Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Luận án nghiên cứu một số đặc điểm sinh học cá song vua epinephelus lanceolatus (bloch, 1790) ở giai đoạn phát triển ban đầu (phôi, ấu trùng và cá hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.4 MB, 140 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài luận án
Cá Song vua Epinephelus lanceolatus (Bloch, 1790) hay còn gọi là cá Song vang

hoặc cá Mú nghệ là loài cá rạn san hơ khổng lồ với chiều dài có thể lên đến 2,7 m và
khối lƣợng đạt 400 kg (Fourmanoir và Laboute, 1976). Thịt cá Song vua trắng, ngon, có
giá trị dinh dƣỡng cao, có mùi thơm đặc biệt, là đối tƣợng hải sản đƣợc tiêu thụ ở các thị
trƣờng truyền thống ở Trung Quốc, Đài Loan, Singapore và nhiều nƣớc khác trên thế
giới, với giá bán trên thị trƣờng rất cao từ 18 - 24 USD. Cá Song vua bụng nhỏ, mình dày
nên có thể phi lê đơng lạnh. Ngồi ra, cá Song vua có khối lƣợng từ 100 kg trở lên còn
đƣợc dùng làm cá cảnh ở một số thủy cung và các khu triển lãm phục vụ khách tham
quan du lịch (Hoàng Nhật Sơn và cs., 2015).
Do nhu cầu ngày càng tăng của thị trƣờng, nên trong tự nhiên cá Song vua bị khai
thác quá mức và sản lƣợng cá đánh bắt tự nhiên trong các vùng biển loài cá này phân bố
đã bị giảm sút nghiêm trọng. Trƣớc nguy cơ tuyệt chủng, năm 1990 cá Song vua đƣợc
đƣa vào sách đỏ IUCN, mức độ VU (A2d). Tại Việt Nam, cá Song vua cũng nằm trong
danh sách những đối tƣợng có nguy cơ tuyệt chủng và cần đƣợc bảo vệ, ký hiệu VN
01/2000/TT - BTS. Trƣớc áp lực về bảo vệ nguồn lợi cá Song vua trong tự nhiên và đảm
bảo cung cấp nguồn thực phẩm cao cấp cho các thị trƣờng lớn và khó tính trên thế giới,
nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã chú trọng nghiên cứu loài cá này để đƣa vào sản xuất
giống nhân tạo và ni thƣơng phẩm, tuy nhiên do cịn nhiều hạn chế nên chƣa đạt đƣợc
kết quả nhƣ mong đợi. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ sống của ấu trùng cá
Song vua đến giai đoạn cá giống cịn rất thấp. Ngun nhân có thể do ấu trùng cá Song
vua có tính ăn thịt lẫn nhau, chất lƣợng trứng, kỹ thuật ấp nở trứng, chế độ dinh dƣỡng
chƣa phù hợp và do ảnh hƣởng của điều kiện mơi trƣờng.
Hiện nay, trên thế giới mới chỉ có Đài Loan đã chủ động đƣợc công nghệ sản xuất
giống nhân tạo ở quy mơ hàng hóa. Tuy nhiên, cơng nghệ sản xuất giống này đƣợc bảo
mật rất chặt chẽ nên khơng có hoạt động chuyển giao cơng nghệ cũng nhƣ trao đổi thơng
tin từ nƣớc bạn ngồi một số cơng bố về một số ít đặc điểm sinh học sinh sản. Các nƣớc



1


khác trong khu vực nhƣ Malaysia, Thái Lan và Indonesia cũng đã có những thành cơng
nhất định trong sinh sản cá Song vua qui mơ phịng thí nghiệm.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về sinh sản cá Song vua cũng mới chỉ bắt đầu. Năm
2004, Trung tâm khuyến ngƣ Trung ƣơng đã giao Viện Nghiên cứu NTTS I thực hiện dự
án: “Nghiên cứu đặc điểm sinh học, kỹ thuật nuôi thƣơng phẩm và tạo đàn cá hậu bị 5
loài cá biển kinh tế: cá Song vằn (Epinephelus fuscoguttatus), cá Song vua (E.
lanceolatus), cá Song chuột (Cromileptes altivelis), cá Hồng vân bạc (Lutjanus
argentimaculatus), cá Chim vây vàng (Trachinotus blochii)”. Cá Song vua giống đƣợc
nhập từ Đài Loan (năm 2003), kích thƣớc 3 - 4 cm với giá 2,5 USD/con. Kết quả trong
năm đầu tiên, cá Song vua sinh trƣởng 3,0 kg/con/năm, đến năm thứ 2 cá sinh trƣởng
nhanh 4,0 - 5,0 kg/con/năm, năm thứ 3 cá sinh trƣởng rất cao 8,0 - 9,0 kg/con/năm. Cùng
thời gian này, Viện Nghiên cứu NTTS I đƣợc Bộ thuỷ sản (nay là Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn) phân công thực hiện nhiệm vụ: “Bảo tồn và lƣu giữ nguồn gen các
loài thuỷ sản nƣớc lợ, mặn”, trong đó cá Song vua là một trong những đối tƣợng ƣu tiên
lƣu giữ. Nhiệm vụ đã thu thập đƣợc 3 cá thể cá Song vua (02 cá thể từ Cồn Cỏ - Quảng
Trị, 01 cá thể từ Quảng Ninh ), sau 3 năm nuôi giữ chúng đã đạt kích thƣớc sinh sản
(kích thƣớc >1,3 m, khối lƣợng >50,0 kg).
Năm 2007, các cán bộ của Viện Nghiên cứu NTTS I đã tiến hành chuyển giới
tính một cá thể cá Song vua thành cá đực. Kết quả ban đầu cho thấy, cá đã chuyển thành
cá đực có tinh tốt và hai cá cái cũng có tuyến sinh dục phát triển ở giai đoạn III. Từ
nguồn cá nhập từ Đài Loan, nhiệm vụ đã chọn lọc những cá thể có kích thƣớc lớn, khoẻ
mạnh để tập trung ni giữ, cá đƣợc lựa chọn ni lƣu giữ có khối lƣợng từ 30,0 - 60,0
kg. Đây là đàn cá Song vua duy nhất tại miền Bắc Việt Nam có số lƣợng, khối lƣợng đủ
tiêu chuẩn để tiến hành nghiên cứu sinh sản. Do độ tuổi sinh học, công nghệ sản xuất
giống phức tạp, việc tiến hành sinh sản loài cá này trở nên cấp thiết vì nếu bỏ lỡ thời
điểm này có thể phải nhiều năm nữa mới có thể gây dựng đƣợc đàn cá Song vua với các

tiêu chuẩn tƣơng tự. Đàn cá Song vua bố mẹ của Viện Nghiên cứu NTTS I ni tại Cát
Bà, Hải Phịng hiện nay đang ở độ tuổi sinh sản, phù hợp cho hƣớng nghiên cứu của
luận án.

2


Cho đến thời điểm hiện tại ở Việt Nam chƣa có cơng trình nào nghiên cứu về đặc
điểm sinh học, sinh sản cá Song vua. Do vậy, việc nghiên cứu một số đặc điểm sinh học
ở giai đoạn phát triển sớm của cá Song vua là rất cần thiết nhằm tạo cơ sở khoa học cho
nghiên cứu xây dựng qui trình kỹ thuật sản xuất giống cá Song vua.
2.

Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của luận án

2.1.

Mục tiêu chính của luận án
Xác định đƣợc một số đặc điểm sinh học ở giai đoạn phát triển sớm của cá Song

vua làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu xây dựng qui trình cơng nghệ sản xuất
giống nhân tạo.
2.2.

Nội dung nghiên cứu của luận án

2.2.1. Nội dung 1: Nghiên cứu sự phát triển phôi của cá Song vua và ảnh hưởng của yếu
tố nhiệt độ và độ mặn đến quá trình phát triển phơi.
-


Nghiên cứu diễn biến phát triển phơi cá Song vua trong điều kiện nhân tạo.

-

Nghiên cứu ảnh hƣởng của nhiệt độ, độ mặn đến quá trình phát triển phôi.

2.2.2. Nội dung 2: Nghiên cứu đặc điểm sinh học của ấu trùng cá Song vua
-

Nghiên cứu những biến đổi về hình thái cấu tạo của ấu trùng mới nở đến hết nỗn

hồng.
-

Nghiên cứu hình thái ống tiêu hố, nhu cầu dinh dƣỡng ngoài của ấu trùng mới nở

ngay sau khi cá mở miệng và trong suốt quá trình phát triển của ấu trùng.
-

Nghiên cứu ảnh hƣởng của nhiệt độ và độ mặn đến thời gian biến thái, sinh

trƣởng và tỷ lệ sống của ấu trùng.
2.2.3. Nội dung 3: Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng của cá Song vua từ giai đoạn ấu
trùng đến cá giống.
-

Nghiên cứu ảnh hƣởng của các loại thức ăn khác nhau đến sinh trƣởng và tỷ lệ

sống của cá Song vua giai đoạn ấu trùng lên cá giống.
3



3.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

-

Ý nghĩa khoa học: Hiện nay mới chỉ có Đài Loan thành công trong việc chủ động

sản xuất giống nhân tạo cá Song vua. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của cá Song
vua giai đoạn ấu trùng là bƣớc tiến mới trong lĩnh vực khoa học công nghệ nuôi trồng
thủy sản tại Việt Nam. Luận án đã cung cấp các thông tin về sự phát triển của phôi, ảnh
hƣởng của yếu tố môi trƣờng đến sự phát triển của phơi, đặc điểm phát triển hình thái
của ấu trùng, ảnh hƣởng của môi trƣờng đến tỷ lệ sống, sinh trƣởng và thời gian biến thái
cũng nhƣ đặc tính sử dụng thức ăn của cá Song vua giai đoạn ấu trùng và cá hƣơng.
-

Ý nghĩa thực tiễn: Luận án đã cung cấp cơ sở khoa học, nguồn tài liệu tham khảo

quan trọng cho các nhà nghiên cứu về sinh sản và sản xuất giống các lồi cá Song nói
chung và cá Song vua nói riêng. Nguồn thơng tin này cịn là cơ sở xây dựng quy trình
cơng nghệ sản xuất giống nhân tạo cá Song vua, góp phần vào việc bảo tồn nguồn lợi đối
với cá Song vua đang có nguy cơ tuyệt chủng ngồi tự nhiên.
4.

