụng từ đầu năm học đến nay để “Giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh học sinh tồn trường nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng”.

2. Phần nội dung


skkn


2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu.
    Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập
không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri
thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường
xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân
trong quá trình tồn tại và phát triển. Mặc dù ở một số mơn học, các hoạt động ngoại
khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương
pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả
lồng ghép còn chưa cao.
     Qua thực tế giảng dạy HĐNGLL ở lớp 2 trường tiểu học, bản thân tôi thấy kĩ
năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng
tốt, các em cịn có nhận thức cịn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc
nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện
kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn tự nhìn nhận và tự đánh giá về bản thân, kĩ
năng xác định còn hạn chế. Kĩ năng tư duy và sáng tạo chưa cao. Các em còn ngại
nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tịi, khả năng đảm nhận trách nhiệm còn hạn
chế.
Mặc dù ở một số mơn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được
đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với
tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.
a.Thực trạng chung của nhà trường.
* Thuận lợi:
- Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền của địa phương, của phụ huynh
học sinh.
- Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc
dạy học của giáo viên và việc học của học sinh.

- Giáo viên trong nhà trường ln nhiệt tình giảng dạy, u nghề mến trẻ.
- Bản thân ln nhiệt tình trong cơng tác giảng dạy.
- Về học sinh : Nhìn chung các em chăm ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập.

skkn


- Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn có những khó khăn sau:
* Khó khăn:
- Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, kinh tế cịn nhiều khó khăn...
chính điều đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc học tập cũng như chất lượng học
của học sinh.
- Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nêu việc học tập của các em
cần có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì hiệu quả học của các em mới đạt cao.
- Về đội ngủ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song
cịn nhiều khó khăn do có một số giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiện trong
giảng dạy.
- Về phía các bậc phụ huynh: Cha mẹ các em ln nóng vội trong việc dạy con; họ
chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết
làm toán thì lo lắng một cách thái quá!
b. Thực trạng của HS lớp 2:
- Năm học 2019- 2020 tôi được phân công giảng dạy HĐNGLL ở lớp 2. Các em ở
rải rác khắp các thơn trong xã, có nhiều em xa trường nên việc đi lại của các em gặp
rất nhiều khó khăn điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất lượng học tập của các
em. Một số em thuộc diện hộ nghèo gia đình có hồn cảnh khó khăn. Một số em con
mồ cơi, có em mồ cơi cả cha lẫn mẹ sống với cô, bác, ông bà.
c. Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh
- Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho trẻ bản thân đã gặp những thuận lợi và khó
khăn sau:
c.1. Thuận lợi

Trường học nơi bản thân công tác là ngôi trường đã đạt chuẩn quốc gia nên
thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an
toàn cho trẻ. Bên cạnh đó, bản thân nhận được một tập thể học sinh khá ngoan và
biết vâng lời, các em gần gũi với cơ giáo. Ngồi ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn
theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục.
Chính vì thế bản thân ln cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các

skkn


em có một niềm tin, phát triển một cách tồn diện để trở thành con người năng động,
sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.
c.2. Khó khăn
* Đối với giáo viên
Giáo dục tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa hiểu
nhiều về nội dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp những kĩ năng sống cơ bản nào,
chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống
cho học sinh. Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới
phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng
tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó
khăn; giáo viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi
dưỡng do nhận thức về nghề chưa sâu sắc nên giáo viên mới thường không an tâm
công tác.
*Đối với học sinh
- Trong các nhà trường, trong lớp ít nhiều vẫn cịn có hiện tượng học sinh cãi nhau,
đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, ...Các em học sinh lớp 2
khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu
các em nói khơng rõ ràng, trả lời trống khơng, khơng trịn câu và ít nói lời cảm ơn,
xin lỗi với thầy cô, bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em
khơng có người trò chuyện, chia sẻ ...

* Đối với phụ huynh học sinh
- Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng
đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm Tốn thì lo lắng
một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có một số bố
mẹ thì q nng chiều con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ bản thân.
Ngược lại, một số phụ huynh vì bận nhiều cơng việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em
trong các hoạt động cần thiết…
* Nguyên nhân

skkn


Một trong những nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của các em học sinh
lớp 2 chính là do các em thiếu kĩ năng sống cần thiết như: Kĩ năng xác định giá trị, kĩ
năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng,
kĩ năng giao tiếp. Hiện tượng trẻ em ngu ngơ khi phải xử lí những tình huống của
cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu
sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều.

