Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận cao học kinh te chinh tri ,quan điểm của đảng cộng sản việt nam về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.05 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
1. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa....................................................................................................2
1.1. Giai đoạn trước đổi mới.................................................................................2
1.2. Giai đoạn đổi mới từ năm 1986 đến nay........................................................4
2. Thành tựu, hạn chế và những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.......................................7
2.1. Về thành tựu...................................................................................................7
2.2. Về hạn chế và nguyên nhân............................................................................9
2.2.1. Về hạn chế...................................................................................................9
2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém........................................10
2.3. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay...............................................................................10
KẾT LUẬN.........................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................14


1
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế tất yếu khách quan của nền sản xuất lưu
thông hàng hóa đã phát triển. Kinh tế thị trường ra đời như một quá trình lịch
sử tự nhiên. Lịch sử nhân loại đã trải qua các mơ hình kinh tế khác nhau như:
Kinh tế tự nhiên; kinh tế tự cung, tự cấp; kinh tế hàng hóa. Kinh tế thị trường
khơng phải là mơ hình kinh tế riêng có của một quốc gia nào. Trong bối cảnh
thế giới ngày nay kinh tế thị trường đang trở thành mơ hình kinh tế phát triển
có hiệu quả và nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam đã và đang phát triển mơ
hình này.
Trải qua hơn 85 năm xây dựng và trưởng thành, nhất là từ khi lãnh đạo nhân
dân giành được chính quyền, tiến hành các cuộc kháng chiến giành được


những thắng lợi to lớn, đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn đề ra các nhiệm
vụ cách mạng chiến lược cho mỗi giai đoạn, trong đó có nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, mỗi giai
đoạn, mỗi thời kỳ, Đảng ta có nhận thức, cách tiếp cận và đưa ra những quan
điểm lý luận về xây dựng và phát triển nền kinh tế cho từng giai đoạn phát
triển của đất nước, đặc biệt là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sau 30 năm đổi mới, nhận thức về nền kinh tế thị trường (KTTT) định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ngày càng sáng tỏ hơn. KTTT phát triển đã
góp phần khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và
những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan
trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong thời gian
tới”. Xuất phát từ lý do trên em chọn chủ đề “Quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” làm bài thu hoạch mơn Kinh tế chính trị Mác - Lênin.


2
NỘI DUNG
1. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1. Giai đoạn trước đổi mới
Trong “Chính cương vắn tắt” của Đảng ngày 3/2/1930, Hồ Chí Minh
đã chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản, nghĩa là không kinh qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Tuy nhiên, trong tác phẩm “Thường thức chính trị” năm 1953, Người đã
nói đến sự tồn tại của năm loại kinh tế khác nhau trong chế độ mới, đó là:
“Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tơ. Kinh tế quốc doanh, có tính chất
chủ nghĩa xã hội. Vì tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của nhân dân, của

Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong các xí nghiệp quốc doanh thì
xưởng trưởng, cơng trình sư, và cơng nhân đều có quyền tham gia quản lý,
đều là chủ nhân. Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ
nhân dân. Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, có tính chất nửa chủ
nghĩa xã hội. Nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để
bán những thứ mình sản xuất khơng phải kinh qua các người con bn, khơng
bị họ bóc lột. Các hội đổi cơng ở nông thôn, cũng là một loại hợp tác xã. Kinh
tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự túc ít có gì bán,
và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu. Kinh tế tư bản của tư
nhân. Họ bóc lột cơng nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng
kinh tế. Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh,
và do Nhà nước lãnh đạo”4.
Tiếp đó trong “Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ XI
Quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” năm 1959, Người đã chỉ ra:
“Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất
như sau: Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức
là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ.


3
Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản. Mục đích của chế độ ta là
xố bỏ các hình thức sở hữu khơng xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm
nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể” 5. Đồng thời Người khẳng định: “Đối với
người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách
làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự
nguyện. Đối với những nhà tư sản cơng thương, Nhà nước khơng xố bỏ quyền
sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt
động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của

Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức cơng tư hợp doanh và những hình thức cải tạo
khác”4.
Tuy nhiên, sau khi thống nhất hai miền Nam - Bắc, chúng ta đã không
quán triệt tư tuởng của Người do bệnh quan liêu, duy ý chí, nóng vội nên chính
sách kinh tế nhiều thành phần chỉ dừng lại ở lý thuyết, hình thức; nền kinh tế
lúc này chủ yếu là nền kinh tế cơng với hai hình thức: kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể. Kinh tế quốc doanh được ưu tiên phát triển, lan rộng nhanh
chóng bao trùm tồn bộ nền kinh tế quốc dân, ngược lại các hình thức khác bị
xem nhẹ, thậm chí bị cấm đốn như kinh tế tư bản tư nhân. Kết cục đó tất yếu
dẫn đến hậu quả: xã hội trì trệ, mất động lực phát triển, các nguồn lực bị lãng
phí… Đứng trước tình hình đó Đảng ta đã nhìn nhận vào thực tế và có những
bước điều chỉnh phù hợp, sự điều chỉnh được thể hiện qua nhiều Hội nghị trung
ương, cụ thể là Nghị quyết 20/NQ-TW do Hội nghị Trung ương VI khoá IV
nêu ra: Chủ trương ban hành ngay các chính sách khuyến khích sản xuất nơng
nghiệp: ổn định nghĩa vụ lương thực năm năm; bán cho Nhà nước theo giá thoả
thuận, được lưu thơng tự do, khuyến khích xuất khẩu nơng sản, sửa đổi cách
phân phối trong hợp tác xã. Ở miền Nam, cải tạo nông nghiệp phải đảm bảo


4
đúng nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi; thừa nhận nhiều thành phần kinh tế:
quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể, kể cả tư sản.
1.2. Giai đoạn đổi mới từ năm 1986 đến nay
Tính bước ngoặt của nhận thức mới của Đảng ta về các thành phần kinh
tế thể hiện rõ nét ở Đại hội VI năm 1986 - Đại hội của sự đổi mới, mà trọng
tâm là đổi mới kinh tế. Đại hội đã nhận thức lại việc phát triển kinh tế nhiều
thành phần và khẳng định: “Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản
xuất hàng hố (thợ thủ cơng, nơng dân cá thể, những người buôn bán và kinh
doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới

nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự
cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các
vùng núi cao khác”6.
Nghị quyết Đại hội VI chỉ rõ: “Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm
tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần chúng lao động hăng hái
phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Kiên
quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành đồng
bộ cơ chế kế hoạch hố theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế mới lấy kế hoạch hoá làm
trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quản lý bằng phương
pháp kinh tế là chủ yếu kết hợp với biện pháp hành chính, giáo dục, thực hiện
phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thiết lập trật tự, kỷ cương
trong mọi hoạt động kinh tế”6.
Như vậy, một mặt Đảng ta thừa nhận còn tồn tại nhiều thành phần kinh
tế, mặt khác đặt vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá
thể, tư bản tư nhân, nhưng không phải là trong một thời gian ngắn vài ba năm,
thậm chí một vài kế hoạch năm năm mà coi đó là nhiệm vụ tiến hành trong
suốt thời kỳ quá độ. Đảng chỉ rõ: “Trong điều kiện nước ta, các hình thức


5
kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế
và nằm trong cơ cấu nền kinh tế hàng hoá đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Đại hội lần thứ VII Đảng khẳng định “Cơ chế vận hành nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và
các cơng cụ khác… Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt
các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các
vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển

kinh tế và phát triển xã hội”7 và “Trong nền kinh tế thị trường, với quyền tự
do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại hình sở hữu cơ bản (sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân), sẽ hình thành nhiều thành phần kinh
tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng”7.
Những điểm mới trên đã tạo được sự bình đẳng thực sự trước pháp luật
giữa các thành phần kinh tế và mọi hình thức sở hữu, là động lực thúc đẩy sức
sản xuất trong xã hội phát triển mạnh mẽ.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục thực hiện nhất
quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần, phát huy mọi nguồn lực để
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời hồn thiện cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”8.
Đại hội IX được tiến hành vào thời điểm nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu kinh tế quan trọng sau thời kỳ đổi mới. Đại hội tiếp tục khẳng định:
“Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo đinh hương xã hội chủ nghĩa; đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chỉ nghĩa”1.