Tính mới của luận án
Lần đầu tiên luận án tiến hành nghiên cứu và công bố đặc điểm hình thái, quá

trình phát triển các giai đoạn phôi, ấu trùng và cá hƣơng của ấu trùng cá Song vua một

cách đầy đủ, đây không chỉ là nghiên cứu mới của Việt Nam mà cả trên thế giới. Luận án
đã có 3 điểm mới cung cấp cho lĩnh vực chuyên ngành là: (1) mô tả đặc điểm phát triển
của cá Song vua giai đoạn sớm; (2) xác định ảnh hƣởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của cá
và (3) ảnh hƣởng của một số yếu tố môi trƣờng đến sinh trƣởng và phát triển của cá Song
vua ở giai đoạn phát triển ban đầu.

4


Chƣơng I. TỔNG QUAN
1.1.

Các nghiên cứu về hệ thống phân loại, sinh trƣởng, sinh sản của cá Song vua

1.1.1. Hệ thống phân loại và hình thái cá Song vua
Heemstra và Randall (1993) công bố nghiên cứu về hệ thống phân loại cá Song
vua nhƣ sau:
Ngành........ Chordata
Lớp............ Actinopterygii
Bộ.............. Perciformes
Họ.............. Serranidae
Giống............... Epinephelus
Loài................ Epinephelus lanceolatus (Bloch, 1790)

Hình 1.1. Cá Song vua (photo by To, W-L)

Cá Song vua có tên tiếng Anh là King grouper, Giant grouper. Heemstra và
Randall (1993); Myoung và cs. (2013) miêu tả: cá Song vua có thân hình bầu dục, chiều
dài cơ thể bằng 2,4 - 3,4 lần chiều cao thân cá, 2,2 - 2,7 lần chiều dài đầu, chiều cao thân
cá bằng 1,5 - 1,75 lần chiều dày thân. Chiều dài đầu bằng 3,3 - 6,2 lần khoảng cách giữa

2 hốc mắt; vùng diện tích giữa hai mắt hơi lồi về phía lƣng. Xƣơng nắp mang trƣớc có
hình răng cƣa góc lƣợn trịn, rìa trên của xƣơng nắp mang sau lồi nhơ về phía sau; đƣờng
kính mắt bằng chiều dài đầu chia cho từ 5,8 đến 14 lần; các lỗ mũi gần bằng nhau; hàm
dƣới có 2 - 3 hàng răng khi cá đạt chiều dài 20 - 25 cm SL (SL độ dài tiêu chuẩn) tăng
5


tới 15 - 16 hàng ở cá đạt chiều dài 177 cm SL; răng nanh mọc ở trƣớc hàm nhỏ hoặc
khơng có. Cung mang thứ nhất có 8 -10 tấm lƣợc mang, xƣơng nắp mang bao phủ kín
cung mang. Vây lƣng có 11 tia vây cứng, 14 - 16 tia vây mềm, chiều dài của tia vây cứng
ngắn hơn chiều dài tia vây mềm. Vây đi có dạng hình trịn có 3 tia vây cứng và 8 tia
vây mềm, vây ngực có 18 - 20 tia vây mềm. Chiều dài đầu bằng 1,8 - 2,2 lần chiều dài
của vây ngực, vây bụng không kéo dài đến gần vây hậu môn và bằng 2,1 - 2,6 lần chiều
dài đầu. Vẩy đƣờng bên cơ 54 - 62 chiếc.
Cá Song vua lúc còn nhỏ có màu vàng thể hiện rõ nhất ở rìa các vây lƣng, vây
đuôi, vây hậu môn và vây ngực, khi cá trƣởng thành tồn bộ cơ thể có màu nâu đậm, các
vây màu tối hơn.
1.1.2. Đặc điểm phân bố, mơi trường sống và đặc tính ăn của cá Song vua
Cá Song vua là loài cá Song phân bố rộng, xuất hiện ở vùng Ấn Độ Dƣơng và
Thái Bình Dƣơng, từ Biển Đỏ tới vịnh Algoa, Nam Phi, quần đảo Hawaii và quần đảo
Pitcairn. Ở phía Tây Thái Bình Dƣơng, cá Song vua phân bố từ phía Bắc tới Nam Nhật
Bản và phía Nam thì tới Úc (Heemstra và Randall, 1993).
Tài liệu của Heemstra và Randall (1993) công bố đã bắt đƣợc cá Song vua ở độ
sâu 100 m nhƣng nó cũng đƣợc tìm thấy thƣờng xun hơn ở những vùng nƣớc nông, ở
các hang trong vùng rạn san hô và quanh những con tàu bị đắm; cá Song vua trƣởng
thành và cá nhỏ cũng đƣợc tìm thấy ở vùng cửa sơng. Thức ăn ƣa thích của cá Song vua
sống ở vùng rạn san hô và ở vùng đáy nhiều đá là những cá thể giáp xác lớn nhƣ tôm
hùm, cua lớn, các cá thể rùa biển kích cỡ nhỏ. Khi cá Song vua sống ở vùng cửa sông,
vũng vịnh ven bờ, thức ăn chủ yếu là cá và một số lồi giáp xác kích cỡ lớn nhƣ cua,
ghẹ, cá. Ở vùng cửa sơng Nam Phi, mồi chính thƣờng đƣợc sử dụng để bẫy cá Song vua

là Cua bùn Scylla serrata.
1.1.3. Kích thước và sinh trưởng
Các báo cáo đều cho rằng cá Song vua là loài cá lớn nhất ở vùng rạn san hô.
Schultz (1966) báo cáo một cá thể dài 231 cm, nặng 214 kg từ Bikini Atoll (Cộng hoà
Marshall). Một cá thể nặng 288 kg ở Queensland (Úc) cũng đƣợc báo cáo bởi Grant
(1982). Theo Fourmanoir và Laboute (1976) cá Song vua có thể đạt tới 400 kg. Tuy
6


nhiên, các tài liệu nghiên cứu về sinh trƣởng của cá Song vua khơng nhiều và chƣa có
những nghiên cứu đầy đủ về sinh trƣởng của loài cá này. Mặc dù, những báo cáo đều cho
thấy rằng đây là loài cá có tốc độ sinh trƣởng nhanh. Cá Song vua ni 4 tháng có thể đạt
1,0 kg (Boonliptanont, 1997). Trong nghiên cứu của Vatanakul và cs. (1999), cá Song
vua có nguồn gốc tự nhiên ni ở Thái Lan có tốc độ sinh trƣởng lần lƣợt từ năm thứ
nhất đến năm thứ 4 là 500,99 - 646,00 g/tháng, 456,67 - 674,50 g/tháng, 650,00 - 694,16
g/tháng và 507,50 - 588,57 g/tháng với thức ăn sử dụng là cá tạp và tỷ lệ chuyển đổi thức
ăn trung bình 2,85 - 4,09. Theo Lê Xân (2006), cá Song vua nuôi tại vùng biển Cát Bà
(Hải Phịng) sau 4 tháng ni từ cỡ 3 cm (0,8 g) cá đạt trung bình 56,7 g, sau 10 tháng
nuôi đạt 1400 – 1500 g và đạt 16000 g sau 24 tháng nuôi.
1.1.4. Nghiên cứu đặc điểm sinh sản của cá Song vua
1.1.4.1.Ni vỗ và kích thích sinh sản cá bố mẹ cá Song vua
Nghiên cứu đầu tiên về cá Song vua đƣợc cơng bố bởi nhóm tác giả của Viện
nghiên cứu nuôi trồng thủy sản ven biển quốc gia (Thái Lan) khi nghiên cứu sự phát triển
của cá bố mẹ trong điều kiện nuôi nhốt trong lồng tại đảo Nu. Cá Song vua đƣợc chọn từ
các lồng nuôi thƣơng phẩm với kích thƣớc ban đầu 285,3 ± 111,58 g và 441,0 ± 90,00 g.
Cá đƣợc nuôi trong lồng kích thƣớc: (dài 5m x rộng 5 m x sâu 3m) = 75m3 với mật độ
thả lần lƣợt là 3 con/m2 và 1,5 con/m2. Năm thứ 3 đã quan sát thấy tinh dịch ở cá Song
vua đực khi vuốt bụng cá vào mùa sinh sản. Sang đến năm thứ 4 cả cá đực và cá cái đều
thành thục với việc hình thành trứng và tinh (Vatanakul và cs., 1999). Nhóm tác giả cũng
thử nghiệm cho sinh sản cá Song vua bằng việc sử dụng hai loại kích dục tố HCG và

Puberogen và thu đƣợc những kết quả ban đầu khả quan: cá Song vua đã thành thục và
sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt với tỷ lệ trứng thụ tinh 16,1 % và tỷ lệ nở 1,45 %, thu
đƣợc 164.550 ấu trùng cá Song vua mới nở (Vatanakul và cs., 1999).
Trong hội nghị tổng kết về nuôi trồng thủy sản ở Indonesia năm 2007, tác giả
Santoso Djunardi đã đề cập tới tầm quan trọng của việc cung cấp chế độ dinh dƣỡng
thích hợp cho cá bố mẹ cá Song vua nuôi tại Lampung - Indonesia với việc sử dụng thức
ăn cá tạp và cua, có bổ sung vitamin C 150 mg/kg thức ăn và vitamin E 1000 mg/kg thức
ăn. Hanung Santosa và Sukadi (2008) cũng báo cáo sự thành công trong việc cho cá
Song vua sinh sản vào tháng 5 với việc cấy LHRHa liều lƣợng 10 - 20 mg/kg vào cơ thể
7


cá vào tháng 1. Tuy nhiên, báo cáo chỉ giới hạn ở mức độ cung cấp thơng tin, chƣa có
nghiên cứu và kết quả cụ thể.
1.1.4.2. Nghiên cứu bảo quản tinh cá Song vua
Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc sinh sản cá Song vua đều gặp khó khăn trong việc
cho cá Song vua sinh sản tự nhiên và sự phát triển đồng pha tuyến sinh dục của cá đực và
cá cái. Năm 2008, nhóm tác giả Trung Quốc tiến hành thí nghiệm cho sinh sản với 12 cá
thể cái và 3 cá thể cá Song vua đực. Tác giả báo cáo rằng sau khi tiêm kích dục tố, cá
Song vua có thể sinh sản tự nhiên nhƣng trứng khơng thể thụ tinh. Trứng cá Song vua
trong thí nghiệm chỉ thụ tinh khi đƣợc thụ tinh nhân tạo và trứng nở sau 25 giờ 40 phút
sau khi thụ tinh với nhiệt độ 27 ± 0,5oC, độ mặn 31 ppt, pH 7,8 (Zhang và cs., 2008).
Tuy nhiên, báo cáo chỉ giới hạn ở mức độ cung cấp thông tin và kết quả khơng đƣợc
cơng bố rộng rãi.
Do những khó khăn trong việc cho sinh sản tự nhiên cá Song vua và việc thành
thục không đồng pha của cá đực và cá cái, nên các thí nghiệm về ảnh hƣởng của các yếu
tố môi trƣờng lên tinh trùng và các nghiên cứu để bảo quản tinh cá Song vua đƣợc thực
hiện bởi nhiều tác giả khác nhau. Liang và cs. (2009) thí nghiệm khả năng hoạt động của
tinh trùng cá Song vua cho thấy khả năng hoạt động tốt nhất của tinh trùng cá Song vua
ở độ mặn giữa 27,5 - 35 ppt với thời gian sống sót dài nhất đƣợc ghi nhận là 14,8 phút.