2.2. Các giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.
Giải pháp 1: Nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kĩ năng sống cho học sinh.
Đầu năm học, tôi học tập nghiên cứu chuyên đề rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu
học, về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh bậc
học tiểu học do Bộ Giáo dục- Đào tạo phát động; qua đó giúp tơi hiểu được rằng
chương trình học chính khố thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hố
trong suốt năm học, cịn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một
cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế,
khi trẻ tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng
xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung
vào việc học văn hoá một cách tốt nhất. Bản thân tơi ln chịu khó gần gũi chuyện

trị với học sinh, trả lời những câu hỏi vụn vặt của các em, không la mắng, giải quyết
hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Trong
giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn, Mạnh dạn, tự
tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ,
trao đổi thường xuyên với cha mẹ các em. Hiệu quả lớn nhất là nhà trường đã huy
động được sự tham gia của cha mẹ các em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội
trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống cho học sinh, đồng thời đây là những cơ
hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống.
Giải pháp 2: Xác định những kĩ năng sống cơ bản và cụ thể hóa nội dung của
những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ ở lứa tuổi tiểu học.

skkn


Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ cần
phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp1. Thực tế
kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất trẻ phải học
vào thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm
sốt, tính tự tin, tự lập, tị mò, khả năng thấu hiểuvà giao tiếp. Việc xác định được
các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội
dung trọng tâm để dạy trẻ.
Các nội dung của kĩ năng cơ bản mà người giáo viên cần dạy cho trẻ là:
- Kĩ năng sống tự tin : Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân
cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống này giúp trẻ luôn
cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
- Kĩ năng sống hợp tác: Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng
làm việc với các bạn, thông qua kĩ năng hợp tác giúp các em sống hài hòa và tránh
xung đột trong quan hệ với người khác.
- Kĩ năng thích tị mị, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kĩ
năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao được học.

Người giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tị
mị tự nhiên của các em.
- Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân biết dung hòa đối
với mong đợi với những người khác, có cách ứng xử phù hợp khi làm việc cùng và ở
cùng với những người khác trong một mơi trường tập thể và diễn đạt ý tưởng của
mình cho người khác hiểu, học sinh cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong
thế giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó
có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết, làm toán và
nghiên cứu khoa học.
Giải pháp 3: Xác định nhiệm vụ cơ bản và trách nhiệm trong việc dạy:

skkn


Giáo viên có thể làm được gì để dạy kĩ năng sống cho trẻ? Cần tích cực đổi mới
phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh ,
cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh . Vì
mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như thế nào để các em
cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Cần thường xuyên tổ chức
các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một cách thích hợp tuân theo một
số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ,
nhận thức, tình cảm- xã hội và thẫm mĩ. Phát huy tính tích cực của các em, giúp các
em hứng thú, chủ động khám phá tìm tịi, biết vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào
việc giải quyết các tinh huống khác nhau. Cần giúp các em có được những mối liên
kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần
phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi
vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp
nhận các thử thách mới.
Giải pháp 4: Tạo mối thân thiện và tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ giáo
dục trẻ kĩ năng sống với học sinh.

Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo
viên, bản thân sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động
viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng
như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cơ trị hiểu nhau, đồng
thời tạo một mơi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà
thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng
là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học
sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên ln gị bó và áp
đặt.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào,
giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao
tiếp tục qua biện pháp tiếp theo.

skkn


Giải pháp 5: Rèn kĩ năng sống thông qua giáo dục những phẩm chất đạo đức
cho học sinh.
Giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức về hành vi, thái độ đối với bạn
bè, thầy cơ, bản thân mình. Ghi nhớ năm điều Bác Hồ dạy cho học sinh, học tập nội
quy của nhà trường, của đội, của lớp. Thường xuyên nêu gương người tốt, việc tốt
cho các thành viên khác để học tập , phấn đấu.
Động viên, khuyến khích, tun dương kịp thời những học sinh có sự cố gắng
vươn lên trong học tập và rèn luyện.
Kết hợp với hoạt động Đội, Sao thường xuyên phát động thi đua cùng với các
chủ đề khác nhau để học sinh rèn luyện học sinh như: “ Em làm kế hoạch nhỏ”, ‘
’Em làm công tác đền ơn đáp nghĩa’’, “ Áo ấm đến trường”, “ Tổ chức sinh hoạt
dưới cờ ”... Từ đó giáo dục truyền thống hào hùng của dân tộc ta một cách sâu rộng
đến từng em để các em noi gương học tập và rèn luyện trở thành con ngoan, trò giỏi,
cháu ngoan Bác Hồ.