6
Từ sau Đại Hội IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nhiều Nghị
Quyết về phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân từ đó
lam cho nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển.
Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường Đảng khẳng định: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa bước đầu được xây dựng. Thị trường hàng hoá phát triển tương đối
nhanh; một số loại thị trường mới đã hình thành” 2. Tổng kết 20 năm tiến hành
công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Đảng chỉ rõ: “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự
thay đổi cơ bản và tồn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước
ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
triển vọng tốt đẹp”2.
Đại hội lần thứ XI và XII Đảng ta tiếp tục thực hiện nhất quán chủ
trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường và chỉ rõ vị trí, vai trị,
bản chất của nền kinh tế thị trường mà chung ta đang xây dựng: “Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều


7
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế...”3.
Đặc biệt trước yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và tạo cơ sở lý luận cho
việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về nền kinh tế thị trường, Hội nghị Trung
ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị quyết về “Hoàn thiện thể chế kinh tế thi
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, với nội dung trọng tâm là đổi mới cơ
chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân và
các loại hình kinh tế khác một cách đồng bộ, hiệu quả.
Như vậy, thơng qua q trình nhận thức và phát triển hệ thống lý luận

của Đảng về quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế ở nước ta chúng ta
có thể thấy rõ sự chuyển biến trong tư duy và lý luận của Đảng, cụ thể: nếu
như trước đổi mới, chủ yếu nhận thức phát triển kinh tế công hữu, trong nhận
thức cũng như trong hành động không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành
phần, thì đến nay Đảng khẳng định xây dựng nền kinh tế đa sở hữu, gắn với
dân chủ hoá kinh tế. Từ chỗ coi thành phần kinh tế quốc doanh là hình thức
cao nhất, độc quyền và phát triển với tỷ trọng lớn trong các ngành nghề, lĩnh
vực, hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân, đã đi dến khẳng định các thành
phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo và coi kinh tế tư nhận là một động lực quan trọng
của nền kinh tế.
2. Thành tựu, hạn chế và những giải pháp chủ yếu để phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
2.1. Về thành tựu
Nghị quyết Trung ương năm khóa XII Đảng chỉ rõ: Qua hơn 30 năm
đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X, Đảng ta
ln quan tâm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, rút ra các bài học kinh
nghiệm, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng


8
xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển, góp phần quan trọng
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành q́c gia có thu nhập
trung bình, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an sinh xã hội,
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ môi trường sinh thái,
củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn
thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực

tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Chế độ sở hữu, các thành phần
kinh tế, loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các quyền và nghĩa vụ về
tài sản được thể chế hóa tương đới đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm
đổi mới; kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không
ngừng lớn mạnh; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được kết quả tích cực.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ
hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh
doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh
tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo
đảm hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng
về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường
toàn cầu. Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ
chế thị trường. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh
tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia
và nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Phương thức lãnh đạo
của Đảng, hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới phù hợp hơn với


9
yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
2.2. Về hạn chế và nguyên nhân
2.2.1. Về hạn chế
Đảng chỉ rõ: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ chế,
chính sách cịn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; còn có biểu
hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và

sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn lực xã hội
chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành chính cịn chậm. Môi
trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn
định chưa cao. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ. Quyền
sở hữu tài sản chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh.
Một số loại thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn
nhiều vướng mắc, kém hiệu quả. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu
chưa được xác lập thật sự theo cơ chế thị trường.
Thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội cịn nhiều bất
cập. Bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu - nghèo có xu hướng gia tăng. Xóa
đói, giảm nghèo còn chưa bền vững.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới về kinh tế. Cơ chế kiểm
soát quyền lực, phân cơng, phân cấp cịn nhiều bất cập. Quản lý nhà nước chưa
đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hiệu
lực, hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Hội nhập kinh tế
quốc tế đạt hiệu quả chưa cao, thiếu chủ động trong phòng ngừa và xử lý tranh
chấp thương mại quốc tế.


10
2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém
Đảng chỉ rõ: những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách
quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, đặc biệt là do:
Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ.
Tư duy bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi thể
chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu
thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và chưa nghiêm. Vai trò, chức năng, phương
thức hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị chậm đổi mới phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng
ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong
thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
2.3. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Một là, Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để có nhận thức đúng về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện khung lý
luận cơ bản về mơ hình kinh tế này. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến cập nhật các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước;
những kiến thức, thông tin của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, kinh tế thị trường của các nước trên thế giới cho mọi đối tượng trong
xã hội.
Hai là, Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề
quan trọng thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển.


11
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một hệ thống
khung khổ pháp lý, các quy tắc; các chủ thể tham gia và cơ chế vận hành
Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch giữa các chủ thể kinh tế.
Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách (đặc biệt chính sách đất đai,
chính sách tài chính, chính sách tiền tệ).