pH tối ƣu cho hoạt động của tinh trùng là 8,5 với thời gian vận động là 12,7 phút và thời
gian sống là 17,3 phút. Thời gian vận động dài nhất của tinh trùng đƣợc ghi nhận khi thí
nghiệm các nhiệt độ khác nhau là 16,6 phút ở 29oC. Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy
ngƣỡng nhiệt độ thích hợp nhất là 27 - 31oC. Cũng trong thí nghiệm này, sau khi đƣợc
bảo quản ở nhiệt độ 0 - 4oC trong 6 giờ, thời gian vận động của tinh trùng là 18,2 phút và
khơng có sự khác biệt so với lô đối chứng kiểm tra ngay khi vuốt tinh là 18,4 phút. Tuy
nhiên, sau 120 giờ đƣợc giữ ở cùng nhiệt độ trên thì thời gian hoạt động của tinh trùng
chỉ là 2,3 phút với tỷ lệ hoạt động của tinh trùng chỉ là 3,3%. Các tác giả cũng đề xuất
rằng tinh trùng nên đƣợc sử dụng càng sớm càng tốt sau khi đƣợc bảo quản. Kết quả của
thí nghiệm có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra mơi trƣờng nƣớc thích hợp cho tinh
trùng. Tuy nhiên, thí nghiệm về thời gian bảo quản tinh khơng thuyết phục bởi vì các tác

8


giả chỉ so sánh hoạt lực của tinh trùng ở thời điểm ngay sau khi vuốt tinh và thời điểm
120 giờ sau khi vuốt tinh.
Năm 2011, các thí nghiệm nghiên cứu ảnh hƣởng của 3 chất bảo quản (Marine
Fish Ringers, natri citrate và natri chlorite) và hai chất chống đông (10% dimethyl
sulfoxide - DMSO và 15% Trehalose) đối với việc bảo quản tinh cá Song vua để sử dụng
cho việc lai ghép với trứng của cá Song chấm nâu Epinephelus coioides đã đƣợc tiến
hành tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Thủy sản ven bờ Rayong - Thái Lan
(Kiriyakit và cs., 2011). Thí nghiệm đƣợc tiến hành với 3 con cá đực cá Song vua khối
lƣợng 67,7 ± 10,0 kg với thời gian bảo quản tinh là 10 giờ. Kết quả cho thấy rằng việc sử
dụng natri citrate và Marine Fish Ringers cho tỷ lệ thụ tinh cao hơn (70,54 ± 2,75% và
68,17 ± 3,56%) so với sử dụng natri chlorite (57,78 ± 1,29%). Khả năng di chuyển và
sống sót của tinh trùng cao ở tất cả các nghiệm thức từ 67 ± 8 tới 100%.
Thí nghiệm về các chất bảo quản gần đây nhất đƣợc tiến hành ở Trung Quốc bởi
Fan và cs. (2013). Trong thí nghiệm tinh cá Song vua đƣợc bảo quản bằng sự kết hợp của
các chất chống đông khác nhau (DMSO, methanol và glycerol) và ở các nồng độ pha

loãng khác nhau. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng MPRS (chứa 12% DMSO) hoặc TS - 19
(chứa 12% DMSO) là những chất bảo quản tốt nhất để chống lại sự đông cứng của tinh
cá Song vua trong môi trƣờng nitơ lỏng. Tinh trùng sau khi rã đơng có hoạt lực cao với
tỷ lệ vận động 90,61 ± 3,03% và tỷ lệ thụ tinh 92,27 ± 2,43%, kết quả này khơng có sự
khác biệt so với tinh trùng sử dụng để thụ tinh ngay sau khi vuốt tinh mà không qua bảo
quản (94,34 ± 4% và 94,10 ± 1,87%). Trong thí nghiệm tinh trùng đƣợc lấy từ 3 cá đực
16 tuổi có khối lƣợng trung bình 63,4 ± 7 kg và chiều dài trung bình 1,26 ± 0,26 mTL.
Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu vẫn chƣa thuyết phục đƣợc các nhà chuyên môn do
tác giả không đề cập tới thời gian bảo quản tinh, một yếu tố rất quan trọng để đánh giá
hiệu quả của phƣơng pháp bảo quản và chất bảo quản.
1.1.4.3. Nghiên cứu ương ấu trùng cá Song vua
Các thông tin không chính thức đều nhận định rằng Đài Loan là nơi đầu tiên sản
xuất thành công giống cá Song vua nhƣng có rất ít các cơng bố của các tác giả Đài Loan
về nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản. Công bố của các tác giả Đài Loan chủ yếu liên
quan đến giai đoạn ƣơng cá hƣơng. Hseu và cs. (2004) sử dụng 800 cá hƣơng cá Song
9


vua có kích thƣớc tối thiểu 19 mm để nghiên cứu sự ăn thịt lẫn nhau của cá Song vua
ƣơng từ giai đoạn cá hƣơng lên cá giống. Nghiên cứu chỉ ra rằng khi sự chênh lệch về
kích thƣớc ở giai đoạn cá hƣơng của cá Song vua khoảng 30% thì nên tiến hành lọc phân
cỡ cá để hạn chế việc ăn thịt lẫn nhau.
Ling và cs. (2010) thực hiện thí nghiệm để theo dõi sự phát triển của phơi, sự thay
đổi hình thái và thức ăn của ấu trùng cá Song vua. Nghiên cứu chỉ ra rằng, thời gian phát
triển của phôi cá Song vua là 18 giờ 30 phút ở điều kiện nhiệt độ 29 ± 0,5oC, sục khí nhẹ,
độ mặn 30 ppt. Q trình phát triển phơi của cá Song vua đƣợc chia thành 5 giai đoạn:
giai đoạn phân chia, giai đoạn phôi nang, giai đoạn phôi vị, giai đoạn phơi thần kinh và
giai đoạn hình thành các cơ quan. Ấu trùng mới nở đƣợc ƣơng ở các bể ngoài trời với
điều kiện nhiệt độ 25 - 30oC và độ mặn 33 - 35ppt. 72 giờ sau khi nở, nỗn hồng hầu
nhƣ biến mất và ấu trùng cá Song vua bắt đầu ăn protozoa. Từ ngày thứ 5 ấu trùng ăn

động vật nguyên sinh và luân trùng nhỏ. Từ ngày thứ 8 ấu trùng bắt đầu ăn nauplii của
copepod và một ít luân trùng. Sau 13 ngày từ khi nở, ấu trùng cá ăn chủ yếu copepod và
khẩu phần ăn tăng dần lên. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở mức độ cung
cấp thông tin chung.
Năm 2013, một nhóm tác giả ở Đài Loan đã thực hiện nghiên cứu để so sánh ảnh
hƣởng của bón phân vơ cơ lên chất lƣợng nƣớc, thực vật phù du, động vật phù du và ấu
trùng cá Song vua, so với phƣơng pháp ƣơng truyền thống sử dụng luân trùng. Theo tác
giả mục đích của việc thêm phân vơ cơ vào là để duy trì thức ăn tự nhiên trong bể ƣơng
(Tew và cs., 2013). Thí nghiệm sử dụng 8 bể ƣơng hình trịn thể tích 2 m3, nƣớc biển
đƣợc cấp trƣớc khi thả trứng 7 ngày, nƣớc đƣợc lọc qua túi lọc mắt lƣới 300 µm để loại
bỏ trứng và ấu trùng của các loài cá khác, trong khi với kích thƣớc mắt lƣới này các lồi
thực vật phù du và động vật phù du cỡ nhỏ có thể lọt qua một cách dễ ràng, với 18.000
trứng thụ tinh đƣợc thả mỗi bể, mật độ khoảng 10 trứng/L. Hàng tuần bổ sung phân vô
cơ vào bể ƣơng để duy trì hàm lƣợng Nitơ vơ cơ 700 µg/L và photphate 100 µg/L, luân
trùng chỉ đƣợc cấp vào bể ƣơng từ ngày thứ 9, trong khi thí nghiệm đối chứng thì luân
trùng đƣợc cấp vào bể ƣơng từ ngày thứ 2 với mật độ 10 con/L. Kết quả cho thấy trong
mơi trƣờng bể ƣơng kích thƣớc các lồi tảo đơn bào từ 10 - 50 µm, các lồi động vật phù
du 50 - 100 µm, tỷ lệ sống của ấu trùng ở các bể ƣơng theo phƣơng pháp bón phân vô cơ

10


cao hơn so với các bể khơng bón phân. Kết quả phân tích từ dạ dày ấu trùng cá Song vua
cho thấy các loại trùng lông và trùng roi đƣợc tiêu hóa một cách chủ động bởi ấu trùng
cá Song vua trong các bể thí nghiệm bón phân trong khi rất ít ln trùng đƣợc tiêu hóa
trong các bể đối chứng (Tew và cs., 2013). Tác giả cũng kết luận rằng phƣơng pháp bón
phân vơ cơ cho thấy hiệu quả trong việc cung cấp những cỡ mồi phù hợp cho ấu trùng cá
Song vua trong thời kỳ đầu trƣớc khi chúng sử dụng thức ăn cỡ lớn hơn là luân trùng và
copepod. Thí nghiệm rất có ý nghĩa trong việc ƣơng ni cá Song vua vì có thể giảm chi
phí sản xuất trong việc nuôi thức ăn sống. Tuy nhiên, việc áp dụng kết quả của thí