Giải pháp 6: Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận dụng vào các
môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học; An tồn
giao thơng .... để những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm
như trong cuộc sống thực.
Trong chương trình lớp 5, Ở mơn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật
xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải
sử dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong
phú, đa dạng như: kể chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm;
phân tích, xử lí tình huống; chơi trị chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,
…Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo
dự án, đóng vai, trị chơi,…Và chính thông qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ
thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội để thực
hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Hình thành cho
các em kĩ năng giao tiếp như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, nói lời u , đề nghị,
bày tỏ sự thơng cảm và chia sẻ....

skkn


Ví dụ: Khi dạy: “Hợp tác với người xung quanh” bản thân tổ chức cho các em,
khám phá bài học dựa vào các câu hỏi để học sinh cùng suy nghĩ và trả lời sau đó
giúp học sinh kết nối thơng qua các hoạt động tìm hiểu bản chất của hợp tác. Hoạt
động ích lợi của việc hợp tác và cuối cùng là tìm hiểu các yêu câu trong hợp tác,. Sau
vài lời khuyến khích đầu tiên, bản thân tổ chức cho các em đứng thành vịng trịn
đóng vai, thảo luận, tổ chức các trò chơi,… Lúc đầu các em rất ái ngại khơng tự tin
khi đóng vai, thảo luận bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng bản thân đã kịp thời nhắc nhở
các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một mơi trường hịa
đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, khơng cịn những cái nhìn ái ngại. Thay vào

đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc gọn, mạnh dạn hơn.
Thơng qua bài học học sinh có được kĩ năng biết hợp tác với bạ bè và mọi người
xung quanh trong cơng việc chung. Các em có kĩ năng đảm nhận trách nhiệm hoàn
tất nhiệm vụ khi hợp tác với bạn bè và người khác.
Ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó
là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Luyện tập làm báo cáo thống kê. Luyện tập làm
đơn. Luyện tập thuyết trình, tranh luận. Luyện tập viết đoạn đối thoại; phân vai, đọc
diễn màn kịch. Luyện tập làm biên bản cuộc họp( Môn tập làm văn). Kể chuyện
được chứng kiến hoặc tham gia. Kể chuyện lớp trưởng lớp tôi .... được lồng cụ thể
qua các tình huống giao tiếp, ứng xử phù hợp, tư duy sáng tạo, lắng nghe phản hồi
tích cực và kĩ năng hợp tác. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách
tự nhiên hồn tồn khơng gị bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có
nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản
mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng , kĩ năng xác
định giá trị và thể hiện rõ xác định giá trị, thể hiện sự thơng cảm hoặc phản hồi lắng
nghe tích cực,…hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra
những nội dung rèn kĩ năng sống.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Lập chương trình hoạt động” môn Tập làm văn: bản thân
cho học sinh chuẩn bị kế hoạch hoạt động: Phân công chuẩn bị và chương trình cụ
thể vào cuối tiết. Nhóm nào lập được chương trình hoạt động , phân cơng cụ thể nhất

skkn


sẽ được tuyên dương. Không những vậy bản thân tổ chức cho các em trao đổi :
“Muốn tổ chức một hoạt động liên quan đế nhiều người đạt được kết quả tốt, các em
cần lập chương trình hoạt động như thế nào? ”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy
nghĩ của mình. Qua bài học các em có những kĩ năng sống đó là: Đảm nhận trách
nhiệm, có khả năng tổ chức lập kế hoạch và phối hợp hoạt động. Các em hợp tác có
hiệu quả, thuyết trình tự tin.