Hồn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp
Hồn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các
loại thị trường.
Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển
bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phịng, an ninh, bảo vệ mơi
trường và ứng phó biến đổi khí hậu
Hồn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc
tế
Xác lập cơ chế tham gia của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội dân sự,
các tổ chức quốc tế trong quá trình thực thi và điều chỉnh thể chế.
Ba là, Tăng cường năng lực của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Các nội dung để tăng cường năng lực của doanh nghiệp: Tái cơ cấu hệ
thống doanh nghiệp; nâng cao năng lực kinh doanh và cạnh tranh của doanh
nghiệp; cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa doanh nghiệp
Bốn là, mở rộng và phát triển các yếu tố thị trường và các loại thị
trường
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường là nhân tố để giải quyết các
mối quan hệ trong nền kinh tế thị trường; đáp ứng yêu cầu đầu vào và đầu ra
của nền kinh tế.


12
Tạo môi trường (môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội) để các
yếu tố của thị trường phát triển lành mạnh, hiệu quả. Đổi mới và hoàn thiện
thể chế về giá, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, giải quyết tranh chấp; xây
dựng và thực hiện các quy định về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp
đối với người tiêu dùng, đối với bảo vệ môi trường.
Phát triển đa dạng, đồng bộ và hiện đại các loại thị trường hàng hóa,

dịch vụ cả thị trường trong và ngồi nước (đặc biệt các thị trường lớn như: thị
trường Mỹ, thị trường Châu Âu, thị trường Đông Á và các thị trường truyền
thống).
Năm là, hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm
phát triển bền vững, tiến bộ và cơng bằng xã hội, quốc phịng, an ninh, bảo vệ
mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Sáu là, hồn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, mở rộng
thị trường (trong và ngoài nước)
Khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực bên ngồi
(như: vốn, khoa học – cơng nghệ, kinh nghiệm quản lý, tổ chức vận hành nền
kinh tế thị trường hiện đại).
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng và phát triển
lợi thế quốc gia trong kinh tế đối ngoại thích nghi với sự thay đổi xu hướng
phát triển của nền kinh tế thế giới. Tìm kiếm và mở rộng các đối tác, đặc biệt là
các đối tác chiến lược, đối tác lớn. Từng bước tham gia phân công lao động
quốc tế
Bảy là, Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của
Nhà nước, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế
Nhà nước tạo lập môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội (kết
cấu hạ tầng giao thông vận tải, điện, nước, thơng tin liên lạc, tài chính, giáo


13
dục, tế và các dịch vụ khác) để thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thực
hiện bình đẳng cho các chủ thể kinh tế tham gia phát triển kinh tế xã hội.
Cải cách bộ máy và cơ chế điều tiết nền kinh tế của Nhà nước theo
hướng tinh, gọn, hiệu quả. Hồn thiện và sử dụng có hiệu lực các công cụ điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước như: luật pháp; chính sách (tiền tệ, tài chính…);

các cơng cụ kinh tế (thuế, lãi suất, tỷ giá hối đoái…) và các cơng cụ hành chính
(khi cần thiết)
Tăng cường kiểm tra, kiểm soát để điều chỉnh kịp thời sự vận hành của
nền kinh tế khi cần thiết.
Nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các
tổ chức xã hội nghề nghiệp của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.


14
KẾT LUẬN
Như vậy, q trình hồn thiện lý luận về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam là quá trình tìm tịi sáng tạo, đồng thời cũng là q
trình nhận thức và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ góp
phần thúc đẩy quá trình hồn thiện thể chế và giúp cho nền kinh tế thị trường
ở nước ta ngày càng phát triển hơn nữa từ đó góp phần vào sự phát triển thịnh
vượng chung của đất nước./.


15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ IX, Nxb CTQG,
H. 2001, tr86.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ X, Nxb CTQG,
H. 2006, tr57, tr67-68.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Nxb
CTQG, H. 2016, tr102-103.

4. Hồ Chí Minh Tồn tập Tập 7 H. 2000, tr232, tr595-596.
5. Hồ Chí Minh Tồn tập Tập 9 H. 2000, tr595.
6. Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 47 Nxb CTQG, H. 2007 tr719-720, tr
866-867.
7. Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 51 Nxb CTQG, H. 2007 tr 97, tr137, tr160161.
8. Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 55 Nxb CTQG, H. 2007 tr106.
9. Bài giảng mơn Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Viện Kinh tế chính trị,
Học việc Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.



×