nghiệm này địi hỏi phải tiến hành thêm nhiều sự thử nghiệm bởi vì thí nghiệm đƣợc thực
hiện ở quy mơ nhỏ 2 m3 trong khi thơng thƣờng thì việc ƣơng cá sẽ đƣợc thực hiện ở quy
mơ lớn hơn với những địi hỏi cao hơn về việc duy trì thức ăn tự nhiên trong hệ thống
ƣơng. Hơn thế nữa, quần thể thức ăn tự nhiên ở các vùng sinh thái khác nhau là khác
nhau, có thể việc ƣơng cá Song vua thành cơng ở vùng này nhƣng lại khơng thành cơng
ở vùng khác.
Thí nghiệm nghiên cứu nhu cầu choline (một loại vitamin tan trong nƣớc) trong
khẩu phần thức ăn của cá giống cá Song vua đƣợc thực hiện bởi Yeh và cs. (2013). Khẩu
phần ăn của cá Song vua đƣợc bổ sung choline lần lƣợt các mức là 2,57 g/kg, 2,67 g/kg,
2,94 g/kg, 3,84 g/kg, 4,99 g/kg, 7,71 g/kg và thí nghiệm khơng bổ sung để đối chứng.
Thí nghiệm đƣợc tiến hành với 900 cá giống cá Song vua kích thƣớc ban đầu 9,34 ± 0,12
g, cá đƣợc thả trong các giai nổi kích thƣớc 1,0 m x 0,4 m x 0,4 m, mật độ cá là 50
con/giai, giai đƣợc thả trong bể ƣơng 2,5 m3 sử dụng nƣớc của hệ thống tuần hoàn, độ
mặn 20 ppt, ƣơng trong 56 ngày và 30 ngày để đánh giá sinh trƣởng, sự chuyển hóa chất
béo và khả năng chống chịu “sốc” của cá Song vua. Kết quả của thí nghiệm chỉ ra rằng
thức ăn bổ sung từ 2,57 tới 7,71 g/kg choline không ảnh hƣởng tới sinh trƣởng của cá
Song vua, nhƣng có ảnh hƣởng tích cực tới việc chuyển hóa lipid và nâng cao khả năng
chịu “sốc” của cá. Báo cáo cũng đƣa ra đề nghị là nên bổ sung ít nhất 2,94 g/kg choline
trong khẩu phần ăn của cá.
Năm 2014, một nghiên cứu chi tiết về việc ƣơng ấu trùng cá Song vua ở Trung
tâm Nghiên cứu Ni trồng thủy sản Thái Bình Dƣơng và các nguồn tài nguyên ven
biển, thuộc trƣờng đại học Hawaii ở Hilo đã đƣợc báo cáo bởi García-Ortega và cs.

11


(2014). Trong nghiên cứu này, trứng thụ tinh đƣợc thu từ cá bố mẹ bắt tự nhiên, trứng
đƣợc thả trong một hệ thống ni thâm canh với 3 bể trịn thể tích 1 m3 với hệ thống điều
khiển khí, nhiệt độ duy trì 27,6 ± 0,02oC, độ mặn 29,5 ± 0,3 ppt. Trứng cá Song vua nở
sau thụ tinh 30 giờ, ở cá Song vua 2 ngày tuổi có chiều dài trung bình 2,4 ± 0,2 mm. Thí

nghiệm tiến hành với 2 chế độ cho ăn khác nhau. Bể sử dụng thức ăn là ấu trùng Hàu
Thái Bình Dƣơng Crassostrea gigas để cho ăn vào ngày thứ 2 và thứ 3 sau khi nở, rồi
chuyển sang sử dụng luân trùng dịng nhỏ đã đƣợc cƣờng hóa Brachionus rotundiformis
vào ngày thứ 4. Ở bể thứ 2 và thứ 3, thức ăn ban đầu là sự kết hợp của copepod
Parvocalanus crassirostris và ln trùng dịng nhỏ đã đƣợc cƣờng hóa, cả 2 bể đều đƣợc
cho ăn 2 ngày một lần bắt đầu vào ngày thứ 3. Ngày thứ 6 cá ở bể sử dụng ấu trùng Hàu
và luân trùng bị chết hàng loạt và có vẻ nhƣ cá khơng thể ăn ln trùng và toàn bộ cá ở
bể này bị chết vào ngày thứ 8. Trong khi đó, cá ở bể kết hợp copepod và luân trùng cho
thấy sự sinh trƣởng và tỷ lệ sống tốt hơn. Ngày thứ 10, một chế độ cho ăn kết hợp đƣợc
tiến hành với bể số 2 và bể 3 với thức ăn viên có kích thƣớc 200 - 300 µm. Vào ngày thứ
12 và 13 nhiều cá chết ở bể 2 và 3 vì cá bị nổi trên mặt nƣớc, khi đó những bình phun
nƣớc đƣợc sử dụng để giải quyết hiện tƣợng này. Từ ngày thứ 14 Nauplii instar I của
artemia đƣợc cấp vào bể và hai ngày sau đó metanauplii đã đƣợc cƣờng hóa cũng đƣợc
cho vào bể ƣơng 2 lần một ngày. Đến ngày thứ 20 thì dừng cấp luân trùng và copepod
vào bể ƣơng. Trong giai đoạn sử dụng artemia, ấu trùng cá Song vua thể hiện sự sinh
trƣởng nhanh. Sự biến thái bắt đầu ở ngày thứ 25 và ở ngày 35 vẫn chƣa hồn thành q
trình biến thái khi cá vẫn có thói quen sống tầng mặt, kích thƣớc trung bình của ấu trùng
ở thời điểm này là 27,3 ± 2,5 mm TL. Tập tính cắn nhau và ăn thịt đồng loại của cá Song
vua đƣợc quan sát thấy từ ngày 30 nhƣng không nhiều. Khi cá chuyển xuống sống ở đáy,
các tổ trú ẩn đƣợc đƣa vào bể. Việc chuyển giai đoạn ƣơng đƣợc bắt đầu từ ngày 35 và
kết thúc sau 10 ngày. Tỷ lệ sống từ khi nở tới hết giai đoạn ƣơng ấu trùng khoảng 2,1%.
Báo cáo rất chi tiết về việc ƣơng ấu trùng giai đoạn đầu. Tuy nhiên cũng nhƣ hầu hết các
nghiên cứu về cá Song vua khác, nghiên cứu này cũng chƣa đƣợc cơng bố chính thức.
Nhƣ vậy có thể thấy rằng, đã có nhiều nghiên cứu về hình thái phân loại cá Song
vua đƣợc công bố. Nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản và ƣơng nuôi của đối
tƣợng này mới chỉ đƣợc tiến hành trong những năm gần đây và mức độ thành cơng cịn
hạn chế. Có rất ít các nghiên cứu đƣợc công bố về việc nuôi vỗ cá bố mẹ và cho sinh sản.
12



Các nghiên cứu về việc ấp trứng, biến đổi hình thái, dinh dƣỡng của ấu trùng cá Song
vua đều chƣa đƣợc cơng bố. Vì vậy, hƣớng nghiên cứu tiếp theo nên tập trung vào việc
nghiên cứu ảnh hƣởng của các yếu tố mơi trƣờng đến q trình phát triển của phơi và ấu
trùng, hình thái cấu tạo của ấu trùng cá Song vua và nhu cầu thức ăn đoạn đầu của đối
tƣợng này để làm cơ sở xây dựng quy trình cơng nghệ sản xuất giống nhân tạo.
1.2.

Nghiên cứu q trình phát triển phơi và ảnh hƣởng của một số yếu tố mơi

trƣờng đến q trình phát triển phơi của một số lồi cá biển
1.2.1. Nghiên cứu q trình phát triển phơi của một số lồi cá biển
Giai đoạn phát triển phôi là một trong những giai đoạn quan trọng trong vịng đời
của các lồi cá biển. Chất lƣợng của q trình ni vỗ thành thục cá bố mẹ, chất lƣợng
trứng đƣợc phản ánh qua sự phát triển của phôi và thơng qua việc quan sát q trình phát
triển của phơi ngƣời ta có thể dự đốn đƣợc chất lƣợng ấu trùng nở ra. Chính vì tính chất
quan trọng của giai đoạn phát triển này mà rất nhiều các nghiên cứu về sinh sản nhân tạo
các loài cá biển đã thực hiện từ những năm 60 của thế kỷ 20 và các tác giả đều đi sâu
nghiên cứu sự phát triển của phôi. Do vậy, giai đoạn này đã đƣợc mơ tả chi tiết bởi nhiều
tác giả với các lồi cá biển khác nhau.
Nhìn chung, thời gian phát triển phơi của cá đƣợc tính từ lúc trứng thụ tinh cho
đến khi nở (ấu trùng bơi ra ngoài). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trứng cá biển thƣờng
có dạng hình cầu với một màng cứng trong suốt và trôi nổi nhờ giọt dầu (Glamuzina và
cs., 1998; Glamuzina và cs., 2000; Tseng và Ho, 1988). Tuy nhiên, các loài khác nhau có
đƣờng kính trứng khác nhau, ở cá song Epinephelus marginatus trứng có đƣờng kính
0,738 - 0,94 mm (Glamuzina và cs., 1998), Epinephelus costae đƣờng kính trứng là 0,89
- 0,95 mm (Glamuzina và cs., 2000), cá Song chấm đỏ Epinephelus akaara đƣờng kính
trứng là 0,70 - 0,77 mm (Ukawa và cs., 1966), cá Song chuột C. altivelis 0,80 - 0,86 mm
(Senoo và cs., 2002), cá Song mỡ Epinephelus tauvina Forsskl (1775) đƣờng kính trứng
0,90 mm (Chen và cs., 1977), đƣờng kính trứng của cá Song hổ E. fuscoguttatus 0,87 0,92 mm (Lim, 1993), cá Song da báo Plectropomus leopardus Lacepede (1802) đƣờng
kính trứng là 0,82 - 0,93 mm (Masuma và cs., 1993), Epinephelus striatus Bloch (1792)

đƣờng kính trứng là 0,86 - 0,97 mm (Powell và Tucker, 1992).