Rèn kĩ năng sống có hiệu quả cịn được bản thân vận dụng khá nhiều trong trong
các môn học thơng qua xử lí tình huống hay các trị chơi học tập có nội dung gần gũi
với cuộc sống hằng ngày của các em.
Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức khỏe”các bài: “Con người cần gì
để sống? Vai trị của các chất dinh dưỡng có trong thức ăn; Phòng một số bệnh do
thiếu chất dinh dưỡng; Phòng bệnh béo phì; Phịng tránh tai nạn đuối nước;...” giáo
dục các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết
phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu hóa, biết những việc nên làm và khơng
nên làm để phịng tránh tai nạn đuối nước, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân
hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho
sức khoẻ. Học sinh có kĩ năng phân tích và đối chiếu các đặc điểm.Biết tham gia các
hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt.
Ngồi ra để các em có kĩ năng phịng chống tai nạn giao thơng và các thương
tích khác, bản thân đã giáo dục các em thơng qua các tiết: An tồn giao thơng, Khoa
học, thi Giao thông thông minh trên Internet, hướng dẫn các em phịng chống tai nạn
giao thơng và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các em
xử lí.
Chẳng hạn: “Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường và khi qua
đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu?”; “Khi đi bộ em đi ở đâu? Em có nên
chơi đùa trên đưịng làng khơng? Vì sao?”; “Khi ngồi trên xe máy em phải như thế
nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?”;
“Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn xảy ra?”...

skkn


Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính
xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ khác
với mọi người trong gia đình; ln hồ đồng với bạn bè; tự tin khi nói năng... đó
chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo mơi trường

làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động
trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu khơng khí
học tập, lao động trở nên sơi động hơn.
Ngồi ra, bản thân còn chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ
năng phòng chống tai nạn giao thơng và các thương tích khác qua các môn học: Ai
cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vơ cùng q báu của mỗi con người. Học tập tốt,
đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt cho học
sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức khỏe tốt và bảo
vệ được nó thì thật khơng dễ. Dù vậy khơng có nghĩa là khơng làm được, nhiều khi
sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị. Đó chính là giáo dục một
lối sống khoa học.
Giải pháp 7: Giáo dục kĩ năng sống thông qua lao động hướng nghiệp.
Lứa tuổi các em chưa yêu cầu ở mức độ công việc nặng. Bước đầu giáo viên giúp
các em làm quen với những buổi trực nhật, vệ sinh, chăm sóc hoa và đặc biệt là chú
trọng vệ sinh cá nhân hằng ngày.
Lên lịch trực nhật cho từng tổ rõ ràng, cụ thể. Hướng dẫn tổ trưởng điều khiển,
quản lý việc trực nhật của các tổ viên.
Cuối tuần có đánh giá, tuyên dương tổ, cá nhân có ý thức trực nhật tốt. Kết quả
các em rất thích cơng việc trực nhật, chăm sóc hoa.
Giải pháp 8: Công tác Đội Thiếu niên Tiền phong và tổ chức các hoạt động
vui chơi, rèn luyện thể lực bảo về sức khỏe.
- Bao giờ tơi cũng xem mình là một người chị phụ trách Đội để chỉ đạo các hoạt
động trong lớp một cách thường xuyên nhịp nhàng.

skkn


Ví dụ: Trong các buổi sinh hoạt Đội, tơi ln luôn kết hợp với giáo viên tổng
phụ trách Đội để nắm bắt chủ đề, chủ điểm hoạt động nhằm hướng dẫn lớp mình xây
dựng, thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua.

- Tham mưu chặt chẽ với Ban chỉ huy Liên đội tun dương những em có thành
tích cao trong học tập, lao động vào Đội.
- Triển khai kịp thời các phong trào, hoạt động của trường, Đội cho học sinh của
lớp mình như: phong trào mua tăm tre cho hội người mù huyện Lệ Thủy, ủng hộ bạn
nghèo, “áo ấm đến trường”….
- Nề nếp sinh hoạt đầu giờ, giữa buổi các em đều nắm bắt rõ và thực hiện tốt.
- Đặc biệt, việc bố trí ban chỉ huy chi đội hoạt động theo dõi hằng ngày khá đều
tay. Các phân đội trưởng có ý thức chăm lo đến chất lượng, kết quả của chi đội
mình. Để động viên khích lệ các em tơi thường tun dương, khen ngợi những phân
đội, những cá nhân tham gia tốt các hoạt động của Đội nên các em rất thích hoạt
động này.
- Thông qua những tiết học thể dục tôi luôn cho học sinh hiểu được tầm quan trọng
của việc rèn luyện thể dục thể thao.
- Tổ chức cho các em tập luyện các động tác thể dục trong chương trình và tập múa
các bài hát của Đội. Nhìn chung các em rất hào hứng.
- Ln tạo khơng khí vui tươi thoải mái trong các tiết học bằng các trò chơi mà các
em yêu thích.
Giải pháp 9: Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động
giáo dục, vui chơi.
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động các
phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về
trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi
được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn
tuổi... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Bản thân học cách lắng nghe, tìm hiểu
nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của