13


Trứng cá Song sau khi thụ tinh thƣờng phân thành 3 nhóm trong bể đẻ với chất
lƣợng giảm dần gồm: nhóm nổi trên mặt nƣớc, nhóm lơ lửng trong nƣớc và nhóm chìm
xuống đáy bể. Trong đó, chỉ có trứng nổi là trứng tốt và sẽ đƣợc sử dụng để ấp, trứng
chìm xuống đáy bể là những trứng đã chết và trứng lơ lửng trong tầng nƣớc mặc dù sống
nhƣng chất lƣợng kém và tỷ lệ chết cao khi ấp nở.
Các giai đoạn phát triển phôi của trứng cá Song cũng giống nhƣ ở các loài cá khác
đều trải qua các giai đoạn phân cắt 2, 4, 8, 16, 32.... tế bào, phôi nang, phôi vị, phôi thần
kinh, bọng mắt và túi tai và nở thành ấu trùng. Thời gian diễn ra từng giai đoạn và thời
gian hoàn thành quá trình phát triển phơi cá song khác nhau ở các loài khác nhau. Cá
Song mỡ E. tauvina, giai đoạn 2 tế bào xảy ra sau 40 phút, giai đoạn 64 tế bào sau 2 giờ
15 phút, giai đoạn phôi dâu sau 3 giờ, hình thành bọng mắt và túi tai sau 18 giờ (Đỗ Văn
Khƣơng, 2001). Ở cá Song chuột C. altivelis, giai đoạn 2 tế bào xảy ra khoảng 30 phút
sau khi thụ tinh, giai đoạn 48 - 96 tế bào sau 1 giờ 30 phút, giai đoạn phôi dâu sau 2 giờ,
giai đoạn phôi nang sau 3 giờ 30 phút, giai đoạn phơi sau 6 giờ, hình thành bọng mắt và
túi tai sau 14 giờ (Sugama và cs., 2001). Còn ở cá Song chấm đỏ E. akaara, giai đoạn 2
tế bào xảy ra sau 40 phút, giai đoạn 32 tế bào xảy ra sau 1 giờ 20 phút, giai đoạn phôi
dâu xảy ra sau 1 giờ 40 phút, giai đoạn phơi nang sau 5 giờ 30 phút, hình thành bọng mắt
và túi tai sau 12 giờ 30 phút (Tseng và Ho, 1988). Ở độ mặn 38 ppt, nhiệt độ 25 - 25,5oC,
thời gian diễn ra lần phân cắt đầu tiên của trứng cá Song sọc vàng E. costae là khoảng 1
giờ sau khi thụ tinh, giai đoạn phôi dâu lúc 4 giờ 40 phút, 15 giờ hình thành mầm phôi và
24 giờ 15 phút bắt đầu nở và kết thúc lúc 28 giờ. Trứng lai của cá Song sọc vàng E.
costae và cá thể đực cá Song sẫm màu E. marginatus, phát triển sớm hơn khi sự phân cắt
đầu tiên diễn ra lúc 1 giờ sau khi đƣợc thụ tinh, hình thành mầm phơi lúc 14 giờ, bắt đầu
nở lúc 24 giờ và hoàn thành lúc 27 giờ. Tỷ lệ dị hình của ấu trùng nở ra là 22% ở cá
Song lai và 20% ở ấu trùng cá Song sọc vàng (Glamuzina và cs., 2001).

Nghiên cứu về sự phát triển của phôi đƣợc tạo ra từ phép lai giữa cá Song chấm
nâu E. coioides và cá Song vua E. lanceolatus cũng đƣợc miêu tả chi tiết bởi (Koh,
2009), thời điểm 12 phút sau khi thụ tinh, đĩa phôi xuất hiện và ở thời điểm 23 phút sau
khi thụ tinh sự phân cắt lần thứ nhất xảy ra; Giai đoạn 4 tế bào, 8 tế bào, và giai đoạn 32
tế bào, xảy ra 1 giờ sau khi thụ tinh; Sau đó phơi dâu, phơi nang và phơi vị phát triển

14


trong khoảng 2 giờ 48 tới 6 giờ 37 phút sau khi thụ tinh; Ở thời điểm 7 giờ 10 phút sau
khi thụ tinh mầm phôi xuất hiện; Túi mắt đƣợc nhìn thấy ở thời điểm 11:10 phút sau khi
thụ tinh và vây đi tách rời khỏi nỗn hồng; Tại thời điểm 13 giờ 43 phút sau khi thụ
tinh túi thấu kính đƣợc quan sát thấy; Lúc 14 giờ 21 phút phôi bắt đầu di chuyển và tại
thời điểm 15 giờ 15 phút tim đƣợc hình thành và biểu hiện sự di chuyển một cách chủ
động; Lúc 16 giờ 17 phút là thời điểm các túi thính giác xuất hiện; Trứng bắt đầu nở từ
lúc 17 giờ 15 phút sau khi thụ tinh và kết thúc lúc 19 giờ 20.
Trứng cá biển, đặc biệt là trứng cá Song rất dễ bị tổn thƣơng trong q trình phát
triển của phơi. Chọn thời điểm thu trứng có ảnh hƣởng lớn tới sự phát triển, tỷ lệ nở của
trứng (Paiboon và cs., 1999). Tỷ lệ sống, tỷ lệ nở, tỷ lệ ấu trùng phát triển bình thƣờng
cao hơn khi trứng của cá Song chấm nâu đƣợc vớt và chuyển sang bể ấp ở giai đoạn có
túi mắt, so với các giai đoạn phân cắt tế bào, phôi nang và phôi vị (Caberoy và Quinitio,
1998). Theo báo cáo của Toledo và cs., (2004), tỷ lệ nở của cá Song chỉ có khoảng 24%
khi tác giả thu trứng ở giai đoạn phôi nang hay phôi vị.
1.2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến q trình phát triển của phơi cá biển
Thời gian hồn thành q trình phát triển phơi ở cá biển khác nhau tuỳ thuộc vào
điều kiện môi trƣờng đặc biệt là độ mặn và nhiệt độ. Theo Leu và cs. (2005), trứng cá
Song chanh E. malabaricus có đƣờng kính 0,90 ± 0,02 mm, trứng đƣợc ấp trong điều
kiện nhiệt độ 25,5oC, độ mặn 33 - 35 ppt, sẽ phân cắt lần đầu sau 35 phút, hình thành
phơi dâu lúc 3 giờ 10 phút, phôi vị lúc 9 giờ và bắt đầu nở lúc 26 giờ 30 phút. Cá Song
mỡ E. tauvina, thời gian phát triển phôi là 28 giờ ở nhiệt độ 24,3 - 26,5oC, độ mặn 31,6 32ppt, pH 7,9 - 8,1, DO 5,85 - 6,32 mg/l (Đỗ Văn Khƣơng, 2001). Cá Song E.

marginatus, thời gian phát triển phôi là 30 giờ ở nhiệt độ 23oC (Glamuzina và cs., 1998).
Trứng cá Song sọc E. costae cần 24 giờ ở nhiệt độ 25,5oC để hồn thành q trình phát
triển phơi (Glamuzina và cs., 2000). Cá Song chấm đỏ E. akaara, thời gian phát triển
phôi là 24 giờ 10 phút ở nhiệt độ 22 - 25oC (Ukawa và cs., 1966).
Nhiệt độ ảnh hƣởng tới sự phát triển của phôi qua việc tác động lên tốc độ trao đổi
chất, hoạt động và cấu trúc của phôi (Kinne và Kinne, 1962) trong khi ảnh hƣởng của độ
mặn liên quan đến sự điều hòa áp suất thẩm thấu bên trong trứng. Thông thƣờng, khả
năng điều hịa áp suất thẩm thấu của từng lồi tốt nhất khi nhiệt độ ở gần mức tối ƣu cho
15


sự phát triển. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, nhiệt độ và độ mặn có mối liên hệ chặt chẽ
đồng thời cùng tác động lên tỷ lệ nở của trứng. Nói cách khác, khơng có một giá trị riêng
lẻ của nhiệt độ tối ƣu hay độ mặn thích hợp nhất khi ấp nở trứng cá biển mà hai giá trị
này luôn đi cùng nhau. Holliday và Blaxter, (1960) ấp nở trứng cá trích Đại Tây Dƣơng
Clupea harengus ở các độ mặn khác nhau phát hiện ra thời gian ấp nở dài hơn 2 ngày (13
ngày) ở mức độ mặn 5,9 và 11,5 ppt so với độ mặn 22,7 và 52,5 ppt. Thời gian ấp trứng
của cá tuyết Thái Bình Dƣơng Gadus macrocephalus tăng từ 8,8 ngày ở 10oC (độ mặn
31 ppt) tới 28,9 ngày ở 2oC (độ mặn 19 ppt) (Forrester và Alderdice, 1966). Thời gian
bắt đầu nở của trứng của cá Vƣợc đen Centropristis striata tăng từ 32 giờ cho tới 74 giờ
với nhiệt độ giảm từ 30oC xuống 15oC (David và cs., 2004). Thời điểm nở của trứng cá
Măng Chanos chanos chậm 1 - 2 giờ và thời gian nở cũng kéo dài thêm 1 - 2 giờ, so với
độ mặn 35 ppt (Swanson, 1996). Thời gian ấp trứng cũng tăng từ 101 giờ ở nhiệt độ
27oC lên 271 giờ ở 15oC với cá Nóc Takifugu obscurus (Yang và Chen, 2005). Ở nhiệt
độ 30oC, trứng cá Song Mycteroperca rosacea nở 50% sau 24 giờ 48 phút trong khi phải
mất 59 giờ 40 phút trứng mới nở đƣợc 50% ở 20oC, thời gian diễn ra việc nở là 3 giờ 15
phút ở 30oC, trong khi là 13 giờ 15 phút ở 20oC (Gracia-López và cs., 2004).
Nhiệt độ và độ mặn cũng ảnh hƣởng đến tỷ lệ nở của trứng các loài cá biển.
Berlinsky và cs. (2004) báo cáo rằng tỷ lệ nở của trứng cá Vƣợc đen C. striata bị ảnh
hƣởng của cả nhiệt độ và độ mặn. Trứng cá không nở ở nhiệt độ 12oC và độ mặn 0 - 5

ppt. Trứng chỉ nở ở nhiệt độ trên 15oC và độ mặn trên 10 ppt. Tỷ lệ nở của trứng cá
Vƣợc Châu Âu Dicentrarchus labrax tăng từ 24,7% ở nhiệt độ 12oC độ mặn 15 ppt tới
63% ở nhiệt độ 15oC, độ mặn 20 ppt, sau đó lại giảm xuống chỉ còn 11,7% ở nhiệt độ
20oC, độ mặn 35 ppt, với mật độ ấp trứng là 50 trứng/L (Conides và Glamuzina, 2002).
Theo Swanson (1995), trứng cá Măng có thể nở ở mức độ mặn 15 - 55 ppt, tuy nhiên ở
mức độ mặn thấp 15 ppt; 20 ppt và mức độ mặn cao 50 ppt và 55 ppt, tỷ lệ nở thấp hơn.
Thông thƣờng tỷ lệ nở của trứng tăng theo sự gia tăng của nhiệt độ cho tới khi đạt
ngƣỡng nhiệt độ mà ở đó phơi bị dị tật và chết.
Năm 2011, Lê Xân và Nguyễn Hữu Tích (2011) khi thực hiện nghiên cứu trên cá
Hồng bạc, cho rằng phôi cá Hồng bạc L. argentimaculatus không nở ở nhiệt độ dƣới
20oC trong khi ở nhiệt độ 32oC tỷ lệ dị hình của cá Hồng bạc lên đến trên 80%. Kết quả

16


tƣơng tự cũng đƣợc đề cập trong báo cáo của Lê Xân (2006), khi tác giả nghiên cứu trên
cá Song chấm nâu E. coioides và cho sinh sản tại Cát Bà (Hải Phòng).
Nghiên cứu về ảnh hƣởng của nhiệt độ đến sự phát triển của phơi cá Nóc T.
obscurus chỉ ra rằng khi nhiệt độ tăng từ 15 đến 23oC, tỷ lệ nở của trứng tăng từ 77% tới
95,3% và giảm nhẹ khi tăng lên 27oC (92,7%) (Yang và Chen, 2005). Nhƣng sự khác
biệt là khơng có ý nghĩa về mặt thống kê. Tỷ lệ chết của ấu trùng mới nở cũng tăng
nhanh khi nhiệt độ giảm từ 4% ở 23oC lên 35,3% ở 15oC. Tỷ lệ nở của trứng cá Song da
báo M. rosacea ở nhiệt độ từ 24 - 30oC là 70 - 78%, cao hơn ở nhiệt độ 20oC là 60%
(Gracia-López và cs., 2004).
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, các nghiên cứu về ảnh hƣởng của độ mặn và nhiệt độ
lên sự phát triển của cá biển giai đoạn phôi đã đƣợc nghiên cứu một cách tỉ mỉ. Tuy
nhiên, hiện nay vẫn chƣa có nghiên cứu nào về ảnh hƣởng của các yếu tố này lên giai
đoạn phát triển sớm của trứng cá Song vua. Vì vậy, nghiên cứu tiếp theo cần tập trung
nghiên cứu tác động của nhiệt độ và độ mặn lên cá Song vua giai đoạn phơi, nhằm tìm ra
ngƣỡng nhiệt độ và độ mặn tối ƣu cho việc ấp nở trứng, nâng cao tỷ lệ nở và giảm tỷ lệ

dị hình của ấu trùng.
1.3.

Nghiên cứu quá trình phát triển của các giai đoạn ấu trùng cá biển

1.3.1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái của ấu trùng cá Song và cá biển
Nghiên cứu hình thái ấu trùng là một trong những nội dung quan trọng nhất trong
nghiên cứu sinh sản các loài cá biển. Trên cơ sở những đặc điểm hình thái nghiên cứu
đƣợc của ấu trùng ngƣời ta có thể có những biện pháp kỹ thuật, quản lý, nhằm nâng cao
tỷ lệ sống, sinh trƣởng và ƣơng nuôi cá biển giai đoạn ấu trùng thành cơng. Vì vậy,
những nghiên cứu mơ tả đặc điểm hình thái ấu trùng cá biển đã đƣợc tiến hành từ rất
sớm.
Năm 1958, William và Anderson, mô tả sự phát triển của ấu trùng cá Đối Mugil
cephalus. Tuy nhiên, tác giả khơng thể miêu tả tồn bộ q trình phát triển của ấu trùng,
không đầy đủ các giai đoạn phát triển vì ấu trùng đƣợc bắt từ tự nhiên, kích cỡ nhỏ nhất
đƣợc miêu tả là 4,0 mm (William và Anderson, 1958). Ấu trùng cá Bơn Scophthalmus
maximus mới nở có kích thƣớc 2,7 - 3,0 mm, cá bắt đầu ăn thức ăn ngoài là luân trùng B.
17


plicatilis khi đạt kích thƣớc 3,6 - 3,8 mm và chuyển sang sử dụng artemia ở kích thƣớc
5,6 - 6,0 mm (Jones, 1972). Ấu trùng cá Bơn Nhật Bản Paralichthys olivaceus mới nở có
kích thƣớc 2,3 - 2,7 mm (Fukuhaka, 1986). Từ 3 - 5 ngày sau khi nở, miệng bắt đầu hoạt
động và nỗn hồng đƣợc hấp thu hồn toàn, ấu trùng hoàn thành giai đoạn biến thái sau
57 ngày ƣơng khi kích thƣớc khoảng 11 mm (Fukuhaka, 1986).
Hình thái ấu trùng cá Tráp biển đen Acanthopagrus schlegeli đƣợc miêu tả bởi
Fukuhaka (1987) nhƣ sau: ấu trùng mới nở có kích thƣớc 2,18 mm, và có một khối nỗn
hồng cùng giọt dầu, miệng cá mở ở ngày thứ 3 sau khi nở mặc dù khối nỗn hồng và
giọt dầu vẫn cịn, chúng đƣợc hấp thu hồn tồn lần lƣợt vào ngày thứ 4 và thứ 5 sau khi
nở. Ấu trùng có thể sống tới 9 ngày tuổi mặc dù không đƣợc cho ăn. Ấu trùng biến thái

thành cá hƣơng khi đạt kích thƣớc 9,0 - 11,0 mm, 10,2 mm là kích thƣớc nhỏ nhất vảy cá
xuất hiện và vảy phát triển hoàn chỉnh khi cá đạt 16,0 mm (Fukuhaka, 1987).
Cá Ngừ vây vàng Thunnus albacares, ấu trùng mới nở kích thƣớc 2,65 mm, kết
thúc giai đoạn nỗn hồng vào ngày tuổi thứ 4, hoàn thành giai đoạn ấu trùng khoảng
ngày tuổi 30, kích thƣớc 13 mm (Kaji và cs., 1999). Cá Bơn California Paralichthys
californicus có kích thƣớc ấu trùng khi nở là 2,1 mm, khơng có mắt và mang khi nở
nhƣng miệng mở ngay khi nở, 80% thể tích khối nỗn hồng đƣợc hấp thu trong 1 - 2
ngày đầu, ngày thứ 3 khi kích thƣớc ấu trùng là 2,7 mm, khối nỗn hồng đƣợc hấp thu
hồn tồn và cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài. Cá hoàn thành giai đoạn ấu trùng để
thành cá hƣơng ở ngày tuổi 42, kích thƣớc 10,1 mm (Gisbert và cs., 2002).
Những nghiên cứu hình thái học ấu trùng của cá Song đƣợc tiến hành muộn hơn
khi so sánh với các loài cá biển khác. Miêu tả đầu tiên về hình thái ấu trùng cá Song
đƣợc tiến hành trên cá Song mỡ E. tauvina, cá bố mẹ sinh sản tự nhiên trong điều kiện
nuôi nhốt, ấu trùng đƣợc ƣơng đến giai đoạn biến thái sử dụng thức ăn là luân trùng,
nauplii artemia, copepod và thịt tôm băm nhỏ. Các giai đoạn phát triển của ấu trùng đã
đƣợc miêu tả từ khi mới nở kích thƣớc 2,25 mm tới kích thƣớc 31,4 mm vào ngày tuổi
thứ 50 (Hussain và Higuchi, 1980). Có hai giai đoạn ấu trùng chết nhiều nhất là giai đoạn
4 - 5 ngày tuổi khi bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài là luân trùng và giai đoạn 24 - 35 ngày
tuổi khi chuyển thức ăn từ nauplii artemia sang sử dụng copepod (Hussain và Higuchi,
1980). Sự phát triển hình thái ấu trùng cá Song da báo P. leopardus đƣợc mô tả bởi
18


Musama và cs., (1993), ấu trùng mới nở kích thƣớc 1,62 mm với một khối nỗn hồng
và giọt dầu, hai ngày sau khi nở đạt kích thƣớc 2,70 mm miệng mở, 5 ngày tuổi xuất hiện
mầm gai cứng, 25,1 mm hình thành sắc tố đỏ đặc trƣng và bắt đầu chuyển xuống sống ở
đáy bể ƣơng vào buổi tối. Khi cá đạt kích thƣớc 35,0 mm thì biến thái và chuyển hoàn
toàn xuống sống đáy (Musama và cs., 1993).
Cá Song đỏ Epinephelus morio, trứng nở sau 30 giờ ở nhiệt độ 24oC, khối nỗn
hồng đƣợc hấp thu hồn tồn sau khi nở 30 giờ, cá bắt đầu ăn ở 72 giờ sau khi nở, gai

lƣng và gai ngực xuất hiện vào ngày thứ 9 và phát triển rất nhanh trong 7 ngày tiếp theo,
biến thái thành cá hƣơng ở 35 ngày tuổi kích cỡ 20 mm (Colin và cs., 1996). Trứng cá
Song sẫm màu E. marginatus nở sau 30 giờ sau thụ tinh ở điều kiện nhiệt độ 23oC, ấu
trùng kích thƣớc 1,40 - 1,67 mm khi mới nở, ở kích thƣớc 2,63 mm cá mở miệng vào 72
giờ và miệng hoạt động sau 96 giờ (Glamuzina và cs., 1998). Ấu trùng cá Song
Epinephelus bruneus mới nở có kích thƣớc 1,99 mm, ấu trùng phát triển tới 3,96 mm vào
ngày tuổi thứ 10, dài 6,97 mm vào ngày 20, dài 12,8 mm vào ngày 30, dài 22,1 mm ngày
40 và 24,7 mm vào ngày tuổi 45. Sắc tố bắt đầu phát triển khi đạt kích thƣớc 4 mm, 6
mm bắt đầu phát triển gai, kích thƣớc 17 mm bắt đầu phát triển sắc tố đặc trƣng (Sawada
và cs., 1999). Ấu trùng cá Song chanh E. malabaricus mới nở kích thƣớc 1,93 mm, 3
ngày sau nở kích thƣớc 2,76 mm miệng mở cá bắt đầu ăn thức ăn ngoài, ngày thứ 9 xuất
hiện gai cứng, ở 7,39 mm gai cứng đạt kích cỡ dài nhất, ở kích thƣớc 20,19 mm, tất cả
các vây hình thành nhƣ cá trƣởng thành, kích thƣớc 30,18 mm cơ thể trở nên đỏ, 3 đƣờng
sọc màu nâu đậm hình thành trên cơ thể, cá biến thái thành cá hƣơng (Leu và cs., 2005).
Ngoài ra, một số ấu trùng của một số loài cá Song khác cũng đƣợc miêu tả bởi các
tác giả khác nhau, cá Song E. striatus đƣợc miêu tả bởi Powell và Tucker (1992), Kohno
và cs. (1993) miêu tả cá Song hổ E. fuscoguttatus và sự phát triển của ấu trùng cá Song
Epinephelus fasciatus đƣợc miêu tả bởi Kawabe và Kohno (2009). Gần đây nhất, GarcíaOrtega và cs. (2014) có miêu tả về ấu trùng cá Song vua nhƣng tác giả chỉ đƣa ra kích
thƣớc khi cá đạt 2 ngày tuổi 2,4 ± 0,2 mm và miêu tả về cách thức ƣơng cá Song vua để
vƣợt qua giai đoạn ấu trùng ở ngày tuổi 45. Tác giả chƣa đƣa ra đƣợc miêu tả chi tiết về
quá trình phát triển hình thái của ấu trùng cá Song vua. Nhƣ vậy, cho đến nay chƣa có
nghiên cứu đầy đủ nào về đặc điểm hình thái học của cá Song vua giai đoạn ấu trùng và