skkn


mình khi u cầu điều gì đó với học sinh. Tránh nói nặng lời để các em bớt đi tính

hung hăng đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả bản thân cịn vận dụng thơng qua các hoạt động
ngồi giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp.
Ví dụ: Nhân ngày lễ Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11. Đội đã phát
động phong trào thi làm báo tường giữa các chi đội trong toàn trường. Bản thân đã
hướng dẫn các em cùng sưu tầm bài và viết bài, vẽ và trang trí báo. Qua hoạt động
này rèn cho các em nhiều kĩ năng như: trình bày, trang trí,…các em rất nhiệt tình,
đồn kết và hợp tác nhau rất tốt.
Ngồi ra, những buổi chào cờ, bản thân ln khuyến khích các em xung phong
trả lời những câu hỏi mà thầy Tổng phụ trách hay hỏi. Luôn lắng nghe các nội dung,
hoạt động cần làm trong tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và thực hiện tốt các
phong trào
Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của các
em. Vì đối với học sinh bậc học tiểu học trị chơi có một vai trị rất quan trọng trong
việc rèn kĩ năng sớng cho các em. Các em lớn lên, học hành và khám phá thơng qua
trị chơi. Các hành động chơi địi hỏi các em phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề,
thực hành các ý tưởng. Khơng những thế, bản thân cịn khuyến khích các em cùng
chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ, những quan sát của mình với cơ với bạn
một cách thoải mái, tự nhiên khơng gị bó, áp đặt.
Giúp trẻ phát triển các kĩ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui
tươi, lành mạnh trong nhà trừơng. Phối hợp với các tổ chức trong nhà trường tổ chức
các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ
động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi
giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Căn cứ vào nội dung trên, tôi
đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến
khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ thể như sau: Phát động học sinh làm
đồ chơi dân gian; sưu tầm các bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho học sinh theo phù

skkn



hợp theo lứa tuổi học sinh lớp 2 . Năm học này, khi có chỉ đạo thực hiện nội dung
tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí
tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu học . Duy trì việc sinh hoạt
ngồi giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được học được chơi. Phối hợp với Tổng
phụ trách tổ chức các cuộc thi trò chơi dân gian trong dịp đầu xuân như: Ô ăn quan,
Lò cò, Cướp cờ, hội thi “Hò khoan Lệ Thủy", hội thi “Vẽ những điều em mơ ước”.
Đồng thời hàng tuần vào tiết chào cờ sáng thứ hai cho các em còn được nghe tuyên
truyền về xây dựng trường học an tồn, phịng tránh tai nạn thương tích, phịng tránh
tai nạn bom mìn; được nghe tuyên truyền giáo dục giới tính và bình đẳng giới; tìm
hiểu về di tích lịch sử ở địa phương...
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp
học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã hướng dẫn
các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh trong lớp hàng ngày.
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có
ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng bản thân luôn chú ý đến công tác động
viên, khen thưởng học sinh.
Giải pháp10: Động viên, khen thưởng học sinh.
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng,
ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các
em lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban chấp hành hội phụ huynh cùng phối hợp và
dành một khoản riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho các em
có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Bản thân theo dõi hằng ngày, các em
có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình
chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một bơng hoa điểm mười. Vì vậy, các em thi
đua nhau “nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được
bơng hoa điểm mười.
Mỗi học kì, bản thân tổng kết một lần để khen thưởng những em đã đạt nhiều
hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng


skkn


những bơng hoa điểm tốt và những món q của cơ giáo tặng. Vì thế các em khơng
ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa mà cơ giáo
thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em
sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn
trong cuộc sống.
Giải pháp 11: Giáo viên tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các
kĩ năng sống cơ bản
Tơi thấy gia đình ảnh hưởng rất lớn đối với trẻ về mọi mặt. Do đó tơi thường
xun gặp gỡ phụ huynh hoặc trao đổi cùng phụ huynh thông qua các buổi họp,
thông qua phiếu liên lạc để các bậc phụ huynh hiểu rõ mục đích nội dung giáo
dục.Trong quá trình trao đổi bao giờ tơi cũng giúp các bậc phụ huynh nắm chắc
những ưu điểm, nhược điểm của con em, động viên cha mẹ quan tâm đến con mình.
Hơn nữa để tạo mối quan hệ khăng khít thường xuyên giữ nhà trường và phụ huynh
ngay từ buổi họp đầu tiên của các cha mẹ. Giáo viên cũng đề nghị thành lập chi hội
phụ huynh lớp để các bậc cha mẹ truyền đạt lại những kế hoạch chung của trường,
lớp nhằm giúp các bậc phụ huynh khác hiểu rõ hơn.
Ví dụ: Một số học sinh thích vẽ, ngồi việc cho các em học năng khiếu vẽ thì
cơ giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em cách
lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em hoặc
triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Hay học sinh thích học
đàn thì tạo điều kiện để các em được tham gia các lớp bồi dưỡng thêm để các em có
đủ tự tin biểu diễn trên sân khấu trong những ngày lễ lớn của trường tổ chức: 20/11;
Văn nghệ “Mừng đảng – Mừng xuân”...
Cô giáo, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết
cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Các em được làm quen với những đồ
dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng,
một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng,

thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, khơng khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những
cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có thói

skkn


quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau
này.
Tóm lại: Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng rèn cho học
sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh
trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong
mọi trường hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập – sinh hoạt ở nhà trường là
điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều đó, giáo viên cần kiên
trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy.
Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc theo nhóm:
biết cách phân cơng cơng việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp
nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất… Đây là kĩ
năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong tập thể. Trong sinh
hoạt hằng ngày, giáo viên cần chú ý nâng dần kĩ năng giao tiếp - tự nhận thức cho
các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin phép, cảm ơn, xin lỗi, yêu
cầu… Biết cả thông cảm chia sẻ buồn vui với mọi người.
Giáo dục kĩ năng sống cho mọi người nói chung và học sinh nói riêng là điều rất
cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng cho các em để các em có được cuộc sống
ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói quen xấu và hành vi tiêu
cực trở thành con ngoan, trị giỏi và là người có ích cho xã hội sau này.
2.3 Kết quả đạt được
100% học sinh đều được giáo viên tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy
tính tị mị, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 95% trẻ ln có
kết quả tốt trong học tập thông qua kết quả học tập cũng như bảng theo dõi ở mỗi lớp

, sau mỗi giai đoạn, qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với
từng học sinh đạt khá và tốt: Mạnh dạn tự tin: 90 %; kĩ năng hợp tác: 93%; kĩ năng
giao tiếp 92,3%; tự lập, tự phục vụ: 100%; lễ phép: 100%; kĩ năng vệ sinh: 92 %; kĩ
năng thích khám phá học hỏi : 86 %; kĩ năng tự kiểm soát bản thân: 97% Học sinh đi
học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp,

skkn


có kĩ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu bạn bè trong cùng một
mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến .
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, đến cuối năm, bản thân nhận thấy các em
có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng,
được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời
nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm
ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen được các em
vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát biểu trong tiết học.
Như vậy, với kết quả đạt được chứng tỏ phần nào sáng kiến của bản thân đưa
ra và áp dụng có hiệu quả trong lớp cũng như trong khối. Thiết nghĩ, mỗi giáo viên
trong trường đều áp dụng sáng kiến này trong công tác “ Giáo dục kĩ năng sống” cho
học sinh của mình thì học sinh sẽ có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với mơi
trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn
đề về sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội,…các em có thể tự tin, chủ động khơng bị
q phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính
đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên
đáp ứng được phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực.”
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã

hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà cịn phải được tơi luyện những kĩ
năng sống qua đó tạo cho các em một mơi trường lành mạnh, an tồn, tích cực, vui
vẻ. Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời gian để trang bị cho
các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào đời. Chính vì
vậy, các thầy cơ giáo tiểu học ln giữ vai trị vơ cùng quan trọng. Vì thế theo bản
thân để làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, mỗi thầy cô giáo cần phải:
- Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.

skkn



×