19


nghiên cứu cần tập trung mơ tả đặc điểm hình thái, tập tính của ấu trùng cá Song vua để
tạo cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo.
Qua những nghiên cứu đặc điểm hình thái học cho thấy, giai đoạn ấu trùng thƣờng
đƣợc mô tả từ khi ấu trùng nở ra từ trứng đến khi ấu trùng biến thái thành cá hƣơng khi

cá mang đầy đủ các đặc điểm hình thái của cá trƣởng thành. Đặc điểm chung của hình
thái ấu trùng các lồi cá Song khác với những lồi cá biển khác là sự hình thành của gai
lƣng và gai ngực cứng. Vì vậy, nhìn chung hình thái ấu trùng các lồi cá Song đƣợc mơ
tả về kích thƣớc ấu trùng khi mới nở, thời gian bắt đầu ăn, kích thƣớc miệng khi bắt đầu
ăn, thời điểm mọc gai cứng, kích thƣớc gai cứng, sự hình thành sắc tố, tập tính của ấu
trùng và thời gian biến thái.
1.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn lên ấu trùng cá Song và cá biển
1.3.2.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Năm 1974, May tìm ra nhiệt độ thích hợp cho ấu trùng cá Bairdiella icistia là
24oC (May, 1974), tuy nhiên tác giả mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ấu trùng giai
đoạn nỗn hồng mà khơng tiếp tục ƣơng cá đến giai đoạn cá hƣơng. Tiếp đó, một số
nghiên cứu trên một số đối tƣợng khác cũng chỉ nghiên cứu ảnh hƣởng của nhiệt độ lên
ấu trùng ở giai đoạn nỗn hồng nhƣ cá Hồng mỹ Sciaenops ocellata (Holt và cs., 1981),
cá Tráp Sparus aurata (Polo và cs., 1991), cá Măng C. chanos (Walsh và cs., 1991) cá
Bơn lƣng xanh Rhombosolea tapirina (Hart và Purser, 1995), cá Bơn Đại Tây Dƣơng
Hippoglossus hippoglossus (Lein và cs., 1997).
Nghiên cứu đầu tiên đƣợc thực hiện đến hết giai đoạn ấu trùng vào năm 1983 khi
Akatsu và cs. (1983) thực hiện trên ấu trùng cá Song mỡ E. tauvina. Kết quả cho thấy,
nhiệt độ 27 - 29oC là tốt nhất khi ƣơng ấu trùng đến 12 ngày tuổi và 30 - 31oC là nhiệt độ
tối ƣu khi ƣơng ấu trùng giai đoạn 19 - 33 ngày tuổi (Akatsu và cs., 1983). Sinh trƣởng
của ấu trùng cá Bơn lƣng xanh R. tapirina tăng lên khi nhiệt độ đƣợc tăng đến 19oC. Ấu
trùng lớn nhất và sinh trƣởng nhanh nhất đƣợc quan sát thấy ở nhiệt độ 19 - 20oC, ấu
trùng ƣơng ở nhiệt độ 16oC và 17oC ngắn hơn ấu trùng ƣơng ở nhiệt độ 19 - 20oC, sinh
trƣởng chậm nhất và tỷ lệ sống thấp nhất là ấu trùng ƣơng ở nhiệt độ 15oC (Hart và cs.,
1996). Ấu trùng một loài cá Song khác là cá Song chuột C. altivelis đã đƣợc nghiên cứu
bởi Sugama và cs. (2004). Kết quả cho thấy ấu trùng ƣơng ở nhiệt độ 31oC sinh trƣởng
20


nhanh hơn ở nhiệt độ 28oC và thấp nhất là nhiệt độ 25oC. Nhiệt độ càng cao tới 31oC thì

ấu trùng bắt mồi càng tốt, tuy nhiên tỷ lệ sống ấu trùng ở 28oC là cao nhất, còn tỷ lệ sống
của ấu trùng ở 31oC là thấp nhất. Nghiên cứu cũng đƣa ra nhiệt độ tối ƣu để ƣơng ấu
trùng cá Song chuột là 28oC (Sugama và cs., 2004).
Ảnh hƣởng của nhiệt độ lên ấu trùng cá Hồng Úc Pagrus auratus giai đoạn 3 - 21
ngày tuổi đƣợc xác định ở 7 mức nhiệt độ là 15, 18, 21, 24, 27, 30 và 33oC. Kết quả là
toàn bộ ấu trùng ƣơng ở nhiệt độ 30 và 33oC chết sau khi thí nghiệm đƣợc 3 ngày, ở
nhiệt độ 27oC ấu trùng chết sau 9 ngày. Mặc dù tỷ lệ sống ở nhiệt độ 18oC cao hơn so
với các mức nhiệt độ khác, nhƣng khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê. Tác giả cũng kết
luận rằng nhiệt độ tối ƣu cho đối tƣợng này là 24oC (Fielder và cs., 2005).
Thí nghiệm ảnh hƣởng của nhiệt độ đến sinh trƣởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá
Nóc T. obscurus giai đoạn 3 - 19 ngày tuổi đƣợc tiến hành ở 5 mức nhiệt độ là 20, 23,
26, 29 và 32oC, mỗi mức nhiệt độ đƣợc lặp lại 3 lần. Kết quả cho thấy nhiệt độ ảnh
hƣởng lớn tới sinh trƣởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá Nóc. Chiều dài toàn thân tăng lên
đáng kể khi nhiệt độ đƣợc tăng từ 20 đến 29oC, khơng có sự khác biệt giữa mức nhiệt độ
29 và 32oC ở ngày tuổi thứ 19 sau khi nở (Shi và cs., 2010). Tuy nhiên, nhóm tác giả
chƣa đủ cơ sở để đƣa ra nhiệt độ tối ƣu để ƣơng ấu trùng cá Nóc T. obscurus. Gần đây
nhất, Tsuiji và cs. (2013) thí nghiệm của nhiệt độ đến ấu trùng cá Song bảy sọc
Epinephelus septemfasciatus, kết quả là ấu trùng ƣơng ở nhiệt độ 25oC có tỷ lệ sống cao
hơn nhiệt độ 23oC, tuy nhiên thí nghiệm chỉ đƣa ra 2 mức nhiệt độ để thí nghiệm, khơng
đƣa ra nhiệt độ thích hợp cho đối tƣợng này. Ngồi ra, có một số nghiên cứu ảnh hƣởng
của nhiệt độ, nhƣng các nghiên cứu này chỉ nghiên cứu ấu trùng nhƣ cá Xanh
Pomatomus saltatrix (Buckel và cs., 1995), cá Bơn Châu Âu S. maximus (Imsland và cs.,
2001), cá Hồng xám Lutjanus griseus (Wuenschel và cs., 2004; Martin và Wuenschel,
2006).
Nhìn chung, nhiệt độ là một yếu tố quan trọng có tác động lớn đến ấu trùng cá
biển, tuy nhiên khơng có nhiều các nghiên cứu về ảnh hƣởng của nhiệt độ đến ấu trùng
các loài cá biển từ giai đoạn mới nở đến hết giai đoạn biến thái. Việc khó khăn trong việc
bố trí thí nghiệm, thời gian thí nghiệm dài và quá trình biến thái phức tạp của ấu trùng
các loài cá biển là những trở ngại khi nghiên cứu ảnh hƣởng của nhiệt độ đến ấu trùng cá
21



biển. Cho đến nay chƣa có nghiên cứu nào về ảnh hƣởng của nhiệt độ đến sinh trƣởng và
phát triển của ấu trùng cá Song vua.
1.3.2.2. Ảnh hưởng của độ mặn
Ảnh hƣởng của độ mặn lên sinh trƣởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá biển thông
qua ảnh hƣởng của nó lên nguồn năng lƣợng cần thiết để điều hịa áp suất thẩm thấu
(Howell và cs., 1998). Chính vì vậy, đặc điểm sinh học, khả năng thích nghi của ấu trùng
các loài cá biển với các mức độ mặn khác nhau luôn đƣợc sự quan tâm nghiên cứu của
các nhà khoa học.
Akatsu và cs. (1983) đã tiến hành thí nghiệm ảnh hƣởng của độ mặn đến ấu trùng
cá Song mỡ E. tauvina từ mức độ mặn 25 đến 39 ppt. Kết quả cho thấy khơng có sự khác
biệt về sinh trƣởng và tỷ lệ sống giữa các mức độ mặn khi ấu trùng ở giai đoạn 0 - 21
ngày tuổi, nhƣng đến giai đoạn 21 - 40 ngày tuổi cá ƣơng ở độ mặn 25 ppt có sinh trƣởng
và tỷ lệ sống cao hơn.
Các mức độ mặn 10, 20, 30 và 38 ppt đƣợc thí nghiệm ảnh hƣởng lên sinh trƣởng
và tỷ lệ sống ấu trùng cá Vƣợc Châu Âu D. labrax, kết quả sinh trƣởng và tỷ lệ sống của
ấu trùng tăng lên khi độ mặn giảm từ 38 ppt xuống 20 ppt và 10 ppt (Johnson và Katavic,
1986). Ảnh hƣởng của độ mặn 15 - 40 ppt lên sinh trƣởng và tỷ lệ sống cá Tráp S. aurata
giai đoạn 1 - 32 ngày tuổi đã đƣợc nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống tăng từ 5,3%
lên 18,6% khi giảm độ mặn từ 40 ppt xuống 25 ppt (Tandler và cs., 1995). Khơng có sự
khác biệt tỷ lệ sống giữa độ mặn 20 ppt và 33 ppt ở giai đoạn bắt đầu ăn, nhƣng ấu trùng
cá Bơn phƣơng nam Paralichthys Iethostigma chết hoàn toàn ở độ mặn 0 ppt, cá ƣơng ở
độ mặn 10 ppt không thể vƣợt qua giai đoạn biến thái (Daniels và cs., 1996). Cũng trong
năm 1996, ảnh hƣởng của độ mặn lên sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá bơn lƣng xanh R.
tapirina đã đƣợc nghiên cứu bởi Hart và cs. (1996). Thí nghiệm đƣợc tiến hành trong 30
ngày với thức ăn sử dụng là Artemia cƣờng hóa, với các mức độ mặn 15, 25 và 35 ppt
kết quả cho thấy khơng có sự ảnh hƣởng của độ mặn đến sinh trƣởng của ấu trùng cá.
Tuy nhiên, cá ƣơng ở độ mặn 15 ppt có tỷ lệ sống thấp hơn ở độ mặn 35 ppt, khơng có sự
khác biệt của độ mặn 25 ppt so với hai mức độ mặn 15 và 35 ppt. Fielder và Bardsl

(1999) thực hiện thí nghiệm ảnh hƣởng của độ mặn đến sinh trƣởng và tỷ lệ sống của
loài cá Argvrosomus japonicus. Cá 6 ngày tuổi đƣợc thả vào 5 mức độ mặn khác nhau là
22


5 ppt, 12,5 ppt, 20 ppt, 27,5 ppt và 35 ppt và theo dõi trong 14 ngày. Kết quả là ấu trùng
có thể sinh trƣởng ở tất cả các độ mặn, nhƣng độ mặn tốt nhất cho sinh trƣởng và tỷ lệ
sống của ấu trùng giai đoạn 6 - 20 ngày tuổi là 5 - 12,5 ppt.
Ấu trùng cá Song chấm nâu E. coioides đƣợc thử nghiệm với 05 mức độ mặn
khác nhau 8, 16, 24, 32 và 40 ppt. Kết quả cho thấy toàn bộ ấu trùng ƣơng ở độ mặn 8
ppt chết ở ngày tuổi thứ 3, tỷ lệ sống của ấu trùng ƣơng ở độ mặn 16 ppt và 24 ppt cao
hơn ở độ mặn 32 và 40 ppt. Tỷ lệ bắt mồi của cá ƣơng ở độ mặn 16 - 24 ppt cao hơn hẳn
các mức độ mặn khác, tuy nhiên thí nghiệm chỉ dừng lại ở ngày thứ 4 (Toledo và cs.,
2002).
Ảnh hƣởng của độ mặn lên ấu trùng cá Nóc T. obscurus đã đƣợc thực hiện với 6
mức độ mặn là 0, 5, 10, 15, 20, và 25 ppt, ấu trùng 3 - 19 ngày tuổi. Kết quả cho thấy, độ
mặn thích hợp cho sinh trƣởng và sự sống của ấu trùng cá Nóc trong khoảng 0 - 20 ppt
và độ mặn thích hợp nhất từ 8 - 10 ppt (Shi và cs., 2010).
Độ mặn đƣợc chia làm 11 mức khác nhau từ 5 ppt - 55 ppt đã đƣợc tiến hành
nhằm xác định độ mặn tối ƣu cho sinh trƣởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá Bơn Nhật
Bản P. olivaceus (Wang và cs., 2015). Nghiên cứu chỉ ra rằng, độ mặn thích hợp cho
ƣơng ấu trùng cá Bơn Nhật Bản P. olivaceus là từ 20 - 25 ppt trƣớc khi hấp thu hồn
tồn giọt dầu, sau đó độ mặn 30 ppt nên đƣợc đảm bảo cho sinh trƣởng của ấu trùng,
mặc dù ấu trùng có thể đƣợc ƣơng ở độ mặn từ 10 - 30 ppt, sau giai đoạn biến thái ấu
trùng có thể ƣơng ở độ mặn 15 ppt.
Nhìn chung, các nghiên cứu về ảnh hƣởng của độ mặn đến ấu trùng cá biển khá đa
dạng, tuy nhiên nghiên cứu trên các loài cá Song rất hạn chế. Cho đến nay chƣa có
nghiên cứu nào đƣợc tiến hành trên ấu trùng cá Song vua.
1.4.


Nghiên cứu đặc điểm dinh dƣỡng của ấu trùng cá Song và cá biển

1.4.1. Một số loại thức ăn phổ biến sử dụng ương ấu trùng cá Song và cá biển
1.4.1.1. Luân trùng
Luân trùng giống Brachionus đã đƣợc sử dụng làm thức ăn trong các trại giống từ
những năm 1960 và ngày nay vẫn là một loại thức ăn sống quan trọng, không thể thay
thế trong sản xuất giống nhiều loài cá biển. Luân trùng đƣợc sử dụng bởi vì chúng dễ
23


dàng đƣợc nuôi với mật độ cao, đạt sinh khối lớn, kích cỡ phù hợp và tốc độ bơi chậm
của chúng phù hợp làm thức ăn cho ấu trùng cá biển giai đoạn phát triển ban đầu.
Luân trùng Brachionus spp. đƣợc cho là loại thức ăn đầu tiên lý tƣởng cho ấu
trùng nhiều lồi cá biển bởi vì kích cỡ nhỏ, khả năng ni sinh khối cao và có thể đƣợc
làm giàu dinh dƣỡng một cách dễ dàng (Hagiwara và cs., 2001; Tanaka và cs., 2005).
Dựa vào kích cỡ, luân trùng có thể đƣợc phân chia làm ln trùng dịng lớn (L- type)
kích cỡ 130 - 340 µm, ln trùng dịng nhỏ (S - type) kích cỡ 100 - 120 µm và ln trùng
dịng siêu nhỏ (SS - type) kích cỡ 90 - 110 µm (Hagiwara và cs., 1995). Luân trùng dòng
siêu nhỏ (SS - type) còn đƣợc phân loại là Brachionus rotundiformis.
Do kích thƣớc nhỏ nên ln trùng dịng siêu nhỏ B. rotundiformis thƣờng đƣợc sử
dụng thành công để ƣơng các lồi cá biển có kích cỡ miệng nhỏ nhƣ các loài thuộc giống
cá Song, cá Hồng và cá Tráp. Tuy nhiên, việc sử dụng luân trùng dòng siêu nhỏ B.
rotundiformis cũng không hiệu quả và không phù hợp cho ấu trùng một số lồi cá biển
do kích thƣớc của luân trùng siêu nhỏ không nhỏ hơn nhiều so với kích cỡ miệng ấu
trùng. Ấu trùng cá Thiên thần Centropyge ferrugata có kích cỡ miệng là khoảng 160 µm
(Leu và cs., 2009) và kích cỡ miệng của ấu trùng cá Mó Cheilinus undulatus là khoảng
133 µm (Slamet và Hutaalea, 2004). Ấu trùng hai loài cá này chỉ bắt mồi hiệu quả khi
kích thƣớc con mồi từ 40 - 80 µm ở giai đoạn bắt đầu ăn thức ăn ngoài và yêu cầu con
mồi nhỏ hơn luân trùng dòng siêu nhỏ (Olivotto và cs., 2006; Slamet và Hutapea, 2004).
Vì vậy, những nghiên cứu để tìm ra loại thức ăn phù hợp hơn luân trùng siêu nhỏ để

ƣơng ấu trùng cá biển vẫn đang đƣợc tiếp tục tiến hành.
1.4.1.2. Luân trùng Proales similis
Ƣơng nuôi ấu trùng cá biển giai đoạn đầu ln là một khó khăn với các nhà
nghiên cứu và sản xuất giống cá biển vì tỷ lệ sống thấp. Đặc biệt một số ấu trùng cá biển
do kích thƣớc miệng quá nhỏ không thể sử dụng các loại thức ăn truyền thống nhƣ luân
trùng hay nauplii copepod. Theo nhƣ Cunha và Planas (1999); Yúfera và Darias (2007),
kích cỡ con mồi bằng 20 - 70% kích cỡ miệng là thích hợp cho ấu trùng cá biển giai đoạn
bắt đầu ăn. Ấu trùng cá Song sẫm màu E. marginatus có khả năng bắt mồi với những con
mồi có kích thƣớc bằng khoảng 43 - 90% kích cỡ miệng khi mới mở (Russo và cs.,

24


2009). Vì vậy, việc tìm ra một loại thức ăn sống mới có kích thƣớc nhỏ hơn ln trùng
ln thơi thúc các nhà khoa học phải làm việc một cách chăm chỉ hơn.
Một trong những loại thức ăn sống hứa hẹn sẽ làm thay đổi việc ƣơng cá biển đặc
biệt các lồi cá có kích thƣớc miệng nhỏ là ln trùng loài Proales similis. Luân trùng P.
similis đƣợc Hagiwara thu thập bằng cách sử dụng lƣới phù du kích cỡ mắt 45 µm thu ở
vùng cửa sơng thuộc đảo Ishigaki, Okinawa, Nhật Bản (Hagiwara và cs., 2014). Nhiệt độ
và độ mặn lúc thu đƣợc luân trùng là 27oC và 2 ppt. Sau đó luân trùng P. similis đƣợc
thuần hóa để ni trong điều kiện phịng thí nghiệm. Tác giả đã tiến hành một loạt các thí
nghiệm để xác định vịng đời, khoảng cách giữa các thế hệ hay sức sinh sản của luân
trùng dƣới các điều kiện nhiệt độ (15, 20, 25, 30, và 35oC) và độ mặn khác nhau (2, 15,
25 ppt) (Wullur và cs., 2009). Trong quá trình thí nghiệm luân trùng đƣợc cho ăn bằng
tảo Nannocloropsis oculata (2,5x 106 tb/mL) và giữ trong mơi trƣờng tối. Vịng đời của
luân trùng P. similis từ 4,0 - 4,7 ngày, khoảng cách thế hệ từ 2,4 - 2,8 ngày, giai đoạn
sinh sản 2,9 - 3,4 ngày, sức sinh sản từ 4,3 - 7,8 trứng/cá thể (Wullur và cs., 2009). Kết
quả phân tích giá trị dinh dƣỡng luân trùng P. similis cho thấy trong cùng điều kiện nuôi
hàm lƣợng HUFA n-3 trong luân trùng P. similis cao gấp 2,6 lần so với luân trùng dòng
siêu nhỏ B. rotundiformis (Wullur và cs., 2009). Lồi ln trùng P. similis có chiều dài

ngắn hơn (38,1%) và chiều rộng hẹp hơn (60,3%) so với luân trùng dòng siêu nhỏ (sstype) B. rotundiformis (Wullur và cs., 2009).
Lồi ln trùng P. similis đặc biệt có giá trị khi ƣơng các lồi cá có kích cỡ miệng
nhỏ. Wullur (2009) đã thực hiện thí nghiệm sử dụng chúng để ƣơng cá Thiên thần C.
ferrugata, một loại cá cảnh rất khó ƣơng khi mà ấu trùng bị chết rất nhiều ở giai đoạn bắt
đầu ăn. Sử dụng luân trùng P. similis cho kết quả tỷ lệ sống cao hơn so với sử dụng các
loại thức ăn là động vật phù du khác. Kết quả cho thấy, luân trùng dòng P. similis là loại
thức ăn phù hợp để ƣơng loài cá C. ferrugata. Luân trùng P. similis cũng đƣợc sử dụng
để ƣơng thành cơng cá Mó C. undulatus, trong hai ngày đầu sau khi sử dụng thức ăn
ngoài, ấu trùng cá Mó khơng thể ăn và tiêu hóa ln trùng dịng siêu nhỏ B.
rotundiformis mà chỉ có thể tiêu hóa luân trùng P. similis (Hirai và cs., 2013). Luân trùng
dòng siêu nhỏ chỉ có thể đƣợc quan sát trong ruột ấu trùng loài cá này ở ngày thứ 5 sau
khi mở miệng (Hirai và cs., 2013). Ngồi ra, thành cơng của việc sử dụng luân trùng P.

25


×